Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Phát huy vai trò của chủ nghĩa yêu nước trong phong trào thi đua phát triển sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao đời sống nhân dân theo Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.82 KB, 22 trang )

KHOA: KHOA HỌC XÃ HỘI
BỘ MƠN: KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
------- -------

TIỂU LUẬN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CHỦ ĐỀ: Phát huy vai trò của chủ nghĩa yêu
nước trong phong trào thi đua phát triển sản
xuất nông nghiệp nhằm nâng cao đời sống nhân
dân theo Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Lớp: ML01005-02
Nhóm: 7
Giảng viên hướng dẫn: TS. Trần Lê Thanh

Hà Nội – 2023

1


Danh sách sinh viên trong nhóm:

STT
1

Họ Và Tên
Dương Văn Hải

MSV
652116

Đánh giá


10

2

Lê Minh Hải

653661

9

3

Hán Đức Hải

655071

9

4

Nguyễn Thị Giang

6653440

9

MỤC LỤC
2



LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................3
I.CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VỚI CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHÂN
CHÍNH………………………………………………………………………4
1.Chủ nghĩa u nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh………………………..4
2.Chủ nghĩa yêu nước chân chính – Một động lực lớn của Chủ nghĩa yêu
nước………………………………………………………………………...7
II.
LÝ LUẬN HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘNG LỰC CỦA CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM…………………………………………………………8
III. CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG
NGHIỆP THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH…………………………….9
1.Tư tưởng Hồ Chí Minh trong chỉ đạo phát triển sản xuất Nông nghiệp…9
2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân. …………………………………………………………10
3.Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nơng nghiệp tồn diện vào
phát triển nông nghiệp Việt Nam hiện nay…………………………………11
4.Nội dung cốt lõi trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển nơng nghiệp
tồn diện……………………………………………………………………12
5.Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển nông nghiệp Việt Nam
hiện nay…………………………………………………………………….16
IV. NHỮNG THÀNH TỰU VIỆT NAM ĐẠT ĐƯỢC TRONG PHÁT
TRIỂN, SẢN XUẤT NƠNG NGHIỆP……………………………………18
1.Phát triển, sản xuất Nơng Nghiệp trong tình hình kinh tế - xã hội hiện nay18
2.Tác động của phát triển Nông nghiệp đối với đời sống của nhân dân……21
V. KẾT LUẬN………………………………………………………………22

Các tài liệu tham khảo………………………………………………………24

3



LỜI MỞ ĐẦU
Theo Hồ Chí Minh : “Hiện nay, nhiệm vụ vẻ vang của đồng bào là phải
ra sức thi đua khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiêp để làm cho đồng
bào nông dân ấm no, để cung cấp cho quân đội, để bảo đảm tiếp tế cho các
thành thị, để đẩy mạnh việc khôi phục kinh tế nước nhà. Trong mùa xn này,
tồn thể đồng bào nơng dân phải ra sức thi đua: - Cấy nhiều lúa, trồng nhiều
màu, - Cày sâu cuốc bẫm, làm cỏ bỏ phân, - Chống hạn, phòng lụt, diệt sâu
bọ, - Khai phá ruộng hoang,- Chăn nuôi nhiều gia súc, - Tiết kiệm về mọi
mặt. Đó là một cuộc thi đua yêu nước, ý nghĩa rất to lớn. Tôi kêu gọi đồng
bào hăng hái tham gia phong trào thi đua này”.
Lời nói ấy đã: Phát huy vai trò của chủ nghĩa yêu nước trong phong trào
thi đua phát triển sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao đời sống nhân
dân theo Tư tưởng Hồ Chí Minh.

4


I.

CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VỚI CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHÂN
CHÍNH
1. Chủ nghĩa yêu nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ nghĩa yêu nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh - sự hoà quyện giữa
truyền thống và hiện đại.
Chủ nghĩa yêu nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ, tổng hòa
của tư tưởng yêu nước Việt Nam chân chính; truyền thống, tinh hoa văn hóa
của dân tộc ta với hệ tư tưởng tiên tiến của giai cấp công nhân mà chủ nghĩa
Mác-Lênin là đại diện.

Đó là sự hịa quyện giữa tư tưởng truyền thống và tư tưởng hiện đại,
chứa đựng trong đó sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại.
Tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, coi
việc đánh đổ đế quốc, thực dân, đánh đổ ách thống trị của nước ngồi là yếu
tố hàng đầu để giải phóng dân tộc, nhưng khơng dừng lại ở đó, cái đích vươn
tới là dân phải được tự do, ấm no, hạnh phúc. Đó là lịng u nước chân
chính, sâu sắc và triệt để, khơng mang tính nửa vời. Một tư tưởng u nước
như vậy tự lơ-gíc và tình cảm nội tại của nó đã mang tính vơ sản và mang
đậm tính nhân văn chủ nghĩa xã hội sâu sắc và triệt để. Điều này được thể
hiện rõ trong từng lời nói, việc làm của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hình 1.1 Chủ tịch Hồ Chí Minh với chiến sĩ hải quân(Ảnh tư liệu)
Vào đầu năm 1946, khi trả lời phỏng vấn các nhà báo nước ngồi, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là
làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
5


Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm
gương mẫu mực về thực hiện chủ nghĩa u nước. Đó là cả q trình đấu
tranh, cống hiến cho cách mạng, vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân
dân, Người khơng có mục đích gì riêng tư cho bản thân mình. Hồ Chí Minh
đã từng nói: “Tơi khơng có gia đình, cũng khơng có con cái. Nước Việt Nam
là gia đình của tơi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một
thanh niên Việt Nam là tôi như đứt một đoạn ruột". Xuất phát từ chủ nghĩa
yêu nước, từ lòng yêu nước, thương nòi, cả cuộc đời hoạt động cách mạng
của Hồ Chí Minh ln phấn đấu cho mục tiêu giải phóng dân tộc, mang lại
hạnh phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Yêu Tổ quốc,
yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có tiến lên chủ

nghĩa xã hội thì dân mình mới được ấm no, Tổ quốc mới được giàu mạnh”.
Như vậy, chủ nghĩa yêu nước trong Hồ Chí Minh ln được thể hiện trong lý
tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người; lý tưởng
xây dựng một Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn vinh, ấm no, tự do,
hạnh phúc đến với mọi người, mọi nhà; đó là chủ nghĩa yêu nước chân chính,
mang chân lý tuyệt đối. Chính chủ nghĩa yêu nước đó đã được truyền bá thấm
đượm vào toàn thể dân tộc Việt Nam và được hiện thực hóa trong cách mạng
Việt Nam qua từng giai đoạn.
Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, nhân dân ta đã trải qua hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cách mạng Việt Nam
khi đó gặp mn vàn khó khăn, thử thách, nhưng có sự soi sáng của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, đặc biệt có sự lãnh đạo của Đảng cách
mạng chân chính, tinh thần yêu nước của dân tộc ta đã được khơi dậy, tồn
dân đã đồn kết một lịng đứng lên đấu tranh giải phóng q hương đất nước
thốt khỏi ách nô lệ thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc. Thời kỳ này,
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã phát triển lên một tầm cao mới. Vì vậy, chủ
nghĩa yêu nước trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
đòi hỏi mỗi cá nhân và từng thành phần kinh tế phát huy tinh thần năng động
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm; có thái độ lao động đúng đắn trung thực, lấy
chất lượng và hiệu quả làm thước đo cho sự đóng góp trong cơng cuộc xây
dựng đất nước, kiên quyết chống thói làm ăn gian lận, dối trá, không để cho
mặt trái của cơ chế thị trường cản trở công cuộc đổi mới của chúng ta; lấy thi
đua yêu nước xã hội chủ nghĩa và cạnh tranh lành mạnh làm động lực thúc
đẩy xây dựng xã hội mới.
Hiện nay, nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, Nhà nước là của nhân dân, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và ngày càng tham gia sâu vào các hoạt
6



động kinh tế. Trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta phải luôn quán triệt
mục tiêu: xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, trên cơ sở nắm vững các
nguyên tắc định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ
vững bản sắc văn hóa dân tộc; Kết hợp nội lực và ngoại lực tạo nên nguồn
lực toàn diện cho phát triển đất nước.
Trên mặt trận bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, tinh thần yêu nước
được thể hiện ở quyết tâm sắt đá bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước. con người và
chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ thành quả sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia; bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự, an tồn xã hội và văn hóa; Giữ vững ổn định chính trị và mơi trường
hịa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để chống tham nhũng và làm suy giảm lòng yêu nước trong đảng viên,
Việt Nam cần đổi mới giáo dục chính trị và tư tưởng. Trong đó, phát huy chủ
trương, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao ý thức tự giác của cán
bộ, đảng viên, trao quyền cho người dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với những mặt tiêu
cực của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế tác động đến đất nước, việc
thực hiện các cơ chế, chính sách phù hợp để hướng tới mục tiêu lý tưởng là
chủ nghĩa xã hội là hết sức cần thiết. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lịng u
nước chân chính phải được phát huy và nhân rộng trong nhân dân Việt Nam
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cán bộ, đảng
viên phải nỗ lực rèn luyện lịng u nước chân chính, đặt lợi ích của đất nước,
dân tộc lên trên lợi ích cá nhân. Bằng cách phát huy lòng yêu nước và xây
dựng niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, Việt Nam có thể bảo vệ thành công Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa của mình.
2. Chủ nghĩa u nước chân chính – Một động lực lớn của Chủ
nghĩa yêu nước
Khi chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các cường quốc tư bản
phương Tây ra sức tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa, thiết lập ánh

thống trị của chũ nghĩa thực dân với những chính sách tàn bạo.Từ những năm
20 của thế kỉ XX, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy áp bực, bóc lột của chủ
nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng nề thì phản ứng của
dân tộc bị áp bức càng quyết liệt. Đó là sức mạnh chiến đấu của tiềm năng
dân tộc trong sự nghiệp giải phóng

7


Theo Hồ Chí Minh, “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân
dân ta mấy năm trường chịu trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan
bọn thực dân cướp nước và bọn việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một
nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt
Nam dân chủ mới”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân
chính “là một bộ phận tinh thần quốc tế”, “khác hẳn với tinh thần “vị quốc”
của bọn đế quốc phản động”. Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong
xã hội thuộc địa, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá
cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước mà những người cộng sản phải nắm lấy
và phát huy.
II.

LÝ LUẬN HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘNG LỰC CỦA CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.

Để thực hiện những mục tiêu đó, cần phát hiện những động lực và những
điều kiện bảo đảm cho động lực đó thực sự trở thành sức mạnh thúc đẩy công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là những động lực bên trong, nguồn nội
lực của chủ nghĩa xã hội.Người khẳng định, động lực quan trọng và quyết
định nhất là con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là công – nông – tri
thức. Để thực hiện những mục tiêu đó, cần phát hiện những động lực và

những điều kiện bảo đảm cho động lực đó thực sự trở thành sức mạnh thúc
đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là những động lực bên trong,
nguồn nội lực của chủ nghĩa xã hội.Theo Hồ Chí Minh, những động lực đó
biểu hiện ở các phương diện vật chất và tinh thần; nội sinh và ngoại sinh. Hồ
Chí Minh thường xuyên quan tâm đến lợi ích chính đáng, thiết thân của họ;
đồng thời chăm lo bồi dưỡng sức dân.
Nhà nước đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân dưới sự lãng đạo
của Đảng, thực hiện chức năng quản lý xã hội đưa sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội đến thắng lợi. Người đặc biệt quan tâm đến hiệu lực của tổ chức,
bộ máy, tính nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự trong sạch, liêm khiết
của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ trung ương đến địa phương.
Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất,
kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà
trở nên có ích quốc lợi dân, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã
hội.Cũng với động lực kinh tế, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hóa, khoa
học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần khơng thể thiếu của chủ nghĩa xã
hội.Tất cả những nhân tố động lực nêu trên là những nguồn lực tiềm tàng của
sự phát triển. Làm thế nào để những khả năng, năng lực tiềm tàng đó trở
thành sức mạnh, và khơng ngừng phát triển. Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh
8


đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực của chủ nghĩa xã hội.
Ngồi các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, phải kết hợp được với
sức mạnh thời đại tăng cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử dụng tốt những
thành quả khoa học – kỹ thuật thế giới…Nét độc đáo trong phong cách tư duy
biện chứng Hồ Chí Minh là ở chỗ bên cạnh việc chỉ ra các nguồn phát triển
của chủ nghĩa xã hội. Người còn lưu ý cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố kìm

hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của chủ nghĩa xã hội, làm cho chủ nghĩa xã
hội trở nên trì trệ, xơ cứng, khơng có sức hấp dẫn, đó là chủ nghĩa cá nhân và
Người coi nó là “bệnh mẹ” ra hàng loạt bệnh khác, đó là tham ơ, lãng phí
quan liêu… mà Người gọi đó là “giặc nội xâm”; đó là các căn bệnh chia rẽ bè
phái mất đồn kết, vơ kỷ luật, chủ quan, bảo thủ, giáo điều, v.v..
Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là quyết
định nhất, ngoại lực là rất quan trọng. Chính vì thế, Người thường nêu cao
tinh thần độc lập ít, tự lực cánh sinh là chính, nhưng ln ln chú trọng tranh
thủ sự giúp đỡ, hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc
tế tạo thành sức mạnh quốc tế để xây dựng thàng công chủ nghĩa xã hội, trên
cơ sở bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, chung sống hịa bình và phát triển.

III.

CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.

1.Tư tưởng Hồ Chí Minh trong chỉ đạo phát triển sản xuất Nông nghiệp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế Hồ Chí Minh
ln ln đặt những vấn đề kinh tế trong mối quan hệ chặt chẽ với những vấn
đề chính trị - xã hội “Chúng ta giành được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết
đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của
tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Do vậy, ngay sau khi
giành chính quyền về tay nhân dân, Người đã kêu gọi nhân dân cả nước tích
cực tăng gia sản xuất, quyết tâm diệt giặc dốt và chỉ rõ trách nhiệm “Nếu dân
đói, Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Với một nước nông nghiệp, Người đưa ra cơ cấu kinh tế nông - công
nghiệp; xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đảm bảo an ninh lương thực để
công nghiệp hoá và là hậu phương vững chắc cho sự nghiệp cách mạng.Chủ

9


tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nền kinh tế chúng ta xây dựng là một nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật
tiên tiến. Nông nghiệp, nông dân chiếm một vị trí quan trọng trong tư tưởng
kinh tế của Hồ Chí Minh. Người nói đến vai trị của cơng nghiệp nặng: “Để
xây dựng thắng lợi xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải quyết tâm phát triển tốt
công nghiệp nặng” Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”, trong
đó “kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu của tồn dân, nó lãnh đạo nền
kinh tế quốc dân và Nhà nước phải đảm bảo cho nó phát triển ưu tiên”.
Người chỉ rõ: “Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ
sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không
ngừng cải thiện đời sống nhân dân… nhiệm vụ của khoa học, kỹ thuật là cực
kỳ quan trọng, cho nên mọi nghành, mọi người đều phải tham gia công tác
khoa học kỹ thuật”.Coi trọng vấn đề quản lý, hạch tốn kinh tế, cho đó là chìa
khố phát triển kinh tế quốc dân, Người nói: “Quản lý một nước cũng như
quản lý một doanh nghiệp: phải có lãi”, “ở xí nghiệp phải quản lý: có quản lý
mới biết thu vào tiêu ra, mới biết có lỗ lãi, mới biết ai làm tốt, ai làm vượt
mức, ai không làm vượt mức”.
Hồ Chí Minh đề xuất chính sách mở cửa và hợp tác với các nước để thu
hút ngoại lực và phát huy nội lực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã bước đầu đề cập đến vấn đề khoán trong
sản xuất. Người nói: “Chế độ làm khốn là một điều kiện của chủ nghĩa xã
hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ.
Làm khốn là ích chung và lại lợi riêng… làm khốn tốt thích hợp và cơng
bằng dưới chế độ ta hiện nay”.
2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh,: “ Nhiệm vụ quan trong bậc nhất của chúng ta hiện

nay là phải phát triển sản xuất để nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của
nhân dân”, Người chỉ thị: “ Chúng ta phải thực hiện ngay: 1- Làm cho dân có
ăn; 2-Làm cho dân có mặc; 3- Làm cho dân có chỗ ở; 4- Làm cho dân được
học hành”.
Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến lợi ích cá nhân, nhưng trên cơ sở giải
quyết đúng đăn mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Người
(thấy rõ động lực quan trọng trong lợi ích cá nhân: “ Kinh nghiệm của Đảng

10


ta trong quá trình cách mạng đã chỉ rõ là nơi nào cán bộ ta giải quyết tốt lợi
ích thiết yếu của nhân dân… thì nơi đó, lúc đó cách mạng đều tiến lên ”.
Theo Hồ Chí Minh nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
nghĩa là phải nâng cao ý thức giác ngộ cách mạng, độc lập dân tộc, kiên trì
phấn đấu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, phát huy tinh thần yêu nước, truyền
thống đoàn kết dân tộc, ý thức tự lực tự cường” khơng có gì q hơn độc lập
tự do” của nhân dân
Phải thực hiện cơng băng xã hội. Ngưịi nhắc nhở chúng ta: “ Không sợ
thiếu, chỉ sợ không công bằng, khơng sợ nghèo, chỉ sợ lịng dân khơng n”.
Cơng bằng khơng có nghĩa là cào bằng, bình qn chủ nghĩa, làm triệt tiêu
mất động lực kinh tế – xã hội.
Phải phát triển dân trí, coi giáo dục là quốc sách. Người đòi hỏi: Đảng
và Nhà nước phải nắm vững khoa học – kỹ thuật, mỗi đảng viên đều phải cố
gắng học tập văn hoá, học tập khoa học và kỹ thuật”, cán bộ phải có văn hố
làm gốc… nơng dân phải biết văn hố.
3.Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nơng nghiệp tồn diện
vào phát triển nơng nghiệp Việt Nam hiện nay
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng và nhấn mạnh vai trò quan
trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn: “Nông dân ta giàu thì nước ta

giàu. Nơng nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh” và khẳng định: “Phải phát triển
nông nghiệp một cách tồn diện”. Phát triển nơng nghiệp tồn diện là một tất
yếu khách quan, là cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác, tạo điều kiện
cho công nghiệp hóa nước nhà.
4.Nội dung cốt lõi trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển nơng
nghiệp tồn diện.
Thứ nhất, đó là sự cân đối, hợp lý trong cơ cấu ngành nơng nghiệp và
với các ngành khác.
Khi nói về vị trí, vai trị của nơng nghiệp trong mối quan hệ với các
ngành kinh tế khác, Người ví cơng nghiệp và nông nghiệp như hai chân của
con người, người không thể thiếu một chân, thì nước khơng thể thiếu một bộ
phận kinh tế: “Công nghiệp và nông nghiệp như hai chân con người, hai chân
có mạnh thì đi mới vững chắc”. Người phê phán sự “khập khiễng” trong phát
triển không đồng bộ giữa công nghiệp và nông nghiệp, để lưu ý toàn Đảng,
toàn dân phải chú ý đúng mức đến phát triển nông nghiệp. Người chỉ rõ “giữa
11


các ngành cơng nghiệp, nơng nghiệp, thương nghiệp, văn hóa, giáo dục… với
nhau và trong mỗi ngành phải phát triển cân đối”.Người luôn lưu ý rằng, việc
phát triển sản xuất lương thực khơng tách rời mà phải gắn bó, tác động hỗ trợ
lẫn nhau với các ngành sản xuất khác, như thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng
xuất khẩu… tạo nên sự thống nhất, hài hịa, cân đối cho tồn bộ nền kinh tế
phát triển. Xuất phát từ đặc điểm, điều kiện, vị trí, vai trị của nơng nghiệp,
phải bắt đầu trước hết từ giải quyết vấn đề phát triển nông nghiệp để bảo đảm
đời sống cho nhân dân. Tuy nhiên, không chỉ ngành nông nghiệp phát triển,
sự phát triển của nông nghiệp phải được đặt trong mối quan hệ khăng khít và
tác động qua lại với phát triển cơng nghiệp và thương nghiệp. Có nghĩa là,
phát triển tồn diện phải là nông nghiệp bảo đảm sự phát triển cân đối, hợp lý
giữa các ngành của nền kinh tế.

Thứ hai, phát triển nơng nghiệp tồn diện là giải pháp quan trọng để
phát triển bản thân nền nơng nghiệp.
Ngành nơng nghiệp tồn diện khơng chỉ ở tăng quy mơ, diện tích mà còn
ở năng suất, sản lượng và sự phù hợp trong cơ cấu với các loại cây trồng,
ngành, nghề khác. Kinh tế nông nghiệp bao gồm các ngành nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền nơng nghiệp tồn diện
trước hết phải là một nền nơng nghiệp có ngành trồng trọt phát triển, mà đầu
tiên là phải chú ý trồng cây lương thực, bởi vì “nơng nghiệp là nguồn cung
cấp lương thực”. Trong các cây lương thực, Người xác định cây lúa là chủ
lực, sau đó trồng các loại cây hoa màu, như ngô, khoai, sắn để phục vụ chăn
ni: “Sản xuất phải tồn diện, sản xuất thóc là chính, đồng thời phải coi
trọng hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi, thả cá và nghề phụ”.
“Trong trồng trọt phải chú ý toàn diện. Trồng cà phê, trồng lúa nhưng đồng
thời phải chú ý trồng lạc, trồng vừng vì lạc, vừng là thứ hàng xuất khẩu rất tốt
để đổi lấy máy móc…”
Người nhắc nhở: “Trung ương thường nói nơng nghiệp phải tồn diện.
Mình khơng những cốt gạo, ngơ, khoai, sắn, bơng mà cịn cốt các thứ khác
nữa. Cho nên phải tồn diện. Tăng diện tích mà khơng tăng sản lượng là vơ
ích, mất cơng. Nhưng tăng sản lượng cũng phải tồn diện. Lúa là chính,
nhưng ngơ, khoai, sắn cũng phải có, cũng phải chú trọng. Nếu chỉ chú trọng
lúa mà không chăm nom ngô, khoai, sắn cũng không được. Hoặc chỉ chăm về
cây lương thực mà không chăm về cây công nghiệp cũng là khuyết điểm”.
Không chỉ ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi phải phát triển để bảo đảm
có thêm thịt ăn, thêm sức kéo, thêm phân bón phục vụ cho trồng lúa, hoa màu,
đồng thời phát triển ngành ngư nghiệp và các ngành kinh tế gắn liền với biển.
12


Sinh thời, Người luôn nhắc phải chú ý phát triển lâm nghiệp, ngư nghiệp,
trồng cây, gây rừng và đồng thời chăm sóc bảo vệ rừng. Người ln quan tâm

chú ý đến đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số và nhắc nhở “Phải có kế
hoạch chu đáo, phải chấm dứt tình trạng khai thác bừa bãi”. Bởi “cây rừng là
nguồn lợi lớn”.
Để nông nghiệp phát triển, đời sống nông dân được cải thiện, Người chỉ rõ
cần phải phát triển thêm các nghề phụ gia đình ở nơng thơn. Bởi, đặc điểm
của nghề nơng mang tính thời vụ có nhiều ngày nơng nhàn và do diện tích đất
canh tác hạn chế, ở nhiều vùng thị trường hàng hóa chưa phát triển, để bảo
đảm cuộc sống ổn định, các hộ gia đình nơng thơn đã có thêm nghề phụ để
tận dụng lao động và tăng thêm thu nhập. Những nghề phụ dần dần phát triển
thành nghề chính ở các làng nghề nhưng vẫn tồn tại song song với nghề nơng.
Người nói “miếng vườn của mỗi gia đình xã viên và các loại nghề phụ là
nguồn lợi để tăng thu nhập”; “phải chú ý vận động đồng bào trồng cây ăn quả
như: cam, chanh, chuối… và trồng cây lấy gỗ như: xoan, tre...”. Người hướng
dẫn bà con một cách dễ hiểu: “Muốn lúa tốt, hoa màu tốt, cần nhiều phân…
Muốn có nhiều phân chuồng, phải ni nhiều trâu, bị, lợn”.
Nơng nghiệp tồn diện còn bao gồm các ngành, nghề phụ và ngành nghề
truyền thống ở nông thôn. Do vậy, đồng thời với phát triển ngành nông
nghiệp, cần phát triển nghề phụ gia đình, như nghề mây, tre đan, nghề gỗ,
chạm khảm, nghề dệt… Phát triển các ngành nghề phụ ở nông thôn vừa nâng
cao đời sống của người dân, vừa duy trì bản sắc của các làng nghề truyền
thống, vừa thúc đẩy phát triển ngành nông nghiệp.
Thứ ba, phát triển nông nghiệp tồn diện cịn được thể hiện ở sự hợp lý
trong trình tự phát triển và điều kiện phát triển.
Trong nhiều bài nói và viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh
trước hết ở việc tăng gia sản xuất lương thực, kể cả lúa và màu. Phát triển
nông nghiệp tồn diện và mở rộng ngành, nghề ở nơng thơn, không chỉ nhằm
khai thác, tận dụng các yếu tố sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống
người lao động mà cịn có tác dụng góp phần bảo vệ, giữ gìn và cải tạo mơi
trường sinh thái, cũng như ảnh hưởng tích cực đến trạng thái tâm lý và thái độ
của con người đối với thiên nhiên và xã hội.

Tuy nhiên, tăng gia, mở rộng sản xuất phải phù hợp với điều kiện của
từng địa phương. Điều kiện ở đây được hiểu theo nghĩa tương đối rộng, đó
khơng chỉ là lợi thế về vị trí địa lý, thổ nhưỡng, thời tiết mà cịn là sự phù hợp
về trình độ phát triển của hệ thống máy móc trong nơng nghiệp, con người, sự
13


phù hợp với cơ cấu các ngành của nền kinh tế quốc dân và nhiệm vụ của từng
thời kỳ. Người khẳng định: “Phải phát triển nơng nghiệp một cách tồn diện.
Tùy điều kiện của mỗi địa phương mà trồng nhiều lúa và nhiều hoa màu để
bảo đảm lương thực cho nhân dân và nghĩa vụ đối với Nhà nước… Phải kết
hợp chặt chẽ: công nghiệp địa phương, thủ công nghiệp và nông nghiệp; sản
xuất và chế biến, thương nghiệp và giao thông…”
Người khẳng định: “Muốn lãnh đạo cho đúng tất nhiên phải theo đường
lối chung. Song cách làm phải tùy theo chỗ, tùy theo mùa, tùy theo hoàn cảnh
thực tế địa phương”và “đừng máy móc” như lấy kinh nghiệm cải cách ruộng
đất ở miền đồng bằng mà lấp vào miền biển là không được, là sai. Đồng thời,
phải theo từng mùa vì có mùa thì bà con bận hơn, có mùa thì bà con rảnh
hơn….
Sự phát triển của tồn diện của nơng nghiệp được Người ví như sự vận
động của “guồng máy”: “Trong một cơng xưởng, có nhiều loại máy móc hình
dạng khác nhau và cơng dụng khác nhau. Những máy móc khác nhau ấy phải
bố trí và kết hợp thật ăn khớp với nhau thì sản xuất mới tốt” và nơng nghiệp
cũng có “guồng máy” của nó. Nghĩa là “từ lúc chọn giống đến ngày đưa thóc
vào kho, mọi cơng việc phải ăn khớp, nhịp nhàng với nhau, thì kết quả mới
tăng”. Người minh chứng, muốn tăng thu hoạch phải tăng vụ, tăng diện tích,
muốn tăng vụ, tăng diện tích phải cải tiến nơng cụ, muốn dùng máy thì phải
cày sâu, bừa kỹ và muốn ruộng đất tốt phải bón nhiều phân, muốn có nhiều
phân phải đẩy mạnh chăn ni, muốn phát triển chăn ni phải tăng diện tích
trồng thức ăn cho trâu bị… và Người lưu ý, nơng nghiệp phải coi trọng 3

điều:
Thiên thời - Mùa nào thì cần phải làm việc gì, nhất là phải làm kịp thời vụ.
Địa lợi - Đất nào phải trồng thứ gì cho thích hợp.
Nhân hịa - Xã viên có người khỏe, có người yếu, có người thạo nghề, người
chưa thạo. Cơng việc có việc khó việc dễ, việc nặng việc nhẹ. Phải phân phối
thế nào cho đúng người đúng với việc, việc đúng với người, và ai cũng có
cơng việc, cũng phấn khởi lao động.
Để phát triển nơng nghiệp tồn diện, Hồ Chí Minh nhắc nhở trong nơng
nghiệp phải có kế hoạch, thể hiện tính chủ động, có tầm nhìn xa, “Làm chỗ
nào, làm cái gì, thì phải làm thật kỹ, phải săn sóc ln”và phải đẩy mạnh tăng
gia sản xuất. Vì vậy, áp dụng chủ trương và chính sách phải thật sát với tình
hình thực tế của mỗi nơi. Để giải quyết tốt vấn đề ăn thì sản xuất lương thực
14


phải dồi dào. Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp
làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu... đó là con đường phải đi của chúng ta,
con đường cơng nghiệp hóa nước nhà. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm
cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi
thường. Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy
móc để sản xuất một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả trong cơng nghiệp
và trong nông nghiệp. Người nhiều lần nhấn mạnh, quan trọng nhất trong đời
sống của nhân dân là vấn đề ăn.
Như vậy qua các tác phẩm, bài nói và bài viết của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, có thể khẳng định phát triển nơng nghiệp tồn diện khơng phải là một
nền kinh tế thuần nông, không phải theo lối manh mún, tự cấp, tự túc, mà trên
cơ sở có quy hoạch của một nền sản xuất hàng hóa phát triển theo quy mơ
lớn, đó là một nền nơng nghiệp bền vững hiện đại, với sự phong phú về
ngành, nghề, đa dạng hóa về sản phẩm có cơ cấu kinh tế nội bộ ngành hợp lý,
cân đối, hài hòa, bổ sung cho nhau cùng phát triển mạnh mẽ, hiệu quả kinh tế

cao và bền vững.
5.Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển nơng nghiệp Việt
Nam hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nơng nghiệp tồn diện được Đảng
ta vận dụng sáng tạo trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta khẳng định: Phải đưa nông nghiệp
tiến một bước theo hướng sản xuất lớn, nhằm yêu cầu chủ yếu là tăng nhanh
khối lượng và tỷ suất hàng hóa nơng sản. Nơng nghiệp phải được ưu tiên đáp
ứng những nhu cầu về đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, về vật tư, về
lao động kỹ thuật; những nguồn đầu tư ấy phải được sử dụng có hiệu quả.
Đầu tư cho nông nghiệp phải đồng bộ từ sản xuất đến chế biến, vận chuyển,
bảo quản để có nhiều sản phẩm cuối cùng. Phương châm phát triển nông
nghiệp là kết hợp chun mơn hóa với phát triển tồn diện; phát triển mạnh
cây công nghiệp ngắn ngày. Phát triển nông nghiệp phải lấy thâm canh, tăng
vụ là chính, đồng thời mở rộng diện tích một cách vững chắc và có hiệu quả...
Nghị quyết số 26/NQ-TW Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 khóa X
ngày 5/8/2008 “Về nơng nghiệp, nơng dân và nông thôn” khẳng định: “Nông
nghiệp, nông dân và nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở, động lực
quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị,
bảo đảm an ninh, quốc phịng'
15


Trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh
ứng dụng sâu rộng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học và
công nghệ thông tin trong sản xuất và quản lý nơng nghiệp, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh nông nghiệp, nông thôn để tăng năng suất,
chất lượng, hiệu quả. và sức cạnh tranh, bảo đảm chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu

dài; nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân”. Đại hội XII của Đảng tiếp
tục khẳng định chủ trương phát huy lợi thế của ngành nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa lớn,ứng dụng cơng nghệ cao, nâng cao chất lượng
sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; tăng giá trị gia tăng, đẩy mạnh
xuất khẩu… Đồng thời ‘đẩy nhanh tái cơ cấu ngành nông nghiệp, xây dựng
nền nơng nghiệp sinh thái, phát triển tồn diện cả nơng, lâm, ngư nghiệp theo
hướng hiện đại, bền vững. Tuy nhiên, hạn chế của ngành nông nghiệp là năng
suất lao động thấp, thiếu chiến lược quy hoạch tổng thể dài hạn, giá trị gia
tăng thấp, quy mô sản xuất nhỏ, manh mún, trình độ lao động.
Vận dụng những nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
triển nơng nghiệp tồn diện vào tình hình hiện nay, cần chú trọng giải quyết
các vấn đề:
Thứ nhất, cần rà soát, điều chỉnh, hoàn thiện chiến lược quy hoạch, kế
hoạch của các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm nhằm phát huy tiềm năng,
lợi thế của quốc gia, của vùng, của địa phương, lựa chọn những vùng trồng
cây lương thực và cây công nghiệp cho tiêu dùng, sản xuất và cho xuất khẩu
có năng suất cao nhất và giá trị gia tăng cao. Bởi, trên thực tế, một số sản
phẩm nông nghiệp hiện nay sản xuất đã vượt xa so với các chỉ tiêu quy hoạch
đề ra. Chẳng hạn, cà-phê vượt 21,9%, cao-su vượt 25%, hồ tiêu vượt 149%...
Như vậy, chất lượng quy hoạch chưa phù hợp, những dự báo trong quy hoạch
cịn thiếu chính xác.
Thứ hai, phát triển cơng nghiệp hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp, gắn
kết phát triển công nghiệp với nông nghiệp, công nghiệp phải phục vụ nông
nghiệp, đa dạng hóa ngành, nghề ở nơng thơn để một mặt, cơng nghiệp hóa
nơng nghiệp, phát triển cơng nghiệp chế biến, mặt khác giải quyết vấn đề thừa
lao động trong nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp,
tạo điều kiện cho người dân cải thiện, nâng cao đời sống.
Thứ ba, hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, quy mô
lớn tạo thuận lợi cho ứng dụng khoa học - công nghệ và phát huy lợi thế nhờ
quy mơ, tập trung các nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia, của vùng, của địa

phương, đa dạng hóa các hình thức liên kết gắn với việc xây dựng thương
16


hiệu, gắn nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, đáp ứng nhu cầu, cơ cấu
tiêu dùng trong nước và thị trường quốc tế thay đổi.

IV.NHỮNG THÀNH TỰU VIỆT NAM ĐẠT ĐƯỢC TRONG PHÁT
TRIỂN, SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
1.Phát triển, sản xuất Nơng Nghiệp trong tình hình kinh tế - xã hội hiện
nay
Ngành đảm bảo nguồn cung lương thực, thực phẩm dồi dào, phục vụ nhu
cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Khái quát những kết quả của ngành
Nông nghiệp 9 tháng năm 2021 tại buổi họp báo thường kỳ quý 3/2021 của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngày 05/10, ông Nguyễn Văn Việt Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, cho biết tốc độ tăng trưởng của ngành đạt 2,74% và
đóng góp 23,52% vào mức tăng chung của tồn nền kinh tế.
Tính đến hết tháng 9/2021, cả nước gieo cấy được 7,13 triệu ha lúa; đến
nay đã thu hoạch đạt khoảng 5,3 triệu ha, sản lượng khoảng 33,5 triệu tấn
thóc. Tổng diện tích gieo trồng cây lâu năm ước đạt 3.642,4 nghìn ha, tăng
1,3% so cùng kỳ

Hình 1.2 GDP các quý năm 2021
17


Đối với chăn nuôi, sản lượng thịt trâu ước đạt 86,6 nghìn tấn, giảm
0,4%; thịt bị đạt 332,4 nghìn tấn, tăng 2,4%; thịt lợn hơi ước đạt 3.060,9
nghìn tấn, tăng 5,0%; thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước đạt 1.402,7 nghìn tấn,
tăng 4,3%; sản lượng sữa bị tươi ước đạt 856,6 nghìn tấn, tăng 11,0%; trứng
ước đạt 12,8 tỷ quả, tăng 4,3%.

Thủy sản là lĩnh vực chịu ảnh hưởng mạnh của dịch Covid-19, sản lượng
khai thác và nuôi trồng quý 3 giảm 5,2%. Tính chung 9 tháng, tổng sản lượng
thủy sản đạt gần 6,38 triệu tấn, giảm 0,2% so với cùng kỳ năm 2020.
Trong 9 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt
35,5 tỷ USD, tăng 17,7% so với cùng kỳ năm trước
Về thị trường xuất khẩu: Khu vực châu Á chiếm 42,2% thị phần; châu
Mỹ 30,7%, châu Âu 11,3%, châu Đại Dương 1,5% và châu Phi 1,9%.Tuy
nhiên, kim ngạch nhập khẩu nông lâm thủy sản, nhất là nguyên liệu phục vụ
sản xuất cũng tăng mạnh, đạt 32,2 tỷ USD, tăng 41,6%. "Nếu không thúc đẩy
mạnh hai lĩnh vực này thì ngành khó có thể đạt được mục tiêu khi vật tư nông
nghiệp tăng cao. Do vậy, xuất siêu 9 tháng dù đạt trên 3,3 tỷ USD nhưng
giảm 55,3% so với cùng kỳ năm trước.Theo ông Nguyễn Văn Việt, để đạt
mức tăng trưởng toàn ngành năm 2021 là 2,8% thì lĩnh vực chăn ni và thủy
sản phải có sự phát tăng trưởng mạnh trong quý 4 vì trồng trọt từ nay đến cuối
năm khơng cịn nhiều dư địa tăng trưởng.

Hình 1.3 Xuất khẩu nơng, lâm, thủy sản vượt khó, tăng trưởng ổn định

18


Để tháo gỡ khó khăn, tăng tốc sản xuất và xuất khẩu trong quý cuối năm,
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến, cho
biết Bộ đã ban hành Kế hoạch hành động theo bốn nhóm nhiệm vụ trọng tâm
như sau:
Thứ nhất, tập trung chỉ đạo sản xuất, kinh doanh phù hợp với điều kiện
thời tiết, diễn biến dịch Covid-19 tại từng tỉnh, thành phố.
Thứ hai, đẩy mạnh phát triển thị trường, tháo gỡ rào cản, tạo thuận lợi
cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Thứ ba, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội ngành hàng

tập trung giải quyết khó khăn về kỹ thuật, thuận lợi hóa thơng quan, hạ tầng
logistic... khơng để ứ đọng hàng hóa tại vùng sản xuất, nhà máy, trên các tỉnh
biên giới với Trung Quốc và các thị trường xuất khẩu trọng điểm.
Thứ tư, tăng cường các giải pháp phòng, chống thiên tai hiệu quả, giảm
thiểu thiệt hại đến mức thấp nhất cho kinh tế, sản xuất, đời sống người dân.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) Phùng
Đức Tiến đánh giá, năng lực sản xuất của ngành nơng nghiệp vẫn cịn rất lớn,
xuất khẩu nông sản sẽ tiếp tục tăng mạnh. Gia nhập CPTPP mở ra cơ hội lớn
hơn cho hàng nông sản Việt Nam tiến vào các thị trường lớn, hội nhập sâu
hơn vào nền kinh tế quốc tế.

2.Tác động của phát triển Nông nghiệp đối với đời sống của nhân dân
Phát triển nơng nghiệp có hoạt động rất lớn đối với cuộc sống của nhân
dân, đặc biệt là ở các nước nông thơn và có nền kinh tế nơng nghiệp mạnh
mẽ. Dưới đây là một số hoạt động chính của phát triển nông nghiệp đối với
cuộc sống của nhân dân:
Cung cấp thực phẩm và dinh dưỡng: Nông nghiệp là nguồn cung cấp
thực phẩm chính cho dân số. Phát triển nơng nghiệp đảm bảo rằng nhân dân
có đủ thực phẩm và dinh dưỡng cần thiết để duy trì sức khỏe và phát triển.
Tạo việc làm: Nông nghiệp tạo ra khối lượng công việc lớn cho dân làng
và khu vực nông thôn. Việc này giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp và nâng cao thu
nhập cho những người sống ở nông thôn.
Tạo ra thu nhập: Phát triển nơng nghiệp có thể tạo ra thu nhập cho
nông dân và người làm trong ngành này. Thu nhập này có thể được sử dụng
19


để cải thiện chất lượng cuộc sống, trả nợ, đầu tư vào giáo dục và chăm sóc
sức khỏe.
Phát triển kinh tế địa phương: Nông nghiệp thường là trung tâm của

nền kinh tế địa phương. Khi nơng nghiệp phát triển, nó thường kéo dài sự
phát triển của các lĩnh vực khác như chế độ thực phẩm, vận tải và thương mại.
Điều này có thể tạo ra một tác động lan tích cực đối với cuộc sống của cả khu
vực.
Cải thiện hạ tầng và dịch vụ công cộng: Để hỗ trợ nông nghiệp, chính
phủ thường đầu tư vào cơ sở hạ tầng như đường xá, điện, nước sạch và dịch
vụ y tế. Điều này cải thiện đời sống nhân dân ở các vùng nông thôn.
Bảo vệ môi trường: Phát triển nông nghiệp vững chắc có thể giúp bảo vệ
mơi trường bằng cách sử dụng các phương pháp canh tác hiệu quả hơn, giảm
sử dụng hóa chất và bảo vệ các nguồn tài nguyên tự nhiên.
Bảo vệ an ninh lương thực: Sự phát triển của nơng nghiệp đảm bảo
rằng đất nước có khả năng tự cung cấp ứng dụng thực phẩm và không phụ
thuộc vào thực phẩm nhập khẩu từ các quốc gia khác, điều này đảm bảo an
ninh lương thực.
Tóm lại, phát triển nông nghiệp không chỉ cung cấp thực phẩm và cơng
việc mà cịn có tác dụng hỗ trợ cuộc sống của nhân dân bằng cách cải thiện
thu nhập, hạ tầng, dịch vụ công cộng và bảo vệ môi trường.

V KẾT LUẬN
Chủ nghĩa u nước đóng vai trị quan trọng trong phong trào thi đua
phát triển sản xuất nông nghiệp cố gắng nâng cao đời sống nhân dân theo tư
tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam. Dưới đây là một số điểm luận luận về vai trò
của chủ nghĩa yêu nước trong bối cảnh này:
Tơn vinh tư tưởng Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa yêu nước được xem là
một phần quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh, người đã góp phần xây dựng
và phát triển nông nghiệp ở Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, u
nước khơng chỉ đơn thuần là tình cảm đối với q hương mà cịn là sự kết
thúc việc nâng cao đời sống của người dân thông qua phát triển nông nghiệp.
Động viên tinh thần thi đua: Chủ nghĩa yêu nước là một yếu tố quan
trọng để thúc đẩy tinh thần thi đua trong phát triển sản xuất nông nghiệp.

Những người yêu nước sẽ cảm thấy động viên và sẵn sàng đóng góp hết mình
20



×