Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Skkn một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn tiếng việt lớp 1 theo chương trình sách giáo khoa mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.37 KB, 13 trang )

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam, bắt đầu từ năm 2018, chương trình giáo dục phổ thơng mới đã được Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành tại Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày
26/12/2018. Chương trình giáo dục phổ thơng được xây dựng theo hướng mở, một
chương trình nhiều bộ sách giáo khoa. Chương trình theo hướng mở mang lại nhiều ý
nghĩa cho nền giáo dục. Đó là tạo ra sự cạnh tranh giữa các tác giả viết sách giáo
khoa, từ đó chất lượng của sách được nâng cao, bảo đảm định hướng thống nhất về
những nội dung giáo dục cốt lõi, bắt buộc đối với học sinh toàn quốc, đồng thời trao
quyền chủ động và trách nhiệm cho địa phương, nhà trường và giáo viên trong việc
lựa chọn, bổ sung một số nội dung giáo dục và triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp
[2]. Nghĩa là sách giáo khoa chỉ là một kênh tài liệu chính để tham khảo, nhà trường,
giáo viên có quyền chủ động trong việc lựa chọn bài dạy cũng như là phương pháp
dạy học. Đối với những người làm công tác giáo dục, vấn đề lựa chọn sách giáo khoa
và phương pháp dạy học phù hợp với mỗi chương trình là một yêu cầu cấp thiết được
đặt ra để nhằm nâng cao chất lượng cho giáo dục đào tạo nói chung và dạy học nói
riêng.
Đối với chương trình giáo dục Tiểu học, Tiếng Việt là một trong những phân môn
quan trọng và cần thiết nhất. Bên cạnh việc học toán để phát triển tư duy logic, năng
lực tính tốn, việc học Tiếng Việt sẽ giúp các em hình thành và phát triển năng lực
ngơn ngữ, cung cấp cho học sinh một công cụ để học tập các môn học khác. Học tốt
môn Tiếng Việt là điều kiện, là cơ sở để học tốt các môn học khác. Theo chương
trình giáo dục mới, mục tiêu của các mơn học nói chung và mục tiêu của mơn Tiếng
Việt nói riêng cũng có những điểm mới so với chương trình giáo dục cũ. Đối với
chương trình giáo dục cũ, mục tiêu của chương trình và các mơn học hướng tới là
hình thành kiến thức, kĩ năng và thái độ, chú trọng nhiều đến việc cung cấp kiến thức
“học để biết gì”. Cịn mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể năm
2018 thì chú trọng vào việc phát triển năng lực và phẩm chất của người học, tập trung
nhấn mạnh “học xong khơng những biết gì mà cịn làm được gì?”[1]. Trong mơn
Tiếng Việt, ngồi những năng lực chung cần bồi dưỡng cho học sinh như: tự chủ, tự



học, giao tiếp, hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo, môn Tiếng Việt đặc biệt chú
trọng vào việc bồi dưỡng các năng lực đặc thù, đó là năng lực ngôn ngữ và năng lực
văn học [2]. Việc bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ cho học sinh được chú trọng ở cả bốn
năng lực đọc, viết, nói và nghe. Chúng ta đều biết, lớp 1 là lớp đầu cấp nên việc dạy
Tiếng Việt cho học sinh có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tạo nền tảng, tiền
đề để các em tìm tịi, phát hiện kiến thức trước mắt cũng như trong tương lai. Ở lớp 1,
các em phải học tốt Tiếng Việt thì khi chuyển sang học các lớp tiếp theo các em mới
nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của các môn học khác, thuận lợi cho việc học
tập sau này. Năm học 2020-2021 là năm đầu tiên thực hiện chương trình đổi mới giáo
dục phổ thơng 2018. Việc đổi mới phải mang tính đồng bộ cả về người dạy, người
học, nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy cũng như phương triện, cơ sở vật
chất phục vụ cho việc dạy học thì mới mang lại hiệu quả và chất lượng dạy học.
Nghĩa là để đáp ứng được mục tiêu giáo dục theo chương trình mới, chúng ta phải đổi
mới phương pháp giảng dạy và đi kèm với đó là cần phải đồng bộ đổi mới cơ sở vật
chất, phương tiện, thiết bị dạy học cũng như phải có sự thay đổi trong nhận thức và tư
duy của người dạy và người học.
Trước thực trạng trên, bài viết của chúng tôi đi vào đề cập tới một số biện pháp dạy
học tích cực nhằm nâng cao hiệu quả và đáp ứng mục tiêu của chương trình mới.
Trong khn khổ của bài viết này, chúng tơi chỉ đi vào nghiên cứu “một số biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 theo chương trình mới”.
2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC
MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 1- SÁCH GIÁO KHOA MỚI
2.1. Sử dụng trò chơi học tập
2.1.1.Khái niệm về trị chơi học tập.
Trị chơi là hình thức phản ảnh hiện thực khách quan qua hoạt động của trẻ em với sự
đan xen của những yếu tố tưởng tượng. Trò chơi học tập là tất cả những trò chơi gắn
với việc dạy học (phương pháp, hình thức tổ chức và luyện tập khơng tính đến nội


dung và tính chất của trị chơi) đều được gọi là trò chơi học tập. Trò chơi học tập thực

chất là một trị chơi có định hướng đối với sự phát triển trí tuệ của trẻ [10].
2.1.2. Nguyên tắc tổ chức trị chơi
Trị chơi học tập là trị chơi có luật gồm các quy tắc gắn với kiến thức, kỹ năng có
được trong hoạt động học tập, gắn với nội dung bài học, giúp học sinh khai thác được
vốn kiến thức của bản thân để chơi. Thông qua chơi, học sinh vận dụng các kiến thức,
kỹ năng đã học vào tình huống trị chơi, được thực hành luyện tập kỹ năng mơn Tiếng
Việt được đưa vào trị chơi. Để các trò chơi mang lại hiệu quả cao trong học tập, khi
xây dựng và thiết kế trò chơi, cần tuân thủ những nguyên tắc [4]:
+ Đảm bảo tính mục đích: Phải hướng tới thực hiện mục tiêu, nội dung từng bài học.
Do đó nội dung chơi, luật chơi và hành động của trò chơi học tập cần hướng vào kiến
thức mà các em đã được học, phát triển kĩ năng nhận thức và hành động, mặt khác
còn rèn luyện tinh thần thái độ học tập.
+ Đảm bảo tính vừa sức: Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí nói chung và đặc điểm
nhận thức của học sinh lớp 1 nói riêng.
+ Đảm bảo tính phát triển: Việc thiết kế trị chơi được xếp từ dễ đến khó, từ đơn giản
đến phức tạp.
+ Đảm bảo tính hấp dẫn: Để phát huy tính tích cực, tự do, tự nguyện tham gia trị
chơi của học sinh, kích thích ở học sinh nhu cầu học tập, khám phá và có ý nghĩa giải
quyết vấn đề.
+ Đảm bảo tính phù hợp với điều kiện: Cần thiết kế trò chơi phải đảm bảo được thời
gian dạy trong mỗi tiết học cũng như điều kiện cơ sở vật chất lớp học.
2.1.3. Cách thức sử dụng trò chơi trong dạy học môn Tiếng Việt 1
2.1.3.1.Các bước xây dựng một trò chơi
Việc sử dụng trò chơi học tập trong quá trình dạy Tiếng Việt lớp 1 phải đáp ứng vừa
thoả mãn nhu cầu được chơi, được giải trí của học sinh vừa góp phần phát triển kĩ


năng đọc, viết, nghe, nói cho học sinh. Do vậy, để việc tiến hành tổ chức trò chơi học
tập trong tiết học đạt hiệu quả thì giáo viên cần hiểu biết về các trò chơi, trước khi sử
dụng trò chơi phải nghiên cứu kĩ bài học cụ thể, biết được mục tiêu bài học hướng tới

điều gì và xác định được mục đích rõ ràng, mình sử dụng trị chơi này để làm gì, xác
định được số lượng người chơi và cần đảm bảo về mặt thời gian. Cụ thể, chúng ta có
thể thực hiện qua 3 bước lớn sau:
Bước 1: Nghiên cứu kĩ nội dung bài học
Việc nghiên cứu kỹ nội dung bài học giúp cho giáo viên xác định được mục đích sử
dụng của từng trị chơi. Ví dụ với mục đích là để luyện phát âm (trị chơi nói to tiếng
có âm đ, nói nhỏ tiếng khơng có âm đ,…); tìm âm, vần trong tiếng, từ vừa được học
(trò chơi ai nhanh, ai đúng,…); tạo tiếng mới có âm, vần vừa được học (trị chơi bắn
tên, tiếp sức,…); mở rộng vốn từ hay chơi để gây hứng thú, tạo tâm thế vào bài học
mới (trò chơi hái táo, lật mảnh ghép, ơ cữa bí mật,..) Để đạt hiệu quả trong việc tổ
chức trò chơi Tiếng Việt cho học sinh lớp 1, cần phải đọc tài liệu, sách báo, tạp chí,
… có liên quan đến bài học. Chính sự nghiên cứu, tìm tịi ở tài liệu sẽ giúp tiết học sử
dụng trò chơi đạt kết quả tốt hơn.
Bước 2: Chọn trò chơi
Việc lựa chọn trò chơi học tập trong môn Tiếng Việt lớp 1 phải đáp ứng yêu cầu của
mục đích dạy học, phải lựa chọn các thời điểm thích hợp để tổ chức các trị chơi học
tập. Các thời điểm thích hợp có thể là ở bước Khởi động để củng cố kiến thức bài cũ
và kích thích hứng thú của các em sẵn sang tâm thế bước vào học bài mới; ở bước
Khám phá – hình thành kiến thức mới, hoặc sử dụng ở bước Vận dụng, củng cố kiến
thức. Việc tổ chức trò chơi sẽ kích thích sự hứng thú học tập của học sinh, tránh được
khơng khí căng thẳng trong giờ học. Việc lựa chọn trò chơi cũng phải phù hợp với
đặc điểm lứa tuổi, vừa sức với học sinh.
Bước 3: Xây dựng và thiết kế trò chơi
- Xác định được nhiệm vụ học tập của trị chơi đây chính là nội dung trị chơi. Tức là
khi chơi trò chơi này xong, học sinh phát triển được gì về phẩm chất và năng lực.


- Lựa chọn các hoạt động của trò chơi: Dựa vào nội dung kiến thức, nhiệm vụ học tập
xác định và điều kiện của trường lớp về phương tiện sử dụng trị chơi, ví dụ như máy
chiếu, bảng phụ… từ đó lựa chọn, thiết kế trị chơi phù hợp.

- Xác định luật chơi của trò chơi: Tuỳ thuộc vào nhiệm vụ học tập, hành động chơi,
phương tiện sử dụng và kết quả chơi của trò chơi. Luật chơi phải biểu đạt rõ ràng, dễ
hiểu, dễ nhớ, nói rõ số lượng thành viên tham gia và cần phân biệt rõ ràng cho học
sinh những việc phải làm và những việc không được làm trong q trình chơi.
- Đặt tên trị chơi: Tên trò chơi cũng là một yếu tố quan trọng, tên trị chơi là điều tiên
quyết quyết định đến tính hấp dẫn của trị chơi, kích thích sự tị mị, tạo hứng thú của
các em. Do đó, việc lựa chọn tên cần đơn giản, dễ hiểu, gợi sự vui vẻ, hướng vào
nhiệm vụ học tập, hành động chơi. Ví dụ như: Lật mảnh ghép, đào vàng, hái táo,…
2.1.3.2. Tổ chức chơi và đánh giá kết quả chơi
Có thể nói rằng, tổ chức trị chơi học tập chính là hình thức vận động có chứa nội
dung học tập, chúng gắn liền với hoạt động của giáo viên giúp giáo viên hoàn thành
được nhiệm vụ phù hợp với mục đích đã đặt ra. Khi tổ chức cho học sinh chơi trò
chơi học tập địi hỏi giáo viên có nghệ thuật sư phạm, có năng lực sư phạm hiểu được
hứng thú cũng như ý tưởng của học sinh, có kĩ năng hành động cùng học sinh, và biết
cách hướng học sinh tới những ý tưởng mới. Cũng không nên biến một giờ học thành
một giờ chơi mà chơi là phục vụ cho việc học. Do vậy, việc tổ chức trị chơi học tập
có thể được tổ chức theo các bước sau:
* Chuẩn bị chơi: Lập kế hoạch tổ chức chơi thực hiện những nhiệm vụ sau: xác định
mục đích, yêu cầu; lựa chọn nội dung trị chơi học tập và hình thức tổ chức chơi; lựa
chọn các biện pháp và các phương tiện tiến hành các hoạt động của giáo viên và học
sinh trong trò chơi; chuẩn bị phương tiện hoặc đồ dùng học tập phục vụ cho trò chơi.
* Hướng dẫn trò chơi: gây hứng thú của học sinh đến trò chơi bằng những lời đề
nghị, tạo các tình huống, những câu đố, câu thơ...; phổ biến nội dung, luật chơi và
cách tiến hành: Giáo viên hướng dẫn trò chơi, làm mẫu hành động chơi, kèm theo lời
giải thích ngắn gọn và hướng trò chơi vào nhiệm vụ học tập.


*Tiến hành và đánh giá kết quả trò chơi chơi: nên khuyến khích học sinh rụt rè tham
gia trị chơi, chú ý đến khả năng tiếp thu bài học của cá nhân học sinh; kết thúc trò
chơi, việc đánh giá cần tạo cho học sinh phấn chấn vì kết quả đã đạt được và tạo tâm

thế chờ đợi những trò chơi tiếp theo.
Trong giờ học Tiếng Việt lớp, chúng tôi thường tổ chức trò chơi ở 2 phần: phần
Khởi động và phần Khám phá – Luyện tập:
- Trò chơi phần khởi động
Để tạo hứng thú cho học sinh xuyên suốt trong một buổi học thì cách vào bài lơi
cuốn, hấp dẫn là điều vơ cùng cần thiết. Thay vì vào bài trực tiếp thì giáo viên hãy bắt
đầu với một vấn đề mà có thể thu hút học sinh tham gia và đó cũng là cách hiệu quả
nhất để học sinh nhanh chóng vào bài. Khơng chiếm q nhiều thời gian, các trò chơi
dưới 5 phút cho học sinh tiểu học hứng thú vào tiết học hay nhất sẽ mang đến giờ học
thật thú vị cho giáo viên và học sinh. Cũng có thể là một trị chơi vận động và cũng
có thể tổ chức một trị chơi để củng cố kiến thức bài cũ lồng ghép để hình thành kiến
thức bài mới.
Ví dụ: Trị chơi “Lật mảnh ghép tìm hình” Dạy bài 7: đ, e ( sách Cánh diều, Tiếng
Việt 1-tập 1)
+ Chuẩn bị: Soạn trò chơi trên phần mềm powpoit, với tấm hình bí mật là hình ảnh
“cái đe” ở phần làm quen. Nội dung trên từng mảnh ghép là các tiếng đã được học ở
bài 6: cổ cị, da cá, cờ, cá cờ, da, phở.
+ Mục đích: luyện đọc các tiếng có chứa âm ơ, âm d đã được học ở bài trước, kích
thích tính tị mị, gợi mở sự tư duy, tưởng tượng về cái đe sẽ được giới thiệu ở bài
mới.
+ Tiến hành: chiếu trò chơi trên màn hình máy chiếu và nêu rõ luật chơi: Cơ sẽ có 6
mảnh ghép, đằng sau 6 mảnh ghép là một tấm hình mà chúng ta cần tìm. Để mở được
từng mảnh ghép, chúng ta đọc đúng nội dung trên từng mảnh ghép. Tiến hành gọi
từng học sinh đứng dậy lật mảnh ghép và đọc nội dung. Trong quá trình chơi, giáo


viên cần tuyên dương các em đọc đúng, đồng thời cũng khuyến khích các em đọc
chưa tốt và hướng dẫn các em đọc lại.
+ Nhận xét: Sau trò chơi, giáo viên nhận xét về kỹ năng đọc bài và bài tập về nhà của
các em. Sau đó giải thích hình ảnh cái đe và giới thiệu âm đ, âm e trong tiếng đe sẽ

được học trong bài mới
- Trò chơi phần Khám phá – Luyện tập
Đây thường là các trò chơi thực hành ngay sau bài mới. Ngay sau khi nhận biết kiến
thức mới học các em rất hứng thú vì thế giáo viên tạo điều kiện cho học sinh củng cố
và tập vận dụng kiến thức mới học ngay sau khi học bài mới để các em bước đầu
chiếm lĩnh kiến thức mới ngay ở lớp. Trong sách Tiếng Việt 1 sau phần bài học
thường có bài tập để tạo điều kiện cho học sinh củng cố kiến thức mới học qua thực
hành và bước đầu tập vận dụng kiến thức mới lĩnh hội để giải quyết các vấn đề cụ
thể.
Dựa vào mục tiêu của từng bài cụ thể để áp dụng phương pháp cho phù hợp vào việc
tổ chức hướng dẫn học sinh thực hành, luyện tập có hiệu quả.
Ví dụ: Trị chơi “Bắn tên” trong dạy bài 94: anh, ach ( sách cánh diều, Tiếng Việt 1tập 2)
Trị chơi này có thể thực hiện ngay sau mỗi bài học âm, vần mới với mục đích là giúp
học sinh tạo tiếng mới có chứa âm, vần vừa học. Trò chơi này giúp học sinh mạnh
dạn hơn, tập trung chú ý cao hơn và bắt buộc thành viên nào trong lớp cũng tự tìm
cho mình một tiếng mới chứa âm, vần mới vừa học.
Cách tiến hành như sau: Mời cả lớp đứng dậy, gọi 1 bạn lên bảng làm quản trị, quản
trị nói to u cầu: “Tìm tiếng mới chứa vần anh, vần ach?” và hô to: “Bắn tên, bắn
tên!”. Mình bắn bạn A. Bạn A tìm tiếng mới chứa vần anh, ach. Sau khi bạn A tìm
được tiếng mới thì bạn A có quyền bắn tên bạn nào bất kỳ trong lớp, tương tự như
vậy đến khoảng 5 bạn.


Sau đó giáo viên đưa ra nhận xét, tuyên dương cả lớp để tạo hứng thú, động lực cho
học sinh. Đây cũng là một hình thức giải trí giữa tiết học đơng thời rèn luyện kỹ năng
cho học sinh.
2.2.Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một trong những yêu cầu và điều kiện
để thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018. Tất cả các trường đã
chuẩn bị các điều kiện để thực hiện. Lớp học đáp ứng yêu cầu chương trình dạy học,

100% lớp 1 đã có máy chiếu và màn hình chiếu, đồ dùng dạy và học cho lớp 1 tương
đối đầy đủ. Đó là một thuận lợi rất lớn cho nền giáo dục hiện nay.
Ứng dụng công nghệ thông tin giúp bài giảng thêm sinh động, cung cấp được nhiều
thông tin cho học sinh, gây được hứng thú của các em, đồng thời giúp các em tiếp
nhận tri thức hiện đại. Để dạy mơn Tiếng Việt, giáo viên có thể sử dụng nhiều tranh
ảnh, trò chơi, bài hát cuối hoặc giữa tiết trong tất cả các tiết học hình thành âm, vần
mới. Những yếu tố này nếu được chuyển tải bằng các tính năng của cơng nghệ thơng
tìn thì mới phát huy hết được cái hay, cái đọc đáo của nó.
Chẳng hạn, khi khơng có phần mềm PowerPoint, học sinh chỉ quan sát chữ
mẫu giáo viên viết lên bảng. Nhưng khi ứng dụng công nghệ thông tin, từ điểm đặt
bút đến điểm dừng bút mà không bị che khuất như cô viết mẫu hoặc chỉ.


dụ: Bài:

ng



ngh.

Lần 1: giáo viên cho xuất hiện cả hai chữ để học sinh so sánh


Hình 1: Hình ảnh chữ ng và ngh trên powpoint
Lần 2: Giáo viên bấm xuất hiện từng chữ và quy trình viết của từng chữ đó được chạy
tự động như giáo viên đang viết bảng kèm theo mũi tên chỉ hướng, hoặc giáo viên có
thể dùng que chỉ theo đường chạy trên màn hình kết nối quy trình viết.

Hình 2: Hình ảnh quy trình viết chữ ng và ngh trên powpoint

Học sinh theo dõi quy trình viết trên máy vì vậy xác định rõ điểm đặt bút, điểm dừng
bút. Sau đó giáo viên viết mẫu, học sinh thực hành viết vào bảng. Chắc chắn rằng các
em xác định chữ và quan sát một cách chăm chú hơn, do vậy viết chữ đẹp và đúng
hơn. Không những thế khi hướng dẫn học sinh viết vở, giáo viên nên sử dụng phần
mềm để giới thiệu những bài viết mẫu đẹp, từ đó học sinh bắt chước và viết vào vở
một cách chính xác hơn.
2.3. Giáo viên linh hoạt trong việc sử dụng ngữ liệu
Trước đây, sách giáo khoa và những ngữ liệu, những nội dung bài trong sách giáo
khoa là nội dung bắt buộc nhưng kể từ năm 2018, chương trình giáo dục phổ thông


được xây dựng theo hướng mở. Hướng mở nghĩa là nội dung sách giáo khoa, nội
dung dạy học không bắt buộc là nội dung cụ thể mà chỉ là tài liệu tham khảo chính và
tùy vào đối tượng, năng lực nhận thức của học sinh, đặc điểm của học sinh thì giáo
viên có quyền thay đổi nội dung, thay đổi ngữ liệu phù hợp với đối tượng học sinh.
2.3.1. Khái niệm về ngữ liệu
Ngữ liệu là tiếng, từ, câu thơ, câu văn, đoạn văn, bài thơ, có chứa đơn vị ngôn ngữ
cần dạy cho học sinh [6].
Ngữ liệu được đưa vào sách giáo khoa tiểu học để cung cấp cho học sinh kiến thức,
trang bị kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, đồng thời dồi dưỡng cho các em thái độ, tình yêu
đối với tiếng mẹ đẻ.
2.3.2. Căn cứ để chọn ngữ liệu
Để đáp ứng yêu cầu hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh, ngữ
liệu lựa chọn phải đáp ứng các tiêu chí sau [2]:
- Phục vụ trực tiếp cho việc phát triển phẩm chất và năng lực theo mục tiêu, yêu cầu
cần đạt của chương trình.
- Phù hợp với kinh nghiệm, năng lực nhận thức, đặc điểm tâm – sinh lí của học sinh ở
từng lớp học, từng địa phương. Từ ngữ được dùng làm ngữ liệu dạy trong môn Tiếng
Việt 1 phải được chọn lọc trong phạm vi vốn từ văn hóa, có ý nghĩa tích cực, đảm
bảo mục tiêu giáo dục phẩm chất, giáo dục ngôn ngữ, giáo dục thẩm mỹ và phù hợp

với tâm lý học sinh.
- Có giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu về kiểu văn bản và thể loại,
chuẩn mực về sáng tạo và ngôn ngữ.
2.3.3. Cách thức lựa chọn, thay đổi ngữ liệu
Đối với học sinh lớp 1 thì yếu tố trực quan đóng vai trị quan trọng nên các từ ngữ,
ngữ liệu cũng phải đi kèm với hình ảnh, vì vậy giáo viên phải linh hoạt trong việc
chọn ngữ liệu nào, hình ảnh nào cần dạy cho học sinh . Để thay thế ngữ liệu phù hợp


thì giáo viên cần phải chọn lọc thật kỹ càng. Ngữ liệu đó phải đáp ứng kiến thức,
nghĩa là có chứa âm vần của bài học, đáp ứng về mặt nhận thức của học sinh, gần gũi
với đời sống của học sinh trong từng vùng miền. Với học sinh tiểu học, ngữ liệu cần
đơn giản, trong sáng và dễ hiểu.
Biện pháp lựa chọn và thay thế ngữ liệu có thể được thực hiện qua các bước sau:
- Khảo sát các ngữ liệu trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1 và phân tích, đối chiếu với
sự hiểu biết và vốn sống của học sinh ở vùng miền mà mình đang trực tiếp giảng dạy.
Nếu khơng phù hợp giáo viên có quyền tìm ngữ liệu thay thế.
- Tím kiếm ngữ liệu thay thế phải đáp ứng về mặt kiến thức, nghĩa là có chứa âm, vần
của bài học, đáp ứng về mặt nhận thức của học sinh, gần gũi với đời sống của học
sinh trong từng vùng miền. Với học sinh tiểu học, ngữ liệu cần đơn giản, trong sáng
và dễ hiểu.
- Thông qua tổ chuyên môn để thống nhất ý kiến và quyết định làm ngữ liệu
chung cho một khối lớp ngay trong một trường;
- Thông báo tới phụ huynh để phụ huynh biết, phối hợp với phụ huynh trong
quá trình học tập của các em đạt được hiệu quả
- Tiến hành sử dụng ngữ liệu: Khi chọn thay thể một ngữ liệu nào đó, thì giáo
viên có thể in ngữ liệu mới, kẹp vào sách có bài học rồi dạy theo ngữ liệu mới cho cả
lớp, đồng thời nhắn đến nhóm lớp cho phụ huynh được biết. Đối với các em học tốt,
giáo viên vẫn nên khuyến khích đọc cả hai phần ngữ liệu nhằm phát triển vốn từ cho
các em, đó cũng là một ưu điểm cho việc thay đổi ngữ liệu. Cịn đối với các em gặp

khó khăn trong việc đọc thì chỉ cần học theo ngữ liệu mới.
Khi chọn thay thể một ngữ liệu nào đó, thì ngữ liệu đó phải chứa đơn vị ngơn ngữ cần
dạy trong bài học (âm, vần và tiếng,..), đồng thời phải chú ý ngữ liệu đó biểu thị
những sự vật hiện tượng gần gủi với sự hiểu biết và vốn sống của học sinh. Ví dụ đối
với một số hình ảnh khó như “cầm sâm”, giáo viên có thể giải thích qua và cho học
sinh quan sát hình ảnh con cầm sâm trong sách giáo khoa để học sinh có thể biết và


phân biệt được với những loài vật tương tự. Bên cạnh đó giáo viên có thể thay đổi
hình ảnh “cầm sâm” bằng hình ảnh “mâm cổ” là một hình ảnh khá gần gũi với các em
học sinh nên phát huy tính tích cực của học sinh trong việc nói, dễ dàng nhận diện
được tiếng mới và phát hiện được âm mới, từ đó có thể phát triển được nhiều tiếng
mới hơn.
Khi khảo sát bộ sách Tiếng Việt 1 sách Cánh Diều, tơi thấy có sử dụng một số từ
ngữ là phương ngữ của miền Nam. Chẳng hạn như từ “nhá”, “vô”,.. Tuy nhiên đây là
những phương ngữ thông dụng và tiếp nhận rất nhẹ nhàng bởi sách giáo khoa làm
cho cả nước thì khơng thể tránh khỏi sử dụng phương ngữ. Với những từ này, giáo
viên có thể dạy như bình thường, đồng thời giải thích, đưa từ ngữ cùng nghĩa mà
người miền Bắc hay dùng để các em hiểu nghĩa và học được thêm từ vựng.
4. KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu về mục tiêu, nội dung, chương trình, quan điểm xây
dựng chương trình Giáo dục phổ thơng tổng thể nói chung và SGK Tiếng Việt 1 nói
riêng và tìm hiểu thực tiễn dạy và học sách Tiếng Việt 1 trong năm học 2020 - 2021,
bài viết đã đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học mơn Tiếng Việt
1 theo chương trình mới, cụ thể là các biện pháp: sử dụng trò chơi vào hoạt động dạy
học, chủ động và linh hoạt trong việc lựa chọn ngữ liệu; tích cực ứng dụng cơng nghệ
thông tin vào trong giờ học.
Tuy nhiên, để vận dụng các biện pháp đó vào trong các giờ học cụ thể có hiệu quả,
giáo viên phải có khả năng vận dụng phương pháp dạy học một cách linh hoạt, sáng
tạo, phù hợp với từng nội dung dạy học và đối tượng học sinh cụ thể. Bên cạnh đó,

yếu tố cơ sở vật chất, phòng học, phương tiện, đồ dùng dạy học và các tài liệu liên
quan cũng góp phần quan trọng trong việc đưa lại sự thành công cho mỗi tiết dạy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Chương trình giáo dục phổ thơng – Chương
trình tổng thể thơng qua ngày 28/07/2017.
[2]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thơng mơn Ngữ văn.
[3]. Cơng ty Đầu tư xuất bản – Thiết bị Giáo dục Việt Nam, (2020), Tài liệu tập huấn
giáo viên sử dụng sách giáo khoa lớp 1 “Cánh Diều” môn Tiếng Việt, NXB Đại học
Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
[4]. Bùi Văn Huệ (2019), Giáo trình tâm lý học Tiểu học, Nhà xuất bản Đại học Sư
Phạm.
[5]. Lê Thị Phương Nga, Đặng Kim Nga (2009), Giáo trình phương pháp dạy học
Tiếng Việt ở Tiểu học, Nxb Giáo dục
[6]. Nguyễn Minh Thuyết (2020), Tiếng Việt 1 – tập 1, Nxb Đại học Sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh.
[7]. Nguyễn Minh Thuyết (2020), Tiếng Việt 1 – tập 2, Nxb Đại học Sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh.
[8]. Nguyễn Minh Thuyết (2020), Tiếng Việt 1 – SGV, Nxb Đại học Sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh.



×