Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Bài tập lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh Trường đại học Bách Khoa TPHCM. Đề tài: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA. LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRONG XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA MỚI TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 48 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................................ II
MỞ ĐẦU......................................................................................................................... IV
1.

Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................... iv

2.

Giới thiệu đề tài ........................................................................................................ iv

3.

Nhiệm vụ của đề tài ................................................................................................... v

NỘI DUNG ....................................................................................................................... 1
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa ........................................................................... 1

1.

1.1.
khác

Một số nhận thứ chung về văn hóa và quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực
.......................................................................................................................... 1

1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa ..................................................... 1
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực
khác

...................................................................................................................... 4



1.2.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vai trị khác của văn hóa......................... 8

1.2.1. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng ............................ 8
1.2.2. Văn hóa là một mặt trận ............................................................................. 11
1.2.3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân...................................................... 15
1.3.

Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới ................................ 17

1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ................................... 17
1.3.2. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp ................................................... 19
1.3.3. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. ................................................. 20
2.

Liên hệ đến việc phát huy vai trò của sinh viên trong xây dựng nền văn hóa mới

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay............................................................ 22
2.1.

Thực trạng của việc phát huy vai trò của sinh viên trong xây dựng nền văn

hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay ......................................... 22
2.1.1. Ưu điểm của việc phát huy vai trò của sinh viên trong xây dựng nền văn
hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay ..................................... 22
2.1.2. Khuyết điểm của việc phát huy vai trị của sinh viên trong xây dựng nền
văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay .............................. 27


ii


2.2.

Giải pháp để phát huy vai trò của sinh viên trong xây dựng nền văn hóa mới

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay ....................................................... 32
2.2.1. Giải pháp để phát huy vai trò của sinh viên trong xây dựng nền văn hóa
mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay ........................................... 32
2.2.2. Giải pháp để khắc phục những khuyết điểm của sinh viên trong xây dựng
nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay ....................... 36
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................. 1

iii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước. Tư tưởng ấy, ngay từ những năm trước Cách mạng Tháng Tám 1945
đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng.
Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa đăng trên Báo Cứu quốc, số
ra ngày 05/01/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một
mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vị trí, vai trị quan trọng của văn
hóa, nghệ thuật đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; đồng thời tin tưởng,
mong muốn công tác giáo dục, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ họa sĩ đi đầu xung kích,
sáng tạo trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; xứng đáng là chiến sĩ cách mạng trên mặt

trận văn hóa nghệ thuật.
Lời dạy nhanh chóng được anh chị em họa sĩ cả nước đón nhận, hun đúc tinh
thần thi đua yêu nước, hăng say, sáng tạo nhiều tác phẩm văn hóa, nghệ thuật phục vụ
cơng cuộc kháng chiến, kiến quốc.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa đã trở thành ngọn đèn sáng rọi. Đây
không chỉ là một cuộc nghiên cứu về lý thuyết, mà còn là một sứ mệnh thiêng liêng
đối với chúng ta, một nhiệm vụ thực tế và cụ thể. Những ý tưởng của Người về văn
hóa định hình tương lai của đất nước và thúc đẩy sự phát triển một Việt Nam giàu
mạnh. Trong suốt cuộc đời của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đặt quan tâm hàng
đầu đến cuộc sống và tương lai của nhân dân, đặc biệt là về sự ưu tiên về văn hóa. Đó
là sứ mệnh của chúng ta, đồng hành với tư tưởng và di sản của Người.
Đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Liên hệ đến việc phát huy vai trị của
sinh viên trong xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt
Nam hiện nay” ra đời để tìm hiểu và khám phá những điều vừa kể trên.
2. Giới thiệu đề tài
Thông qua đề tài “Tư tưởng hồ chí minh về văn hóa. Liên hệ đến việc phát huy
vai trò của sinh viên trong xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc ở việt nam hiện nay”, nhóm mong muốn nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh về
iv


văn hóa và liên hệ đến việc phát huy vai trị của sinh viên trong xây dựng nền văn hóa
mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Mục tiêu của đề tài là để khẳng định giá trị của việc phát triển nền văn hóa mới
theo góc nhìn của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời nhận diện vai trò và trách nhiệm
của sinh viên là những người tiên phong và nịng cốt trong cơng cuộc này.
Đề tài có ý nghĩa thực tiễn và lý luận trong việc giáo dục và rèn luyện sinh viên
về ý thức văn hóa, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, và khuyến khích sự sáng tạo và đóng
góp vào việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam.
Nội dung được chia thành hai phần chính:

Phần 1: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Văn hóa – cơ sở lý thuyết, trong đó
trình bày những quan điểm cốt lõi của Hồ Chí Minh về văn hóa;
Phần 2: Liên hệ đến việc phát huy vai trò của sinh viên trong xây dựng nền văn
hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay – đây là phần liên hệ
thực tế, trong đó phân tích vai trị của sinh viên trong xây dựng nền văn hóa mới, cách
triển khai tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác giáo dục và đào tạo sinh viên, và các
thách thức và giải pháp để thực hiện mục tiêu này.
3. Nhiệm vụ của đề tài
Trình bày và phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Nêu rõ vai trò và hiện trạng của sinh viên trong q trình học tập và phát huy tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
Đưa ra các giải pháp trong quá trình học tập và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa đối với sinh viên hiện nay.

v


NỘI DUNG
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
1.1. Một số nhận thứ chung về văn hóa và quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh
vực khác
Một trong những người đưa ra khái niệm văn hoá sớm nhất là E. B. Taylo. Trong
cuốn Văn hố ngun thuỷ (1887), ơng quan niệm văn hoá là một phức hợp nhiều
mặt, do con người tạo nên và mang tính xã hội.
Cách hiểu văn hố ở phương Đơng và phương Tây cũng có sự khác nhau, nhưng
đều phản ánh tính giá trị, thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người, làm cho
con người và xã hội ngày một tiến bộ hơn, ngày càng xa rời trạng thái nguyên sơ,
khẳng định tính người.
UNESCO từ lúc được thành lập đến nay đã đưa ra một số định nghĩa về văn hoá.
Theo tổ chức này, văn hoá là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, văn

hoá giúp cho con người tự hồn thiện, quyết định tính cách riêng của một xã hội, làm
cho dân tộc này khác dân tộc khác.
Bàn về văn hố, người ta cịn cho rằng, đó là sự hiểu biết, phát triển nội tại bên
trong của một con người, một dân tộc, tạo ra lối ứng xử, biểu hiện trình độ “người”
trong các quan hệ.
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa
Hồ Chí Minh, người được biết đến là người sáng lập và lãnh đạo Cách mạng
Việt Nam, có quan niệm về văn hóa đặc biệt. Ơng xem xét văn hóa khơng chỉ là một
phần quan trọng của đời sống con người mà cịn là một cơng cụ quan trọng trong cuộc
chiến tranh cách mạng và xây dựng xã hội mới. Dưới đây là một số điểm quan trọng
về quan niệm về văn hóa của Hồ Chí Minh:
Văn hóa dân tộc: Hồ Chí Minh luôn coi trọng và tôn trọng các giá trị văn hóa
dân tộc Việt Nam. Ơng thúc đẩy việc bảo tồn và phát triển các phong tục, tập quán,
ngôn ngữ, và văn hóa truyền thống của Việt Nam.
Văn hóa và cách mạng: Hồ Chí Minh tin rằng văn hóa cần phải phục vụ mục
tiêu cách mạng, tức là giúp xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ. Ơng
xem xét văn hóa là một cơng cụ quan trọng để tạo ra sự thay đổi xã hội.
1


Văn hóa và giáo dục: Hồ Chí Minh coi giáo dục là một phần quan trọng của
văn hóa và xem xét nó như một cách để nâng cao kiến thức và sự hiểu biết của nhân
dân. Ông thúc đẩy việc cải thiện hệ thống giáo dục và tạo điều kiện cho mọi người có
cơ hội học tập.
Văn hóa và tình thần đồn kết: Ơng Hồ coi văn hóa như một yếu tố quan trọng
trong việc thắt chặt tình thần đồn kết và sự đồn kết trong xã hội. Ơng khuyến khích
tất cả các tầng lớp nhân dân tham gia vào các hoạt động văn hóa để thúc đẩy tinh thần
đồn kết và sự đồng lịng.
Như vậy, Hồ Chí Minh xem xét văn hóa như một phần khơng thể thiếu của xã
hội và cách mạng, và ông luôn coi trọng việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc

Việt Nam để đạt được mục tiêu xây dựng một xã hội tiến bộ và cơng bằng.
Hồ Chí Minh có bốn cách tiếp cận chủ yếu về văn hóa: Một là, tiếp cận theo
nghĩa rộng, tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt của con người; hai là, tiếp cận theo
nghĩa hẹp là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng; ba là, tiếp cận
theo nghĩa hẹp hơn là bàn đến các trường học, số người đi học, xóa nạn mù chữ, biết
đọc, biết viết (thường xuất hiện trong các bài nói với đồng bào miền núi); bốn là, tiếp
cận theo “phương thức sử dụng công cụ sinh hoạt”.
Tháng 8/1943, khi còn ở trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh đã
đưa ra quan niệm nhấn mạnh ý nghĩa của văn hóa. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1.
Quan niệm văn hóa nêu trên của Người xuất hiện trong một bối cảnh thời gian và
không gian đặc biệt, khi UNESCO chưa được thành lập và cả nước đang tập trung cho
nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Đây cũng là quan niệm duy nhất của Chủ tịch Hồ Chí
Minh theo nghĩa rộng, vì từ sau Cách mạng Tháng Tám, khi Chủ tịch bàn đến văn hóa

1

Hồ Chí Minh: Tồn tập , Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, t.3, tr.431.

2


chỉ sử dụng các cách tiếp cận theo nghĩa hẹp – hướng tiếp cận thứ 2 nêu ở trên.
Qua ý kiến trên đã thể hiện được nhận thức như thế nào ở Người về vấn đề văn
hóa, và tại sao về sau Bác khơng tiếp cận chủ đề văn hóa theo nghĩa rộng như vậy

nữa?
Trước tiên, qua quan điểm trên của Bác từ những ngày đất nước chưa được giải
phóng, khi tổ chức về văn hóa của Liên hợp quốc cịn chưa được thành lập, tưởng
chừng mục tiêu tồn bộ phải đặt vào giải phóng dân tộc, nhưng Bác đã thể hiện một
tầm nhìn rất xa ln giữ văn hóa ở một vị thế rất cao trong tư tưởng của mình. Bởi
trong thời khắc bị đơ hộ, xâm lược, văn hóa chính là cốt lõi giúp dân tộc ta vẫn giữ
được tinh thần đồn kết, tình u với Tổ quốc để cùng nhau đứng lên chiến đấu. Nên
giữ được bản sắc văn hóa cũng chính là giữ ngọn lửa cách mạng vậy.
Ở đây cách tiếp cận theo nghĩa rộng của Người biểu diễn văn hóa chính là tổng
hợp mọi phương thức sinh hoạt của con người, văn hóa khơng được tạo ra vì mục đích
cụ thể nào cả mà chính sự sinh tồn của con người cần phải sáng tạo ra văn hóa để thích
ứng những nhu cầu của đời sống. Điểm đặc sắc và độc đáo trong định nghĩa này là
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến một vấn đề rất quan trọng: Phương thức sử
dụng các kết quả của sự sáng tạo. Đây chính là thước đo trình độ văn hóa của con
người. Nếu phương thức sử dụng đúng, nó sẽ nhân đạo hóa đời sống xã hội.
Về sau Bác Hồ chỉ đề cập đến văn hóa theo nghĩa hẹp, mục đích diễn giải một
cách cụ thể, dễ hiểu hơn, hướng trọng tâm văn hóa là đời sống tinh thần, thay vì bao
qt tồn bộ. Nhờ vậy sẽ dễ truyền đạt tư tưởng đến mọi người và áp dụng các chính
sách, chủ trương vào đời sống một cách chính xác hơn.
Tóm lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi văn hóa là một yếu tố quan trọng trong cuộc
cách mạng và xây dựng xã hội mới. Người tơn trọng giá trị văn hóa dân tộc, xem xét
văn hóa như một cơng cụ quan trọng để thúc đẩy sự thay đổi xã hội và tạo sự đoàn kết
trong xã hội. Dù ban đầu có quan điểm về văn hóa theo nghĩa rộng, sau Cách mạng
Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung vào các khía cạnh cụ thể và tiếp cận văn
hóa theo nghĩa hẹp hơn để áp dụng chính sách và chủ trương một cách hiệu quả, nhằm
xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, tiến bộ, văn minh trong bối cảnh lịch sử Việt
Nam đầy biến đổi.
3



1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực
khác
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trong đời sống có bốn vấn đề phải được coi là
quan trọng ngang nhau và có sự tác động qua lại lẫn nhau, đó là chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. “Trong cơng cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến,
cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa1“.
Quan hệ giữa văn hóa và chính trị: Hồ Chí Minh coi văn hóa và chính trị là hai
khía cạnh khơng thể tách rời của cuộc sống xã hội. Ơng tin rằng văn hóa có vai trị
quan trọng trong việc hình thành tình thần đồn kết, lịng yêu nước, và ý thức cách
mạng của nhân dân. Đồng thời, chính trị có thể tác động đến văn hóa thơng qua việc
quyết định chính sách và quản lý cuộc sống xã hội.
Dưới chế độ thực dân và phong kiến nhân dân ta bị nơ lệ, bị đàn áp, thì văn nghệ
cũng bị nô lệ, không thể phát triển. Ở nước Việt Nam thuộc địa, trước hết phải tiến
hành cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, xóa ách nơ lệ, thiết lập nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Đó chính là sự giải phóng chính trị để mở đường cho
văn hóa phát triển. Quan điểm của Hồ Chí Minh đã đượcthực tiễn Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
Để văn hố phát triển tự do thì phải làm cách mạng chính trị trước. Ở Việt Nam,
tiến hành cách mạng chính trị, thực chất là tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc để giành chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn
hố, mở đường cho văn hố phát triển.
Văn hóa khơng thể đứng ngồi mà phải ở trong chính trị, tức là văn hóa phải
phục vụ nhiệm vụ chính trị; đồng thời mọi hoạt động của tổ chức và nhà chính trị phải
có hàm lượng văn hóa. “Văn hóa ở trong chính trị” tức văn hóa phải tham gia vào
nhiệm vụ chính trị, tham gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh nêu rõ: “Văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa”, hoặc
đường lối kháng chiến toàn diện, thi đua trên mọi lĩnh vực,... là với ý nghĩa như vậy.
Ngược lại, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính trị mà thiếu văn hóa, khơng gắn với
những hoạt động đời thường của con người, không xuất phát từ tình u thương con


1

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 10 - tr.60

4


người, khơng gắn với dân gian thì đó là thứ chính trị tầm thường, thơ thiển, là coi nhẹ
và làm mờ nhạt chính trị, tự thủ tiêu chính trị. Điều đặc biệt ở Chủ tịch Hồ Chí Minh là
tư tưởng chính trị của Người ln được thể hiện dưới dạng văn hóa, đi vào lịng người
bằng văn hóa, tức là giáo dục, thuyết phục bằng cảm hóa.
Quan hệ giữa văn hóa và kinh tế: Hồ Chí Minh nhận thấy rằng văn hóa có thể
góp phần vào sự phát triển kinh tế. Sự nâng cao của văn hóa và giáo dục có thể cải
thiện trình độ học vấn và kỹ năng của nhân dân, từ đó tạo điều kiện tốt hơn cho sự phát
triển kinh tế và công nghiệp của đất nước.
“Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao
khơng nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được
đạo; vì thế kinh tế phải đi trước1“. Quan điểm của Người chỉ rõ kinh tế chính là cơ sở
của văn hóa; do đó, kinh tế phải đi trước một bước, phải chú trọng xây dựng kinh tế,
xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa.
Trong mối quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh giải thích rằng, văn hóa thuộc kiến
trúc thượng tầng. Vì vậy, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới
kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được. Tuy nhiên, văn hóa cũng khơng thể
dứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế, nghĩa là văn hóa khơng hồn tồn phụ thuộc
vào kinh tế, mà có vai trị tác động tích cực trở lại kinh tế. Sự phát triển của chính trị,
kinh tế, xã hội, sẽ thúc đẩy văn hóa phát triển; ngược lại, mỗi bước phát triển của kinh
tế, chính trị, xã hội đều có sự khai sáng của văn hóa.
Đồng thời, đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy
mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của

nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hịa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh2“. Quan điểm này của Người khẳng định
rằng văn hóa có tính tích cực, chủ động, là động lực của kinh tế và chính trị, vì thế văn
hóa phải ở trong kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Quan hệ giữa văn hóa và xã hội: Hồ Chí Minh coi văn hóa là một phần của
cuộc sống xã hội và xem xét nó như một cơ sở để thể hiện giá trị và tinh thần của xã
1
2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 12, tr. 470
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 10, tr. 458 - 459

5


hội. Ơng khuyến khích việc sáng tạo văn hóa và nghệ thuật để phản ánh cuộc sống xã
hội, nhấn mạnh vai trị của nghệ thuật và văn hóa trong việc giữ gìn và thay đổi xã hội.
Giải phóng chính trị đồng nghĩa với giải phóng xã hội, từ đó văn hóa mới có điều
kiện phát triển. Xã hội thế nào văn hóa thế ấy. Văn học, nghệ thuật của dân tộc Việt
Nam rất phong phú, nhưng trong chế độ nô lệ của kẻ áp bức, thi văn nghệ cũng bị nơ
lệ, khơng thể phát triển được. Vì vậy, phải làm cách mạng giải phóng dân tộc, giành
chính quyền về tay nhân dân, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, đưa Đảng Cộng
sản Việt Nam lên địa vị cảm quyền, thì mới giải phóng được văn hóa.
Về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại
Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị văn hóa bền vững của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam; là thành quả của quá trình lao động, sản xuất, chiến đấu và giao lưu
của con người Việt Nam.
Bản sắc văn hóa dân tộc được nhìn nhận qua hai lớp quan hệ. Về nội dung, đó là
lịng u nước, thương nổi. tinh thần độc lập, tự cường, tự tôn dân tộc... Về hình thức,
cốt cách văn hóa dân tộc biểu hiện ở ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lễ hội, truyền

thống, cách cảm và nghĩ.
Bản sắc văn hóa dân tộc chứa đựng giá trị lớn và có một ý nghĩa quan trọng đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nó phản ánh những nét độc đáo, đặc tính
dân tộc. Nó là ngọn nguồn đi tới chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh nói rằng, âm
nhạc dân tộc ta rất độc đảo, phải khai thác và phát triển lên; rằng, những người cộng
sân chúng ta rất q trọng cổ điển, có nhiều dịng suối tiến bộ chảy từ những ngọn
nguồn cổ diễn đó; vì vậy, trách nhiệm của con người Việt Nam là phải trân trọng. khai
thác, giữ gìn, phát huy, phát triển những giá trị của văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn lịch sử. Theo Người: “Dân ta phải biết sử ta.
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”1. Chăm lo cốt cách dân tộc, đồng thời cần
triệt để tẩy trừ mọi di hại thuộc địa và anh hưởng nơ dịch của văn hóa đế quốc, tơn
trọng phong tục tập qn, văn hóa của các dân tộc ít người.
Trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Tiếp biến văn hóa (tiếp nhận và biến đổi) là một quy luật của văn hóa. Theo Hồ

1

Hồ Chí Minh: Toàn tập , Sđd, t.3, tr.255

6


Chí Minh, “văn hóa Việt Nam ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đơng phương và Tây
phương chung đúc lại... Tây phương hay Đơng phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra
một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa
nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với
tinh thần dân chủ”1.
Hồ Chí Minh chú trọng chất lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Trao đổi với một nhà
văn Liên Xô, Người nhấn mạnh rằng: “Các bạn chớ hiểu là tôi cho rằng chúng tôi cần
dứt bỏ văn hóa nào đó, dù là văn hóa Pháp đi nữa. Ngược lại, tơi muốn nói điều khác.

Nói đến việc mở rộng kiến thức của mình về văn hóa thế giới, mà đặc biệt hiện nay là
văn hóa Xơ viết - chúng tôi thiếu – nhưng đồng thời tránh nguy cơ trở thành kẻ bắt
chước... Văn hóa của các dân tộc khác cần phải được nghiên cứu tồn diện, chỉ có
trong trường hợp đó mới có thể được nhiều hơn cho văn hóa của chính mình”2. Nhận
diện về hiện tượng văn hóa Hổ Chí Minh, một nhà báo Mỹ viết: “Cụ Hồ không phải là
một người dân tộc chủ nghĩa hẹp hịi, mà cụ là một người u mền văn hóa Pháp trong
khi chống thực dân Pháp, một con người biết coi trọng những truyền thống cách mạng
Mỹ trong khi Mỹ phá hoại đất nước cụ”3.
Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của việc tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu
cho văn hóa Việt Nam, xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ. Nội
dung tiếp thu là tồn diện bao gồm Đơng, Tây, kim, cổ, tất cả các mặt, các khía cạnh.
Tiêu chí tiếp thu là có cái gì hay, cái gì tốt là ta học lấy. Mối quan hệ giữa giữ gìn cốt
cách văn hóa dân tộc và tiếp thu văn hóa nhân loại là phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc,
đó là điều kiện, cơ sở để tiếp thu văn hóa nhân loại.
Nhận diện về tư tưởng của Hồ Chí Minh, một nhà báo Mỹ viết: “Cụ Hồ không
phải là một người dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi, mà cụ là một người yêu mến văn hóa
Pháp trong khi chống thực dân Pháp, một con người biết coi trọng những truyền thống
cách mạng Mỹ trong khi Mỹ phá hoại đất nước cụ4“.
Vậy tại sao dân tộc ta đã có một truyền thống tốt đẹp như vậy, khơng giữ ngun

Hồ Chí Minh: Về văn hóa , Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, H.1997, tr.350.
Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận , tr.516-517.
3
Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thần truyền thống của dân Việt Nam , Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993,
tr.331.
4
Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb.Văn học, tr.516-517
1
2


7


như thế mà phải đi học hỏi từ những nước khác kẻ đã thực hiện xâm lược nước ta?
Tư tưởng Hồ Chí Minh phát triển từ Chủ nghĩa Mac-Lenin ln xem xét sự vật
hiện tượng trong trạng thái chuyển động khơng ngừng và kết hợp cả tính chất lịch sử
lẫn khoa học. Nên văn hóa dân tộc ta tuy đã tốt nhưng nhìn vào thực tại bị xâm lược,
thì để tiến về phía trước đồng nghĩa cần phải bổ sung và cải thiện hơn. Còn nước đế
quốc lúc này đang gây thù với dân ta nhưng nhìn về quá khứ dân tộc đó cũng có những
cuộc cách mạng đáng học hỏi, và nhìn về tương lai nước ta ln chủ trương hịa bình
nên khơng nên mang tư tưởng thù ghét nhau mãi và phủ nhận những điều hay từ văn
hóa đối phương.
Tóm lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra sự quan trọng của bốn khía cạnh trong
cuộc sống xã hội, đó là chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Người thể hiện sự tương
tác mật thiết giữa văn hóa và các khía cạnh khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh tin rằng văn
hóa khơng phải là một thực thể đứng riêng biệt mà luôn tương tác với chính trị, kinh tế
và xã hội. Người thúc đẩy sự đồng thuận và phối hợp giữa các lĩnh vực này để đảm
bảo phát triển toàn diện và bền vững cho đất nước, thể hiện tầm quan trọng của văn
hóa như một phần không thể thiếu của cuộc sống xã hội và cơ sở để thúc đẩy phát triển
toàn diện của đất nước.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vai trị khác của văn hóa
1.2.1. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
Văn hóa là mục tiêu cách mạng: Hồ Chí Minh tin rằng mục tiêu cuối cùng của
cách mạng là xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ. Để đạt được mục
tiêu này, ơng coi việc thay đổi văn hóa là điều cực kỳ quan trọng. Ông mong muốn xây
dựng một nền văn hóa cách mạng, tạo ra sự thay đổi trong tư duy, giá trị, và hành vi
của nhân dân.
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa nằm trong mục tiêu chung của tồn bộ tiến trình cách mạng.

Theo quan điểm Hồ Chí Minh, văn hóa là mục tiêu - nhìn một cách tổng quát - là
quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc là khát vọng
của nhân dân về các giá trị chân, thiện, mỹ. Đó là một xã hội dân chủ - dân là chủ và
8


dân làm chủ - công bang, văn minh, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành,
một xã hội mà đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân luôn luôn được quan tâm và
không ngừng nâng cao, con người có điều kiện phát triển tồn diện.
Đó là một viễn cảnh, ước mơ rất cao đẹp của Bác về những tính chất tốt đẹp khi
đất nước đã thành công tiến lên chủ nghĩa xã hội. Một xã hội bình đẳng, ấm no, các giá
trị tinh thần luôn được xem trọng và đặt ngang hàng với vật chất, cùng nỗ lực của con
người để liên tục phát triển bản thân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở cho một xã hội phát triển bền vững với ba trụ
cột là bền vững về kinh tế, xã hội và mơi trường. Cho thấy tầm nhìn xa của Bác, với
một quốc gia để dễ dàng và nhanh nhất nhìn thấy sự phát triển thì nên ưu tiên kinh tế,
nhưng về lâu dài để bền vững thì ngay từ đầu vẫn phải tập trung phát triển và bảo tồn
cả văn hóa và mơi trường. Bởi đồng nghĩa với việc u cầu nhiều thời gian để hình
thành hơn thì nếu khơng chú trọng giữ gìn các giá trị về văn hóa và mơi trường sẽ rất
khó để khơi phục lại được, trong khi hậu quả của việc đó là khơng nhỏ chút nào. Một
dân tộc có giàu có về kinh tế nhưng văn hóa bị mai một sẽ khơng thể đồn kết và vững
vàng trước khó khăn, cũng như nếu mơi trường sống bị hủy hoại thì có bao nhiêu tiền
cũng khơng khơi phục lại được.
Văn hóa là động lực cách mạng: Hồ Chí Minh thấy rằng văn hóa có khả năng
tạo động lực mạnh mẽ để thúc đẩy sự phấn đấu của nhân dân trong cuộc chiến đấu
cách mạng. Sự tạo hình tinh thần đồn kết, lịng u nước, và tình thần hy sinh thơng
qua văn hóa là điều quan trọng để giữ cho cuộc cách mạng trường tồn và thắng lợi.
Bác từng nói đến “văn hố soi đường cho quốc dân đi”, “phải đem văn hoá lãnh
đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”1 , phải “xúc tiến cơng tác văn
hố để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc”2 .

Văn hoá như một động lực thúc đẩy các dân tộc đoàn kết và hiểu biết lẫn nhau.
Với nhận thức như vậy, bằng sự nỗ lực hoạt động khơng mệt mỏi trên mặt trận văn hố
thơng qua sách, báo, văn thơ... Hồ Chí Minh làm cho các dân tộc hiểu rõ bản chất của
chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa và con đường cách mạng chân chính cần phải
thực hiện. Trong Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Chí Cơng
1
2

Hồ Chí Minh: Về cơng tác văn hóa văn nghệ , Nxb. Sự thật, H.1971, tr.72.
Hồ Chí Minh: Tồn tập , Sđd, t.6, tr.173.

9


nói: “Văn hố là sợi dây có khả năng nối liền nhân dân các nước và các dân tộc… Sự
hiểu biết lẫn nhau, sự học tập và tôn trọng nhau xưa nay đều thể hiện sâu sắc qua văn
hoá, nơi tập trung những biểu hiện rực rỡ nhất của tâm huyết và sức sáng tạo của con
người”1 .
Động lực là cái thúc đẩy cho sự phát triển. Di sản Hồ Chí Minh cho thấy động
lực phát triển đất nước bao gồm động lực vật chất và tinh thần động lực cộng đồng và
cá nhân; nội lực và ngoại lực. Tất cả quy tụ ở con người và đều có thể được xem xét
dưới góc độ văn hóa. Tuy nhiên, nếu tiếp cận các lĩnh vực văn hóa cụ thể trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, động lực có thể nhận thức ở các phương diện chủ yếu sau:
- Văn hóa chính trị là một trong những động lực có ý nghĩa sai đường cho quốc
dân đi lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Tư duy biện chứng.
độc lập, tự chủ, sáng tạo của cán bộ, đảng viên là một động lực lớn dẫn đến tư tưởng
và hành động cách mạng có chất lượng khoa học và cách mạng.
- Văn hóa văn nghệ góp phần nâng cao lịng u nước, lý tưởng, tình cảm cách
mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cách
mạng.

- Văn hóa giáo dục diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu biết quy luật
phát triển của xã hội. Với sứ mệnh “trồng người”, văn hóa giáo dục đào tạo con người
mới, cán bộ mới, nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cách mạng.
- Văn hóa đạo đức, lối sống nâng cao phẩm giá, phong cách lãnh mạnh cho con
người, hướng con người tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Theo quan điểm của Hồ Chí
Minh, đạo đức là gốc của người cách mạng. Mọi việc thành hay là bại, là do cán bộ có
thấm nhuần đạo đức cách mạng hay khơng. Nhận thức như vậy để thấy văn hóa đạo
đức là một động lực lớn thúc đẩy cách mạng phát triển.
- Văn hóa pháp luật bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.
Văn hóa giúp xây dựng tư duy cách mạng: Hồ Chí Minh coi văn hóa là công cụ
để thay đổi tư duy của con người. Ông mong muốn văn hóa cách mạng có thể thúc đẩy

1

Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam: Chủ tịch Hồ Chí Minh: Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa ,

Nxb. Khoa học xã hội, H. 1990, tr.14.

10


sự hiểu biết về mục tiêu và lý tưởng của cách mạng, và từ đó, thúc đẩy sự tham gia
tích cực của nhân dân trong việc xây dựng xã hội mới.
Hồ Chí Minh cho rằng, văn hố có tác dụng “sửa đổi tham nhũng, lười biếng,
phù hoa, xa xỉ, sửa xã hội cũ, xây xã hội mới”. Văn hoá tạo sức mạnh để chiến thắng
ngoại xâm theo tinh thần “văn minh thắng bạo tàn” . Kinh tế nâng cao đời sống vật
chất, cịn văn hố có tác dụng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Nếu hiểu “văn hoá là tất cả những gì khơng phải thiên nhiên, nghĩa là tất cả
những gì do con người, ở trong con người và liên quan trực tiếp nhất đến con người”
thì khi chúng ta bàn tới con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là thể hiện rõ rệt nhất

cả khái niệm văn hoá, cả bản chất của văn hoá theo ý nghĩa vừa là động lực, vừa là
mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải
trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” 1. “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”… Con người có đạo đức, trí
tuệ, văn hoá, sức khoẻ vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là mục tiêu của
sự nghiệp cách mạng.
Tóm lại, Hồ Chí Minh coi văn hóa khơng chỉ là một phần của cuộc sống mà còn
là mục tiêu và động lực quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Ơng
thấy rằng văn hóa có khả năng thay đổi tư duy, hình thành tinh thần đồn kết và yêu
nước, và tạo ra sự động viên để nhân dân tham gia vào cuộc cách mạng và xây dựng
xã hội mới.
1.2.2. Văn hóa là một mặt trận
Nói mặt trận văn hóa là nói đến một lĩnh vực hoạt động có tính độc lập, có mối
quan hệ mật thiết với các lĩnh vực khác, đồng thời phản ánh tính chất cam go, quyết
liệt của hoạt động văn hóa. Tư tưởng về mặt trận văn hoá và chiến sĩ văn hố ở Hồ Chí
Minh được hình thành từ những năm 20 của thế kỷ XX tiếp tục phát triển qua các giai
đoạn cách mạng.
Văn hóa là một trong bốn nội dung chính của đời sống kinh tế - xã hội, quan
trọng ngang các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội. Nổi mặt trận văn hóa là nói đến
một lĩnh vực hoạt động có tính độc lập, có mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập , Sđd, t.9, tr.222.

11


khác, đồng thời phản ánh tính chất cam go, quyết liệt của hoạt động văn hóa. Mặt trận
văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng. Nội dung mặt
trận văn hóa phong phủ, đấu tranh trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống. của

các hoạt động văn nghệ, báo chí, cơng tác lý luận, đặc biệt là định hướng giá trị chân,
thiện, mỹ của văn hóa nghệ thuật. Mặt trận văn hóa là cuộc chiến đấu trên lĩnh vực văn
hóa; vì vậy anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy; cũng như các chiến sĩ
khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hoá như một mặt trận quan trọng trong cuộc
chiến đấu cách mạng. Ơng tin rằng văn hóa khơng chỉ là một phần cuộc sống hàng
ngày mà cịn là một cơng cụ mạnh để thúc đẩy sự thay đổi xã hội và đối mặt với các
thách thức trong cuộc chiến đấu. Dưới đây là một số điểm quan trọng về quan niệm
của Hồ Chí Minh về vai trị của văn hóa là một mặt trận:
Văn hóa là mặt trận quan trọng trong cuộc chiến đấu: Hồ Chí Minh coi văn
hóa như một mặt trận cách mạng quan trọng, bên cạnh mặt trận qn sự và mặt trận
chính trị. Ơng thấy rằng thơng qua văn hóa, nhân dân có thể thể hiện lịng u nước,
lịng đồn kết, và tinh thần đấu tranh cách mạng.
Văn hóa là cơng cụ tạo tinh thần đồn kết: Hồ Chí Minh tin rằng văn hóa có
khả năng thúc đẩy tinh thần đoàn kết trong xã hội và giữ cho nhân dân đoàn kết trong
cuộc chiến đấu. Sự sáng tạo văn hóa, như thơ, nhạc, nghệ thuật, và truyền thống văn
hóa, có thể tạo ra tinh thần đồn kết mạnh mẽ giữa các tầng lớp xã hội.
Văn hóa là cơng cụ để thay đổi tư duy: Hồ Chí Minh thấy rằng văn hóa có khả
năng thay đổi tư duy của con người. Qua văn hóa, người dân có thể nhận thức rõ hơn
về mục tiêu cách mạng, lý tưởng tự do và công bằng, và sự cần thiết của cuộc chiến
đấu.
Văn hóa là cơng cụ tác động đối ngoại: Hồ Chí Minh cũng sử dụng văn hóa để
tác động đối ngoại. Qua các tác phẩm văn hóa và thông điệp truyền tải, ông nỗ lực để
giành được sự ủng hộ và hiểu biết từ cộng đồng quốc tế cho cuộc chiến đấu của Việt
Nam.
Hồ Chí Minh quan niệm rằng: “trong cơng cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn
đề cùng phải chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã
12



hội, văn hoá” 1. Như vậy, văn hoá là một bộ phận hợp thành toàn bộ đời sống xã hội;
thiếu nó, cơ chế xã hội khơng thể phát triển hồn thiện được.
Nhưng sự phát triển của văn hố, với tính chất “là một kiến trúc thượng tầng”,
không phải “đơn thương độc mã”, mà “những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết
rồi, văn hố mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được” 2.
Mối quan hệ giữa văn hố, văn nghệ với kinh tế và chính trị được Hồ Chí Minh
xác định: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, khơng thể đứng ngồi,
mà phải ở trong kinh tế và chính trị” 3 . Ý nghĩa và bản chất của mặt trận văn hoá và
chiến sĩ văn hố chính là ở chỗ đó. Nghĩa là: “Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ
nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân dân, trước hết là cơng, nơng, binh”.
Để làm trịn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ thuật cịn có lập trường vững, tư tưởng
đúng. Nói tóm tắt là phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên
trên hết, trước hết” 4 .
Mặt trận văn hoá và chiến sĩ văn hoá cịn mang nội dung “cái bút là vũ khí sắc
bén, bài báo là tờ hịch cách mạng”. Dưới chế độ thực dân Pháp có thứ “văn chương
nịnh Tây” và “văn chương cách mạng”. Theo Hồ Chí Minh, khi “dân tộc bị áp bức, thì
văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng”. Trong
thời kỳ quá độ, “văn nghệ cần phải phê bình rất nghiêm khắc những thói xấu như tham
ơ, lãng phí, lười biếng, quan liêu…. và cũng phải ca tụng chân thật những người mới,
việc mới để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay và giáo dục con cháu ta đời sau”.
Hồ Chí Minh tự nhận là “một người yêu chuộng văn nghệ chứ không phải là một
nhà văn nghệ”. Nhưng người nhận xét về vai trò của văn nghệ thật sâu sắc. Người đã
phát biểu cảm tưởng bằng thơ khi đọc tập thơ chọn lọc Đường, Tống của “nghìn nhà
thơ”:
“Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp,
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sơng;
Nay ở trong thơ nên có thép
1


Hồ Chí Minh:
Hồ Chí Minh:
3
Hồ Chí Minh:
4
Hồ Chí Minh:
2

Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận , tr.345.
Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận , tr.345.
Toàn tập , Sđd, t.6, tr.368-369
Toàn tập , Sđd, t.6, tr.368.

13


Nhà thơ cũng phải biết xung phong”.
Ngày 3-2-1962 (tối 29 tết âm lịch), trong buổi chúc tết các nhà khoa học - kỹ
thuật, văn nghệ sĩ, Anh hùng lao động, Anh hùng quân đội, nhân sĩ..., Người “ra câu
đối để các cụ, các đồng chí đối lại:
Muốn cho xã hội đều xn
Nhân sĩ phải là chiến sĩ” 1 .
Đó chính là tinh thần của “kháng chiến văn hoá và văn hoá kháng chiến”. Tinh
thần này thật sự độc đáo và sâu sắc ở chỗ, nó có ý nghĩa đối với toàn thể nhân loại,
sống mãi với thời gian. Người quan niệm nhà văn, nhà báo của mọi dân tộc vừa “góp
phần q báu trong việc trao đổi văn hố giữa các dân tộc”... vừa “góp phần xứng
đáng trong phong trào chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, đoàn kết các
dân tộc để đấu tranh cho độc lập, hồ bình, dân chủ và hạnh phúc cho cả lồi người
trên thế giới” 2 .
Theo Bác Hồ, văn hóa là một mặt trận quan trọng trong cuộc chiến đấu cách

mạng, là một công cụ mạnh để thúc đẩy tinh thần đoàn kết, thay đổi tư duy và tác động
đối ngoại. Thơng qua văn hóa, cuộc chiến đấu cách mạng có thể được thúc đẩy và đạt
được mục tiêu cuối cùng là xây dựng một xã hội công bằng và tự do.
Quan điểm tập trung nghiêm túc cho mặt trận văn hóa của Bác vẫn rất chính xác
từ đó đến nay. Trong thời chiến lúc có nhiều bè phái tư tưởng mâu thuẫn nhau, việc
văn hóa dẫn lối quần chúng đến hướng đi đúng đắn là vô cùng quan trọng không phải
bàn cãi. Chính lịng tin từ nhân dân về với cách mạng với số lượng khơng ít nhờ vào
văn hóa tun truyền đã góp phần làm nên thắng lợi. Cịn trong ngày nay dưới sự lãnh
đạo của Đảng, đặc biệt là sự phát triển rất nhanh của các phương tiện thơng tin đại
chúng, việc kiểm sốt các thế lực chống phá từ bên trong lẫn ngồi vẫn ln là một
trọng tâm mà để giữ gìn trật tự trong xã hội chúng ta cần phải quyết liệt đấu tranh trên
mặt trận này.
Tóm lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt văn hóa là một mặt trận quan trọng trong
cuộc chiến đấu cách mạng, thúc đẩy tinh thần đoàn kết, thay đổi tư duy và tác động đối

1

Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận , tr.356.

2

Hồ Chí Minh: Toàn tập , Sđd, t.10, tr.513.

14


ngoại. Mặt trận văn hóa và chiến sĩ văn hóa được xem là cơng cụ quan trọng trong việc
hình thành ý thức cách mạng và phục vụ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm này
vẫn có giá trị trong việc duy trì trật tự xã hội và phát triển đất nước.
1.2.3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân

Văn hóa có vai trị nhất định trong việc phục vụ quần chúng nhân dân. Văn hóa
khơng chỉ là một phần của cuộc sống hàng ngày mà còn phải phục vụ lợi ích và nhu
cầu của nhân dân. Dưới đây là một số điểm quan trọng về quan niệm này:
Văn hóa phải gắn liền với cuộc sống thường ngày của nhân dân: Hồ Chí Minh
coi văn hóa khơng phải là cái gì đó xa xỉ, mà phải được hiểu và tiếp cận dễ dàng bởi
nhân dân. Ơng khuyến khích sự phát triển của văn hóa dân gian và văn hóa gần gũi với
cuộc sống hàng ngày của nhân dân, như văn học, âm nhạc, trang phục, và nghệ thuật
dân gian.
Văn hóa là công cụ để nâng cao tri thức và tạo hiểu biết: Hồ Chí Minh coi văn
hóa là một phương tiện để giúp nhân dân nâng cao tri thức và hiểu biết. Ơng khuyến
khích việc phát triển giáo dục và văn hóa để nhân dân có cơ hội học hỏi và phát triển
bản thân.
Văn hóa là cơng cụ để hình thành tinh thần đồn kết và u nước: Hồ Chí Minh
tin rằng văn hóa có khả năng hình thành tinh thần đồn kết trong xã hội và thúc đẩy
tình u nước. Sự sáng tạo văn hóa có thể tạo ra tinh thần đoàn kết trong cuộc chiến
đấu cách mạng và khơi gợi tình yêu và niềm tự hào dân tộc.
Văn hóa là cơng cụ để thúc đẩy tư duy cách mạng: Hồ Chí Minh coi văn hóa là
một cơng cụ để thay đổi tư duy của con người và thúc đẩy ý thức cách mạng. Qua văn
hóa, ơng mong muốn nhân dân nhận thức rõ hơn về mục tiêu và lý tưởng của cách
mạng và tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu.
Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng
văn hóa của Người cũng vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Theo Người, mọi hoạt động
văn hóa phải trở về với cuộc sống thực tại của quần chúng. phản ánh được tư tưởng và
khát vọng của quần chúng.
Trước hết văn hoá phải trở về với sinh hoạt thực tại của con người; phải miêu tả
cho hay, cho thật, cho hùng hồn. Muốn vậy phải có cách viết hợp trình độ đại đa số
15


đồng bào. Khi cầm bút viết phải tự đặt ra: Viết cho ai? Mục đích viết? Lấy tài liệu đâu

mà viết? Viết phải thiết thực, tránh cái lối viết rau muống mà ham dùng chữ... Nói
cũng vậy: “Nói ít, nhưng nói cho thấm thía, nói cho chắc chắn, thì quần chúng thích
hơn”.
Ngày 7-10-1945, trong buổi khai mạc Phịng triển lãm văn hố, Người nói đại ý:
các hoạ sĩ của ta đã cố gắng tìm mọi con đường đi. Nhưng tiếc rằng không muốn đi ở
dưới đất mà cứ muốn vụt lên trời: chất mơ mộng nhiều quá, mà cái chất thật của sự
sinh hoạt rất ít. Thật là một thế giới tiên. Người trần lên tiên có lẽ cũng thích thật.
Nhưng nhìn mãi cái đẹp khơng thay đổi rồi cũng nhàm chán, nhạt nhẽo và mới biết
rằng: muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ham mê thật, phải trở về với cuộc sinh hoạt thực
tại của con người” .
Khi bàn làm sách Người tốt việc tốt (6-1968), Hồ Chí Minh đưa cho mọi người
xem một tờ báo có hình vẽ ba cơ gái du kích Hà Nội, Huế, Sài Gịn và nói: Nếu các
chú khơng tin, các chú thử đem hỏi mấy cháu gái đó xem. Các cháu sẽ nói: các chú vẽ
ai, chứ các cháu cầm súng đánh giặc, không bao giờ lại ăn mặc như thế. Người kết
luận “nghệ thuật phải gần với cuộc sống, người vẽ không thể tùy ý muốn tưởng tượng
ra thế nào cũng được, rồi quần chúng phê bình lại bảo người ta dốt.” 1
Để văn hoá thực sự phục vụ quần chúng nhân dân ngoài việc đi vào quần chúng
cổ động, biểu dương sự nghiệp cách mạng của nhân dân, anh chị em văn hố và trí
thức cịn phải đánh giá, nhìn nhận đúng nhân dân. Theo Người, quần chúng là những
người không phải chỉ sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội mà còn là những người
sáng tác nữa. Tục ngữ, vè, ca dao... là “những hòn ngọc quý”, vừa rất hay, lại rất ngắn
chứ không “trường thiên đại hải”, dây cà ra dây muống. Quần chúng còn là đối tượng
phản ánh. Công cuộc kháng chiến và xây dựng của quần chúng là “một kho nguyên
liệu vô tận cho những tác phẩm xuất bản”. Khi nêu vấn đề: “Lấy tài liệu đâu mà viết?”,
Hồ Chí Minh nói: “Muốn có tài liệu phải nghe đồng bào, chiến sĩ, hỏi nhân dân; phải
thấy, xem, ghi chép...” 2 . Người khẳng định: “Chỉ có nhân dân mới ni dưỡng cho
sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn qn điều đó -

1
2


Hồ Chí Minh: Tồn tập , Sđd, t.12, tr.552-553.
Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận , tr.344-345, 365, 367.

16


nhân dân cũng sẽ quên anh ta” 1. Quần chúng cịn là những người kiểm nghiệm sản
phẩm. Vì vậy, viết xong đọc đi, sửa lại bốn, năm lần chưa đủ, mà “phải nhờ một số
đồng chí cơng, nơng, binh đọc lại. Chỗ nào ngúc ngoắc, chữ nào khó hiểu, họ nói ra
cho thì phải sửa lại ” 2 . Cuối cùng phải thấy rằng, đồng bào đang chờ đợi và phải được
hưởng thụ các sản phẩm văn hoá.
Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Cách làm việc, cách tổ chức, nói
chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo, v.v... của chúng ta, đều phải lấy câu này làm
khuôn phép: Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng” 3. Người căn dặn:
Phải học cách nói của quần chúng. Mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết phải tỏ rõ
cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng. Phải ln ln dùng những lời lẽ, những
thí dụ giản đơn, thiết thực và dễ hiểu. Làm thế nào cho ai cũng hiểu... Trước khi nói
phải nghĩ cho chín. Nhớ tục ngữ “Chó ba quanh mới nằm. Người ba năm mới nói” 4 .
Người nhắc nhở các nhà văn hố phải chú ý đến nhi đồng, tơn trọng phong tục, văn
hoá các dân tộc thiểu số, làm cho vườn hoa văn hố dân tộc màu sắc, mn hương.
Tóm lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi văn hóa như một phần quan trọng của cuộc
sống hàng ngày của nhân dân và tin rằng văn hóa phải phục vụ lợi ích và nhu cầu của
họ. Người khuyến khích việc phát triển văn hóa dân gian, giáo dục, và sự sáng tạo văn
hóa để nâng cao tri thức, tạo hiểu biết, thúc đẩy tinh thần đoàn kết và yêu nước, và
thay đổi tư duy cách mạng trong xã hội.
1.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
Những lãnh tụ của giai cấp vô sản, trong khi thiết kế xây dựng xã hội tương lai
đã nhấn mạnh tới việc cần thiết xây dựng nền văn hố mới.
Hồ Chí Minh quan tâm tới việc xây dựng một xã hội mới vững chắc, lâu dài trên

tất cả các lĩnh vực, trong đó có cuộc cách mạng trên lĩnh vực văn hố.
1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945

1
2
3
4

Bác Hồ với văn nghệ sĩ , Nxb. Tác phẩm mới, H.1985, tr.348.
Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận , tr.365, 367.
Hồ Chí Minh: Tồn tập , Sđd,t.5, tr.248.
Hồ Chí Minh: Tồn tập , Sđd, t.5, tr.306.

17


Trước khi diễn ra Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh đã có quan
điểm và chiến lược cụ thể về việc xây dựng nền văn hóa mới trong cuộc chiến đấu cho
độc lập và tự do của Việt Nam. Các quan điểm chính của ơng bao gồm:
Phải giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc: Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc bảo
tồn và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam. Ơng nhận thức rằng
bản sắc văn hóa dân tộc là một phần quan trọng của tình u nước và lịng tự hào dân
tộc.
Kết hợp văn hóa cách mạng với văn hóa truyền thống: Hồ Chí Minh khơng thúc
đẩy việc xây dựng một văn hóa cách mạng hồn tồn mới mà coi trọng việc kết hợp
các yếu tố cách mạng với các yếu tố văn hóa truyền thống. Ơng tin rằng điều này giúp
tạo nên sự gắn kết mạnh mẽ với dân tộc và tạo ra sự đồng lòng trong cuộc chiến đấu.
Giáo dục là yếu tố quan trọng: Hồ Chí Minh thấy rằng giáo dục đóng vai trị
quan trọng trong việc xây dựng nền văn hóa mới. Ơng khuyến khích sự phát triển giáo
dục để nâng cao kiến thức và hiểu biết của nhân dân, từ đó, tạo điều kiện tốt hơn cho

sự phát triển xã hội và cách mạng.
Phải có tinh thần đồn kết và tự giác: Hồ Chí Minh coi tinh thần đoàn kết và tự
giác là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng nền văn hóa mới. Ơng khuyến khích mọi
người tham gia vào các hoạt động văn hóa và cách mạng với tinh thần đồn kết và tự
giác cao độ.
Văn hóa phục vụ mục tiêu cách mạng: Hồ Chí Minh tin rằng văn hóa khơng chỉ
là một phần của cuộc sống mà còn phải phục vụ mục tiêu cách mạng. Ơng coi văn hóa
là một cơng cụ quan trọng để thay đổi tư duy, hình thành tinh thần đoàn kết và yêu
nước, và thúc đẩy sự tham gia của nhân dân trong cuộc chiến đấu cho độc lập và tự do.
Ngay từ những ngày đầu hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh, trong khi tố cáo
nền giáo dục thực dân, chính sách ngu dân của Pháp ở Việt Nam, đã quan tâm tới việc
xây dựng một xã hội mới tốt đẹp. Trong Chánh cương vắn tắt (1930), Người nêu
phương diện xã hội lên hàng đầu, trong đó đề cập “nam nữ bình quyền”, “phổ thơng
giáo dục theo cơng nơng hố”.
Tháng 8/1943, cùng với việc đưa ra quan niệm về ý nghĩa của văn hóa, Hồ Chí
Minh quan tâm đến việc xây dựng nền văn hóa dân tộc với năm nội dung xây dựng
tâm lý (Tinh thần độc lập tự cường); xây dựng luân lý (Biết hy sinh mình, làm lợi cho
18


quân chủng); xây dựng xã hội (Mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân);
xây dựng chính trị (dân quyền); xây dựng kinh tế.
Tóm lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan điểm rõ ràng về việc xây dựng nền văn
hóa mới trong giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Người coi trọng bản
sắc văn hóa dân tộc, giáo dục, và tình thần đồn kết trong việc thúc đẩy mục tiêu cách
mạng của Việt Nam.
1.3.2. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp
Sau Cách mạng Tháng tám, ngay trong khi đang đẩy mạnh cuộc kháng chiến
chống Pháp. Người xác định rõ vai trị của văn hố, kết hợp chặt chẽ văn hoá với
kháng chiến “văn hoá hoá kháng chiến, kháng chiến hoá văn hoá”, kết hợp kháng

chiến với kiến quốc. Trong nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá mới, Người lưu ý đến ba
nội dung với ý nghĩa là tính chất của nền văn hố mới: Dân tộc, khoa học, đại chúng.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và trong quá trình xây dựng cơ sở cho
nền văn hóa mới trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh có các quan điểm và chiến lược cụ
thể:
Phải kết hợp văn hóa cách mạng và văn hóa truyền thống: Hồ Chí Minh coi
trọng việc kết hợp các yếu tố văn hóa cách mạng với các giá trị văn hóa truyền thống
của Việt Nam. Ơng thấm thía tầm quan trọng của bản sắc văn hóa dân tộc và thúc đẩy
tình u và lịng tự hào dân tộc thơng qua việc bảo tồn và phát triển văn hóa truyền
thống.
Giáo dục là yếu tố quan trọng: Hồ Chí Minh thấy rằng giáo dục là một yếu tố
quan trọng trong việc xây dựng nền văn hóa mới. Ơng khuyến khích việc nâng cao
kiến thức và hiểu biết của nhân dân thông qua giáo dục, và đặc biệt là việc học về lịch
sử và tư tưởng cách mạng.
Tạo ra tác phẩm văn hóa và nghệ thuật cách mạng: Hồ Chí Minh khuyến khích
sự sáng tạo trong văn hóa và nghệ thuật để thể hiện tinh thần cách mạng và tinh thần
đoàn kết của nhân dân. Các tác phẩm văn hóa và nghệ thuật như thơ, nhạc, và hội họa
cách mạng được thúc đẩy để tạo ra sự gắn kết và tự hào dân tộc.
Tự quản lý văn hóa: Hồ Chí Minh khuyến khích tự quản lý văn hóa, tức là việc
tự quản lý, tự sản xuất và phân phối các tác phẩm văn hóa và nghệ thuật cách mạng.
19


Điều này giúp đảm bảo rằng văn hóa và nghệ thuật phục vụ mục tiêu cách mạng và
không bị kiểm duyệt hay chi phối từ bên ngồi.
Văn hóa phục vụ mục tiêu cách mạng: Hồ Chí Minh tin rằng văn hóa phải phục
vụ mục tiêu cách mạng và thúc đẩy sự tham gia của nhân dân trong cuộc chiến đấu.
Các hoạt động văn hóa cách mạng như biểu diễn nghệ thuật, trình diễn sân khấu, và
các tác phẩm văn hóa khác được sử dụng để tạo động lực và tinh thần đồn kết trong
cuộc kháng chiến.

Tóm lại, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh coi trọng
việc xây dựng nền văn hóa mới bằng cách kết hợp các yếu tố văn hóa cách mạng với
văn hóa truyền thống, thúc đẩy giáo dục và sáng tạo văn hóa và nghệ thuật cách mạng,
và đảm bảo rằng văn hóa phục vụ mục tiêu cách mạng và cuộc kháng chiến.
1.3.3. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ nhân dân miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh chủ
trương xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Trong
kháng chiến chống thực dân Pháp và trong quá trình xây dựng cơ sở cho nền văn hóa
mới trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh có các quan điểm và chiến lược cụ thể:
Phải kết hợp văn hóa cách mạng và văn hóa truyền thống: Hồ Chí Minh coi
trọng việc kết hợp các yếu tố văn hóa cách mạng với các giá trị văn hóa truyền thống
của Việt Nam. Ơng thấm thía tầm quan trọng của bản sắc văn hóa dân tộc và thúc đẩy
tình u và lịng tự hào dân tộc thơng qua việc bảo tồn và phát triển văn hóa truyền
thống.
Giáo dục là yếu tố quan trọng: Hồ Chí Minh thấy rằng giáo dục là một yếu tố
quan trọng trong việc xây dựng nền văn hóa mới. Ơng khuyến khích việc nâng cao
kiến thức và hiểu biết của nhân dân thông qua giáo dục, và đặc biệt là việc học về lịch
sử và tư tưởng cách mạng.
Tạo ra tác phẩm văn hóa và nghệ thuật cách mạng: Hồ Chí Minh khuyến khích
sự sáng tạo trong văn hóa và nghệ thuật để thể hiện tinh thần cách mạng và tinh thần
đoàn kết của nhân dân. Các tác phẩm văn hóa và nghệ thuật như thơ, nhạc, và hội họa
cách mạng được thúc đẩy để tạo ra sự gắn kết và tự hào dân tộc.
Tự quản lý văn hóa: Hồ Chí Minh khuyến khích tự quản lý văn hóa, tức là việc tự
20


quản lý, tự sản xuất và phân phối các tác phẩm văn hóa và nghệ thuật cách mạng. Điều
này giúp đảm bảo rằng văn hóa và nghệ thuật phục vụ mục tiêu cách mạng và không bị
kiểm duyệt hay chi phối từ bên ngồi.
Văn hóa phục vụ mục tiêu cách mạng: Hồ Chí Minh tin rằng văn hóa phải phục

vụ mục tiêu cách mạng và thúc đẩy sự tham gia của nhân dân trong cuộc chiến đấu.
Các hoạt động văn hóa cách mạng như biểu diễn nghệ thuật, trình diễn sân khấu, và
các tác phẩm văn hóa khác được sử dụng để tạo động lực và tinh thần đoàn kết trong
cuộc kháng chiến.
Nhìn chung. Bác Hồ ln coi trọng giá trị văn hóa dân tộc và khuyến khích việc
sáng tạo văn hóa và giáo dục để thúc đẩy tinh thần đoàn kết và yêu nước, đồng thời
đảm bảo rằng văn hóa phục vụ mục tiêu cách mạng và cuộc chiến đấu cho độc lập và
tự do của Việt Nam.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hố mới Việt Nam có sự vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin. Người quan tâm từ sớm, khi đang
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Người chủ trương xây dựng nền văn hố tồn
diện, bao gồm văn hố, chính trị, kinh tế, xã hội. Đặc biệt Người nhấn mạnh những nét
đặc sắc trong đạo đức của nền văn hố phương Đơng. Thực chất tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng nền văn hố Việt Nam có 3 mặt thống nhất với nhau.
Thứ nhất, đó là củng cố, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hoá dân tộc.
Thứ hai, là khắc phục những thiếu hụt của văn hoá truyền thống.
Cuối cùng, là tạo ra những giá trị của nền văn hố tương lai, hồn thiện nhân
cách, hướng con người tới chân, thiện, mỹ.
Như vậy, sự đề cao vai trị của văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tầm
nhìn xa trơng rộng, hướng đến sự phát triển bền vững về lâu dài cho dân tộc. Những
vai trò và vấn đề Bác đã nêu ra cho đến nay vẫn rất quan trọng, thể hiện sự đúng đắn
trong tư tưởng của Người. Vậy để đáp lại sự quan tâm của Bác dành cho lĩnh vực văn
hóa, thế hệ con cháu chúng ta, cụ thể hơn là lứa tuổi sinh viên, giai đoạn đại diện cho
thế hệ trẻ và quyết định một lực lượng kế cận cho đất nước, đã phát huy vai trò của
sinh viên trong xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt
Nam hiện nay như thế nào. Chúng ta cùng đến với phần tiếp theo.
21



×