Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Suy nghĩ về chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.7 KB, 6 trang )

Suy nghĩ về chiến lược phát triển giáo dục Việt
Nam

Qua phản ánh của các phương tiện truyền thông, phần lớn ý kiến
đóng góp đều không đánh giá cao bản dự thảo.
Hầu như mọi người đều không hài lòng về thực trạng của nền
giáo dục của nước ta, từ giáo dục mầm non, tiểu học cho đến bậc
cao đẳng đại học, từ đào tạo dạy nghề đến giáo dục phổ thông,
cả giáo dục sau đại học.
Trong mấy chục năm qua, đã có bao lần chúng ta cải cách giáo
dục, nhưng hình như kết quả không có gì tiến triển. Hàng năm,
cứ đến mùa thi cử, mùa ra trường của sinh viên hay mùa khai
giảng lại có hàng loạt bài báo ta thán, nêu nào đề thi lại sai, nào
sinh viên tốt nghiệp ra trường khó có việc làm vì trình độ và nội
dung học không phù hợp hay không theo kịp yêu cầu của xã hội.
Trong khi đó, phụ huynh học sinh lại kêu chương trình học quá
nặng nề, việc học thêm dạy thêm bổ sung cho thời gian học tại
lớp tràn lan ở mọi cấp lớp, làm ảnh hưởng đến sự phát triển tâm
sinh lý của học sinh ở lứa tuổi trưởng thành.
Theo nhận xét của bản dự thảo phát triển giáo dục, sự yếu kém
trên do các nguyên nhân chính sau:
a. Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu chưa thực sự được
quán triệt đúng mức ở các cấp quản lý và chỉ đạo giáo dục.
b. Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa thích ứng với nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội
nhập quốc tế.
c. Công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất cập.
Với ba nguyên nhân nêu trên, có thể nhận thấy rằng: nguyên
nhân thứ nhất là do yếu tố con người (trách nhiệm, khả năng
nhận thức kém). Nguyên nhân thứ hai và thứ ba là do xác định
mục tiêu giáo dục chưa phù hợp với yêu cầu của thời đại (tư duy


giáo dục thiếu đổi mới, tư tưởng bảo thủ lạc hậu so với thời
cuộc).
Đương nhiên, nguyên nhân đưa đến sự yếu kém của nền giáo
dục còn nhiều, trong đó có những nguyên nhân sâu xa bắt nguồn
từ cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài hàng chục năm trên đất
nước ta, đã buộc các nhà lãnh đạo vào thời kỳ đó phải tìm mọi
công cụ để chống trả, hướng dẫn nhân dân tập trung sức mạnh,
nhìn theo một hướng, tư duy theo một chiều để tạo sức mạnh tập
trung nhằm đạt đến mục tiêu thắng lợi cuối cùng.
Hay một nguyên nhân sâu xa khác, nhưng rất gần, rất thiết thân
là có những người cảm thấy bị thiệt thòi, bị mất mát bởi nhiều lý
do khác nhau trong quá khứ, hay bị hoàn cảnh nghèo khổ dai
dẳng trước đây, nay lại không yên tâm trong cuộc sống hiện tại,
do đó buộc người ta tìm mọi cách để thủ thân, tranh thủ mọi cơ
hội, mọi công cụ để vươn lên trong xã hội, cho riêng mình, cho
con cháu đời sau. Từ đó công cụ nào, phương tiện nào để đạt
được mục đích đều được người ta không ngần ngại nắm lấy để
vào đời, vào cuộc.
Nếu thang bậc xã hội dựa trên lý lịch để thăng tiến thì người ta
phải cố gắng làm việc sao cho con cháu có một bộ lý lịch tốt.
Nếu xã hội lấy bằng cấp làm thước đo thì phải cho con cháu có
bằng cấp bằng mọi cách, kể cả mua. Thậm chí con đường trực
tiếp nhất là tích lũy của cải cũng có thể mạo hiểm đánh cược
cuộc đời, có hy sinh đời bố củng cố đời con thì cũng không từ
nan.
Đây là một thực tại xã hội, là nguyên nhân sâu xa đã làm cho xã
hội chúng ta phát triển một cách méo mó, dở cười dở khóc. Cười
là vì đời sống kinh tế của mọi người đã không ngừng được cải
thiện, nhưng lại phải khóc bởi đạo đức xã hội càng ngày càng
suy đồi. Những con bệnh như tham nhũng, mua quan bán chức,

bằng thật học giả, học sinh “ngồi nhầm” lớp, thầy dạy “nhầm”
kiến thức, các cơ quan công quyền, doanh nghiệp trên dưới đều
phải thỏa hiệp, thậm chí luồn cúi để được việc cho riêng mình…
Các hiện tượng trên đều có nguồn gốc từ nguyên nhân sâu xa
vừa nói.
Vai trò thiêng liêng của giáo dục là đào tạo nên con người,
nhưng trước thực trạng của thời cuộc, chúng ta cần nhìn ra các
tiền đề ràng buộc khách quan của giáo dục như sau:
- Con người mới được sinh ra và lớn lên trong lòng xã hội nên bị
ảnh hưởng bởi bản chất của xã hội đó một cách tự nhiên.
- Con người mới phải được nuôi dưỡng, giáo dục sao cho ngày
càng hoàn thiện hơn về mọi mặt để làm cho xã hội ngày càng
tiến bộ văn minh hơn. Đó là trách nhiệm của giáo dục.
- Kiến thức con người của hệ thống giáo dục đương đại phần lớn
được hình thành từ xã hội trước đó.
Từ những tiền đề ràng buộc có tính khách quan như trên, một số
nhận thức mà ngành giáo dục phải có là:
1- Những người làm công tác giáo dục phải là người có tư duy
sáng tạo, luôn tìm ra cái mới tích cực hơn. Nếu không có điều
kiện này thì họ chỉ dạy những điều mà xã hội cũ đã dạy cho họ,
như thế sẽ không phù hợp cho ngành giáo dục.
2- Để có tư duy sáng tạo thì xã hội, nhà nước phải tạo điều kiện
để các nhà giáo cần được tự do tư duy và không ngừng cập nhật
thông tin, cập nhật kiến thức, tiếp cận với cái mới.
3- Bản thân người làm công tác giáo dục phải là một chuẩn mực
trong cuộc sống, cả về vật chất lẫn tinh thần. Họ phải là tấm
gương cho lớp người mới tiếp cận noi theo để rèn luyện tinh
thần đạo đức con người của xã hội mới tốt đẹp hơn (cơ chế đảm
bảo cho cuộc sống chuẩn mực).
4- Nội dung giáo dục không những nhắm vào lớp người vừa

sinh ra và trong độ tuổi tiếp nhận giáo dục mà còn có chức năng
cải tạo con người đương thời. Do đó luật pháp xã hội không
được khác với nội dung tinh thần giáo dục, không dung dưỡng
những tệ nạn xã hội.
5- Giáo dục phải đồng thời làm tốt hai nhiệm vụ là:
- Rèn luyện tư duy, hình thành chuẩn mực giá trị nhân cách đạo
đức xã hội, cũng như ý nghĩa, lẽ sống của con người.
- Đào tạo kiến thức, kỹ năng tổ chức cuộc sống cho bản thân,
cho gia đình, cho cộng đồng xã hội.
Từ những nhận định nêu trên, có thể xác định được mục tiêu nội
dung cũng như vai trò chức năng cơ bản xuyên suốt của ngành
giáo dục. Qua đó, theo điều kiện khả năng thực sự của đất nước
về nguồn nhân lực, tài chính, dựa vào những yêu cầu trước mắt
hay từng giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội mà đặt ra kế hoạch
thực hiện mục tiêu giáo dục tương ứng, sau đó mới phác họa
được nội dung chiến lược phát triển giáo dục của nước ta.
Một chiến lược phát triển giáo dục phải có mục tiêu to lớn toàn
diện nhằm giải quyết những vấn đề yếu kém cơ bản có nguyên
nhân sâu xa như đã nêu trên. Đồng thời cần có những kế hoạch
thực hiện nhằm giải quyết từng mục tiêu cụ thể theo yêu cầu
phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Một chiến lược có thể
thực hiện trong 15 năm, 25 năm hay lâu hơn và thực hiện bằng
nhiều kế hoạch cụ thể được chia theo giai đoạn thời gian và
được chỉ đạo theo nội dung phương án, trong đó có kế hoạch
năm năm tới, hay từ nay đến năm 2020 với những chỉ tiêu cụ
thể.
Bên cạnh đó có những phương án đào tạo lực lượng lao động
cho nền kinh tế, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý
cho mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực, cho đất nước trong tương lai,
nhằm xây dựng nên hình ảnh con người Việt Nam, văn hóa Việt

Nam, một đất nước Việt Nam theo đúng “Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Trở lại bản dự thảo chiến lược phát triển giáo dục, nhóm tác giả
có nêu những nguyên nhân tạo nên sự yếu kém của nền giáo dục
nước ta mấy chục năm qua, nhưng tiếc thay khi đưa ra những
giải pháp thì không thấy đề ra hướng khắc phục. Phải chăng
những người đang xây dựng bản dự thảo chiến lược phát triển
giáo dục chưa vượt qua được những nguyên nhân yếu kém vừa
được đề cập đến, giống như người bị lún vào vũng sình lầy thì
không thể tự kéo đầu mình lên để thoát thân được

×