Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Luận văn thạc sĩ tư tưởng hồ chí minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân nội dung và giá trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.04 KB, 98 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN....................................................10
1.1. Những khái niệm cơ bản......................................................................10
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự cần thiết phải xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ
Tổ quốc.......................................................................................................13
1.3. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh tồn diện, trong đó
lấy xây dựng về chính trị làm “gốc”, mang bản chất giai cấp cơng nhân,
tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc..............................................................19
1.4. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân có tổ chức chặt chẽ, cơ cấu hợp
lý; Kỷ luật tự giác, nghiêm minh; Từng bước tiến lên chính quy, hiện đại. .33
1.5. Huấn luyện cán bộ lực lượng vũ trang nhân dân là công việc gốc
của Đảng.....................................................................................................38
Chương 2: GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG LỰC
LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN TRONG THỜI KỲ MỚI..................48
2.1. Những yếu tố tác động đến xây dựng lực lượng vũ trang theo tư tưởng
Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay.................................................................48
2.2. Giá trị lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân hiện nay..............................................................................56
2.3. Giá trị thực tiễn về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong
thời kỳ mới.................................................................................................68
KẾT LUẬN....................................................................................................91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................92
TÓM TẮT LUẬN VĂN................................................................................96


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, nhà
chiến lược quân sự thiên tài, "Anh hùng giải phóng dân tộc - Nhà văn hóa kiệt
xuất", Người cha thân yêu của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Chính
Người đã làm rạng rỡ dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam và góp phần vào
cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
tiến bộ xã hội. Người đã đi xa nhưng để lại cho nhân dân Việt Nam di sản tinh
thần vô cùng to lớn và phong phú, trong đó có tư tưởng về xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là
một nội dung hết sức quan trọng trong tư tưởng của Người về quân sự, là sự
vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết quân sự Mác - Lênin, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống xây dựng lực lượng vũ trang đặc sắc của
dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa quân sự thế giới về xây dựng lực lượng
vũ trang. Sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân nằm trong tiến trình đấu tranh cách mạng của nhân
dân Việt Nam nhằm thực hiện đường lối cách mạng do Đảng đề ra. Đó là một
trong những nhân tố hàng đầu, quyết định thắng lợi vào cuộc đấu tranh cách
mạng ở Việt Nam.
Quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng vũ trang
nhân dân ta trong suốt hơn 75 năm qua chính là kết quả của đường lối xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân đúng đắn của Đảng. Đường lối đó được
hình và phát triển ngày càng hồn chỉnh trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân có vai trị là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng, Nhà nước ta trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.


2
So với các thời đại trước đây trong lịch sử dân tộc Việt Nam đã trải qua
mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, lực lượng vũ trang nhân dân

Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đến nay được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân đã có bước phát triển mới về bản
chất giai cấp; hình thức tổ chức lực lượng; huấn luyện; vũ khí trang bị… đã
cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm nên những thắng lợi oanh liệt, vẻ vang
của cách mạng Việt Nam. Chính điều đó đã phản ánh và chứng minh giá trị lý
luận và thực tiễn to lớn tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân.
Trong bối cảnh hiện nay và những năm tiếp theo, toàn cầu hóa và
cuộc cách mạng cơng nghiệp (4.0), đặc biệt khoa học - công nghệ tiếp tục
phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế trên phạm vi toàn
thế giới. Cục diện thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thối kinh
tế tồn cầu đã hình thành trật tự đa cực rõ hơn; xu thế dân chủ hóa trong
quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển; các nước lớn vừa hợp tác vừa đấu tranh,
tranh giành ảnh hưởng gay gắt hơn, chi phối đời sống thế giới. Cạnh tranh
kinh tế, tranh giành nguồn tài nguyên, nguồn nhân lực cho phát triển giữa
các nước tiếp tục diễn ra gay gắt. Hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu
thế lớn. Nhưng xung đột cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo vẫn diễn ra
khó lường, các yếu tố đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống diễn
biến rất phức tạp.
Ở trong nước, đã và đang xuất hiện nhiều vấn đề phức tạp, ảnh hưởng
tới việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Các thế lực thù địch tăng cường
chống phá về chính trị, tư tưởng, văn hóa, dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tơn
giáo; tun truyền kích động, thực hiện “diễn biến hịa bình”. Những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng ngày càng nghiêm trọng.
Tình trạng vi phạm pháp luật, tội phạm có xu hướng gia tăng và xuất hiện


3
nhiều loại tội phạm mới, đặc biệt là loại tội phạm có tổ chức, tội phạm sử
dụng cơng nghệ cao. Trật tự, an tồn xã hội vẫn cịn nhiều diễn biến phức tạp.

Tình hình Biển Đơng đã và đang trở thành vấn đề thời sự mà dự luận
nước ta và thế giới quan tâm theo dõi… Do vậy, trong giai đoạn hiện nay của
cách mạng Việt Nam, một trong những nhân tố cốt lõi nhất là xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, có sức chiến đấu cao, làm nịng cốt
khơng chỉ là u cầu cấp bách mà cịn có ý nghĩa lâu dài đối sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Vì lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân - Nội dung và giá trị” làm đề tài luận văn thạc
sĩ ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố dưới dạng chuyên
đề, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các bài đăng trên các tạp chí, sách, báo, kỷ
yếu hội thảo khoa học. Các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu có đề cập đến tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Khái qt lại
có thể chia thành các mảng chính như sau:
- Các sách và tạp chí viết trực tiếp hoặc có đề cập đến tư tưởng qn sự
Hồ Chí Minh và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu biểu là:
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam
của Võ Nguyên Giáp (1997). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, nêu rõ: trong
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân trên nền tảng lực lượng chính trị của quần
chúng; xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân; xây dựng bản chất cách
mạng, thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện đối
với lực lượng vũ trang; chăm lo xây dựng con người đồng thời không coi nhẹ


4
vai trị của vũ khí, kỹ thuật; quan tâm đến đời sống vật chất của bộ đội; xây

dựng đội ngũ cán bộ quân sự và tổ chức lãnh đạo, chỉ huy quân đội.
Cuốn sách Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh của Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam (2002). Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, là tác phẩm có giá trị lớn
về lý luận và thực tiễn, đã góp phần làm rõ những hoạt động lý luận và thực
tiễn về quân sự trong cuộc đời cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; làm rõ
nguồn gốc, q trình hình thành, phát triển và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
về quân sự, trong đó có tư tưởng của Người về xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân. Ðó là lý tưởng về: xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mang bản
chất cách mạng của giai cấp công nhân; Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt các lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ
quân; kết hợp xây dựng con người, trang bị vũ khí và huấn luyện quân sự,
nâng cao sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng
cách đánh của lực lượng vũ trang nhân dân.
Cuốn sách Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh của Hồng Minh Thảo
(2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nội dung cuốn sách tập trung trình
bày những tư tưởng quân sự cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh như: Dân là
gốc của mọi xã hội; Chiến tranh nhân dân, tiến tới đánh tiêu diệt chiến lược;
Nghệ thuật quân sự: cách đánh thích hợp - một phương châm chiến lược trong
khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng; Đấu tranh chính trị - ngoại
giao nhằm phối hợp với đấu tranh quân sự; Yêu quý - trọng dụng và phát triển
nhân tài đã được các tướng lĩnh, các nhà quân sự thấm nhuần và vận dụng
trong tác chiến của quân đội ta từ khi ra đời đến nay.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội nhân dân của Nguyễn
Vĩnh Thắng và Nguyễn Mạnh Hưởng (2004). Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội. Trong cuốn sách này, các tác giả đã luận giải những nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội nhân dân, đồng thời làm rõ một số


5
vấn đề xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

trong giai đoạn mới của của cách mạng nước ta.
Cuốn sách Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh của Trần Thị Minh Tuyết
(2015), Nxb.Chính trị, Hà Nội. Nội dung chính của cuốn sách gồm: Khái
niệm, đặc điểm, cơ sở hình thành và quá trình phát triển tư tưởng quân sự Hồ
Chí Minh; Nội dung tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh; Vận dụng tư tưởng quân
sự Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Cuốn sách có giá trị lý luận và thực
tiễn sâu sắc đối với cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong sự
bảo vệ an ninh, trật tự của Tô Lâm (2017), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
Cấu trúc cuốn sách gồm những nội dung chính: Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự; Nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ
an ninh, trật tự; Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong sự
nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự hiện nay; Vận dụng sáng tạo và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh,
trật tự giai đoạn hiện nay. Cuốn sách có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc,
đồng thời nêu bật vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân Việt
Nam của Lương Cường (2017), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội. Cuốn sách
gồm những nội dung chính: Bối cảnh lịch sử, nguồn gốc và q trình hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam; Tư
tưởng Hồ Chí Minh về bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân Việt
Nam; Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững
mạnh về chính trị; Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội
địa phương, dân quân du kích và tính cách mạng, chính quy, hiện đại trong
xây dựng quân đội kiểu mới; Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, huấn luyện
cán bộ, chiến sĩ; Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống bộ đội, tri ân


6

thương binh, liệt sĩ và thực hiện chính sách hậu phương quân đội. Cuốn sách
có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, đánh dấu bước phát triển mới trong
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng của Người về quân đội
và xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng.
Cuốn sách giáo trình tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh của khoa tư tưởng
Hồ Chí Minh - Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Vũ Quang Ánh (chủ biên),
2019, Nxb lý luận chính trị. Cuốn sách gồm 3 chương: Chương 1: Bối cảnh
lịch sử, nguồn gốc và quá trình hình thành, phát triển tư tưởng quân sự Hồ
Chí Minh. Chương 2: Nội dung tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Chương 3:
Vận dụng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh nhằm tăng cường quốc phòng, an
ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Đặc biệt phù hợp
với công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập của sinh viên chuyên ngành Hồ
Chí Minh học và các đối tượng khác trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Các bài viết trên báo, tạp chí nghiên cứu về tư tưởng quân sự Hồ Chí
Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân như: Chủ
tịch Hồ Chí Minh với quá trình tổ chức và xây dựng đội quân chủ lực đầu tiên của
Quân đội nhân dân Việt Nam của Dương Ðình Lập, Tạp chí Lịch sử qn sự, số 5,
năm 1995; Quân đội của dân, do dân, vì dân - tư tưởng nhân văn đặc sắc trong di
sản tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh của Nguyễn Vĩnh Thắng, Tạp chí Giáo dục lý
luận chính trị quân sự, số 3, năm 2000; Xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam
vững mạnh về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Lê Ðình Sĩ, Tạp chí Cộng
sản, số 13, nãm 2002; Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân của Trịnh Vương Hồng, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 5, năm 2005; Xây
dựng nền quốc phịng tồn dân trong tình hình mới theo tư tưởng Hồ Chí
Minh của Vũ Quang Ánh - Vũ Quang Hưng, Tạp chí lý luận chính trị và
Truyền thông, số 5, năm 2015…
- Một số đề tài luận văn, luận án:
Luận án của Hoàng Lữ Quang (1992), Cơ sở khoa học, nội dung, và
phương pháp vận dụng tư tưởng quân sự và nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn,



7
lấy ít địch nhiều của dân tộc ta, Học viện Quốc phịng, Hà Nội. Cơng trình
đã bàn về vấn đề lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều trên phương diện nội
dung, cơ sở khoa học và phương pháp vận dụng nghệ thuật lấy nhỏ thắng
lớn, lấy ít địch nhiều của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới
của đất nước.
Luận án: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ
quân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)
của Lê Huy Bình (2006). Trong luận án, tác giả đã góp phần làm rõ cơ sở
hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang
ba thứ quân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (19451954) - thời kỳ mà Hồ Chí Minh đã có những cống hiến kiệt xuất trên lĩnh
vực quân sự, thời kỳ phát triển hoàn chỉnh tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
lực lượng vũ trang ba thứ qn.
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên có những hướng tiếp cận và phạm vi
nghiên cứu khác nhau đã cố gắng làm rõ những vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và đưa ra nhiều vấn đề vận
dụng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong điều kiện mới của cách mạng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ nội dung và giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số khái niệm về xây dưng lực lượng vũ trang nhân dân
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phân tích nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân.
- Làm rõ giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân.



8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung và giá trị của Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân rất rộng và phong phú. Vì vậy, luận văn giới hạn nghiên cứu những
nội dung và giá trị cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân (chủ yếu là quân đội nhân dân).
- Về thời gian: Trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân.
Các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước có liên quan đến việc xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử là chủ yếu. Đồng thời, sử dụng phương pháp lịch sử
và phương pháp logic. Ngồi ra cịn kết hợp sử dụng một số phương pháp phổ
biến khác trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn như phương pháp
tổng kết, so sánh, phân tích, tổng hợp… để làm rõ nội dung đề tài.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa và phân tích luận giải những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
- Làm rõ giá trị lý luận và thực tiễn về xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.



9
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể góp thêm tài liệu tham khảo
phục vụ cho việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong các nhà trường, học viện, đơn vị, địa
phương hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 2
chương, 8 tiết.
Chương 1: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân.
Chương 2: Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân.


10
Chương 1
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm lực lượng vũ trang nhân dân
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (1997). Lực lượng vũ
trang là “Các tổ chức được trang bị vũ khí, chuyên dùng để tiến hành đấu
tranh vũ trang, giữ gìn trị an, bảo vệ đất nước.” [60, tr.577].
Theo Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam (2004). Khái niệm lực
lượng vũ trang được nêu đầy đủ hơn.
Lực lượng vũ trang là lực lượng có tổ chức, được trang bị vũ khí, phương
tiện kỹ thuật quân sự và huấn luyện quân sự do một giai cấp, nhà nước hoặc tập
đoàn xã hội lập ra nhằm những mục đích nhất định; sản phẩm của chế độ tư hữu

và sự phân chia xã hội thành giai cấp đối kháng. Bản chất giai cấp, mục tiêu
chiến đấu, nguyên tắc xây dựng và tổ chức, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang do
bản chất giai cấp, đường lối, chính sách của nhà nước, tập đồn xã hội tổ chức ra
lực lượng vũ trang đó quyết định. Ở một số nước, lực lượng vũ trang chỉ có quân
đội thường trực gồm những quân chủng và binh chủng nhất định, có nước cịn
có bộ đội biên phòng, lực lượng cảnh sát vũ trang; ở một số nước khác còn gồm
lực lượng bán vũ trang [8, tr.627].
Sinh thời, Hồ Chí Minh chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về lực lượng
vũ trang nhân dân, nhưng từ những quan điểm của Người về xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân, chúng ta có thể rút ra quan niệm của Hồ Chí Minh
về lực lượng vũ trang nhân dân đó là: lực lượng vũ trang cách mạng kiểu mới
gồm các tổ chức vũ trang và bán vũ trang của nhân dân do Đảng Cộng sản
lãnh đạo, mang bản chất của giai cấp cơng nhân và tính nhân dân sâu sắc.


11
Như vậy, khái niệm lực lượng vũ trang nhân dân được nêu trong Từ
điển Bách khoa quân sự Việt Nam(năm 2004) về cơ bản có sự thống nhất với
quan niệm của Hồ Chí Minh, đều cho rằng đó là lực lượng vũ trang do Đảng
Cộng sản - chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, mang bản chất cách
mạng của giai cấp cơng nhân và tính nhân dân sâu sắc. Tuy nhiên, do xuất
phát từ thực tiễn lịch sử, cụ thể và thực tiễn tổ chức của lực lượng vũ trang
nhân dân, Người đã xác định cơ cấu của lực lượng vũ trang nhân dân ở nước
ta là gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du
kích, tự vệ. Theo Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, thành phần lực lượng
vũ trang nhân dân ở nước ta rộng hơn so với quan niệm của Hồ Chí Minh,
gồm có: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng, dân quân tự
vệ, lực lượng cảnh sát biển và Công an nhân dân. Từ đó, chúng ta có thể
khẳng định, khái niệm lực lượng vũ trang nhân dân nêu trong Từ điển Bách
khoa quân sự Việt Nam chính là sự kế thừa và phát triển quan niệm của Hồ

Chí Minh về lực lượng vũ trang nhân dân.
Hiện nay, theo Luật Quốc phòng (2018), đã được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ năm thơng qua ngày
08/6/2018 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019 quy định:
Điều 23. Thành phần, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dân
- Lực lượng vũ trang nhân dân gồm Quân đội nhân dân, Công an nhân
dân và dân quân tự vệ.
- Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân
dân, Đảng và Nhà nước; có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, phục vụ
chiến đấu, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, thành quả cách mạng; cùng toàn dân xây dựng
đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế. [57, tr.35]. Như vậy, nội hàm về


12
thành phần, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dân cho đến nay đầy đủ,
hoàn thiện và phạm vi sâu sắc hơn.
1.1.2. Một số khái niệm khác liên quan
Theo Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam (2004)
- Quốc phịng là cơng cuộc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể
hoạt động đối nội và đối ngoại về qn sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa
học… của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh
tồn diện, cân đối, trong đó sức mạnh qn sự là đặc trưng, nhằm giữ vững
hịa bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng
đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, quy mơ. Quốc phịng
trở thành hoạt động của cả nước, trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Quốc phòng phải kết hợp chặt chẽ với an ninh để bảo vệ đất nước, bảo vệ chế
độ. Quốc phòng, an ninh phải kết hợp chặt chẽ với kinh tế để bảo vệ và xây
dựng đất nước. [8, tr.848].

- Quân sự là lĩnh vực hoạt động đặc biệt của xã hội liên quan đến đấu
tranh vũ trang, chiến tranh và quân đội (lực lượng vũ trang) [8, tr.844]. - Quân
đội là lực lượng vũ trang chuyên nghiệp (tập trung thường trực) của một giai
cấp, nhà nước, tập đoàn xã hội, làm công cụ bạo lực để tiến hành đấu tranh vũ
trang nhằm thực hiện mục đích chính trị của giai cấp, nhà nước, tập đoàn xã
hội tổ chức ra quân đội; sản phẩm của xã hội có giai cấp đối kháng và nhà
nước. Bản chất giai cấp, mục tiêu chiến đấu và chức năng, nhiệm vụ của quân
đội phụ thuộc bản chất giai cấp, mục đích chính trị của giai cấp, nhà nước, tập
đoàn xã hội tổ chức ra qn đội; khơng có qn đội phi giai cấp, đứng ngồi
chính trị. [8, tr.829].
- Dân qn tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng, một thành phần trong
ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, có chức năng vừa lao
động sản xuất vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu kết hợp với lực lượng an
ninh cơ sở giữ gìn trật tự xã hội, an ninh chính trị tại địa phương; là lực lượng


13
chiến lược của chiến tranh nhân dân, làm nòng cốt cho phong trào toàn dân
đánh giặc tại địa phương. [8, tr.300].
- Cơng an nhân dân là lực lượng nịng cốt của lực lượng vũ trang nhân
dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an
tồn xã hội, đấu tranh phịng, chống tội phạm. [57, tr.38].
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự cần thiết phải xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc
và bảo vệ Tổ quốc
Ngày 18/6/1919, lấy tên Nguyễn Ái Quốc, thay mặt Hội những người
yêu nước Việt Nam ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Vécxây
(Pháp) yêu sách của nhân dân Việt Nam địi Chính phủ Pháp phải thừa nhận
các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Nhưng
bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy, muốn

độc lập, tự do khơng thể trơng chờ vào lịng nhân từ của bọn thực dân, đế
quốc. Bản yêu sách đó của Nguyễn Ái Quốc đã gây tiếng vang lớn không
chỉ trong dư luận xã hội Pháp mà còn dội mạnh đến các nước thuộc địa,
trong đó có Việt Nam đã tạo nên một bước chuyển mới trong phong trào
giải phóng dân tộc.
Cuối tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc, với tư cách đại biểu Đông
Dương đến dự Đại hội Đảng Xã hội Pháp lần thứ XVIII họp ở thành phố Tua
(Pháp). Đại hội họp từ ngày 25 đến ngày 30 - 12 - 1920, thảo luận nhiều nội
dung trong đó có vấn đề đảng viên nên gia nhập Quốc tế thứ ba hay ở lại
Quốc tế thứ hai. Tại đại hội Người đã phát biểu lên án chủ nghĩa thực dân,
kêu gọi giai cấp vô sản Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân Đơng Dương. Nguyễn Ái Quốc cùng một số đại biểu ưu tú của giai
cấp công nhân Pháp đã bỏ phiếu gia nhập Quốc tế thứ ba và trở thành một
trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là bước
nhảy vọt về chất trong tư tưởng, lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ


14
một người yêu nước chân chính trở thành người cộng sản đầu tiên ở Việt
Nam. Bước chuyển lịch sử đó của Nguyễn Ái Quốc đồng thời phù hợp với xu
thế của thời đại, mở ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam và có sức lơi cuốn lớp lớp người Việt Nam yêu
nước tin tưởng đi theo. Hồ Chí Minh cho rằng: “Ở trên thế giới, khơng có dân
tộc chiến bại nào bị kẻ chiến thắng ngược đãi, hành hạ bằng dân tộc thuộc
địa” [38, tr.387]. Vì, ở đâu có áp bức giai cấp, áp bức dân tộc, thì tất yếu xuất
hiện đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc. Người rút ra kết luận: "Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác là con đường cách
mạng vô sản" [49; tr.30]. Từ khi Nguyễn Ái Quốc trở thành người Cộng sản,
Người đã đi sâu nghiên cứu, phân tích vạch trần bản chất xấu xa, lên án tội ác
của chủ nghĩa thực dân, đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa. Người đã sớm

chỉ ra: “chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ
mạnh đối với kẻ yếu rồi” [38, tr.114].
Kế thừa lý luận về bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhìn
rõ sự thất bại con đường cứu nước của các sĩ phu yêu nước tiến bộ đương
thời: Tiêu biểu là phong trào Cần Vương với hàng loạt cuộc khởi nghĩa diễn ra
ở nhiều địa phương trong cả nước (1885 - 1896); cuộc khởi nghĩa Yên Thế
(Bắc Giang) kéo dài từ năm 1884 đến năm 1913 mới bị dập tắt. Thất bại của
các phong trào yêu nước đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong
kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào u nước đến thành cơng.
Bên cạnh đó, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu tiến
bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Tiêu biểu là xu
hướng bạo động của Phan Bội Châu; xu hướng cải cách của Phan Chu Trinh
(1906 - 1908); phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907); phong trào của Việt
Nam quốc dân Đảng (1927 - 1930)… Tất cả các phong trào yêu nước theo hệ
tưởng dân chủ tư sản đều thất bại.


15
Mặc dù thất bại nhưng sự phát triển mạnh mẽ của các phong trào yêu
nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã khẳng định ý chí kiên
cường, bất khuất vì độc lập, tự do của dân tộc. Tuy nhiên, cũng chứng tỏ con
đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng dân chủ tư sản
đã khơng dẫn đến thành cơng. Hồ Chí Minh chỉ rõ tất yếu phải sử dụng bạo
lực cách mạng vì “bất cứ lịch sử xâm chiếm thuộc địa nào - thì từ đầu đến
cuối đều được viết bằng máu những người bản xứ...” [38, tr.352]. Bởi vì, chiến
tranh khơng phải là do chúng ta muốn mà vì chúng quyết tâm cướp nước ta,
buộc ta phải cầm súng. Không thể ảo tưởng trông chờ, cầu xin sự “ban ơn”, “cải
cách” của kẻ thù mà có nền độc lập, tự do, mà chỉ có thể giành được bằng bạo
lực cách mạng. Đây là vấn đề tất yếu, có tính ngun tắc của Đảng cách mạng.
Chính vì vậy, trong Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930), Nguyễn

Ái Quốc đã chỉ rõ một trong những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam về
phương diện chính trị: "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến;
làm cho nước Nam được hồn tồn độc lập. Dựng ra Chính phủ cơng nông binh;
tổ chức ra quân đội công nông" [40; tr.1].
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, phong trào đấu tranh của
nhân dân ta phát triển mạnh. Trong những năm 1930 - 1931, trên cả nước có
rất nhiều cuộc bãi cơng, biểu tình liên tiếp nổ ra ở hầu khắp các địa phương,
mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh. Thời kỳ này, Đảng đã xác
định một số vấn đề cơ bản về khởi nghĩa vũ trang, vũ trang bạo động; coi
khởi nghĩa vũ trang là sự nghiệp của đông đảo quần chúng và để chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang phải lấy việc xây dựng lực lượng chính trị của quần
chúng làm nền tảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba (3/1931),
Đảng chủ trương, khi giành được chính quyền thì thành lập “Qn đội công
nông”.
Thực hiện chủ trương trên, ngày 28-3-1935, Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ nhất họp tại Ma Cao (Trung Quốc), Đảng ta đã ra “Nghị quyết về Đội tự vệ”.


16
Đây là nghị quyết đầu tiên của Đảng về tổ chức, chỉ đạo xây dựng, huấn luyện và
hoạt động của lực lượng tự vệ. Nghị quyết về Đội tự vệ khẳng định “Tự vệ đội
càng mạnh thì tức là có điều kiện thuận tiện để sau này tổ chức du kích chiến
tranh, võ trang bạo động, Hồng quân” [16, tr.92]. Đây là một dấu mốc quan trọng
mở ra một thời kỳ mới, là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng xuyên suốt qua
các giai đoạn cách mạng. Có thể nói, Nghị quyết về Đội tự vệ là khởi đầu của tư
tưởng vũ trang toàn dân và tư tưởng chiến tranh nhân dân với phong trào toàn dân
đánh giặc. Ngay sau khi có nghị quyết của Đảng, các Đội tự vệ cơng nơng mang
tính chất là những tổ chức vũ trang quần chúng ra đời, đây là tiền thân của các đội
Cứu quốc quân và Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân sau này.
Thời kỳ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền (1940 - 1945), đi

đơi với chủ trương mở rộng và củng cố các đội tự vệ ở khắp các vùng nông
thôn, thành thị, Đảng ta chủ trương thành lập các đội tự vệ cứu quốc, các tổ,
tiểu đội du kích cứu quốc và các đội du kích chính thức. Các đội tự vệ đã trở
thành tổ chức vũ trang quần chúng của các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận
Việt Minh, được xây dựng ở các căn cứ, địa phương có điều kiện; phối hợp
với các đơn vị cứu quốc quân, Việt Nam Tuyên truyền giải phóng qn làm
nịng cốt cho quần chúng thực hiện vũ trang khởi nghĩa từng phần, tiến hành
chiến tranh du kích cục bộ, xây dựng và mở rộng các căn cứ địa. Đến cách
mạng Tháng tám năm 1945, lực lượng dân qn du kích đã phát triển lên tới
vài chục nghìn người cùng với giải phóng qn và tồn dân thực hiện thắng
lợi cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Những năm 1945 - 1946, Chúng ta cần hịa bình để xây dựng nước nhà,
cho nên chúng ta đã ép lòng mà nhân nhượng để giữ hịa bình. Dù thực dân
Pháp đã bội ước, đã gây chiến tranh, nhưng gần một năm tạm hịa bình đã cho
chúng ta thời giờ để xây dựng lực lượng căn bản. Đến cuối năm 1946, khi
Pháp cố ý gây chiến tranh, chúng ta không thể nhân nhượng hơn nữa thì cuộc
kháng chiến tồn quốc bắt đầu. Theo Hồ Chí Minh tất yếu sử dụng bạo lực


17
cách mạng khởi nguồn từ bản chất tàn bạo của chế độ thống trị và sự ngoan
cố của kẻ thù. “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và
dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng,
giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền” [52, tr.391]. Hồ Chí Minh
khẳng định bạo lực cách mạng bao gồm bạo lực chính trị của quần chúng và
bạo lực vũ trang, nhưng trước hết và quan trọng là bạo lực chính trị. “Quân sự
phải lấy chính trị làm trọng”; từ xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng
nhân dân sẽ tổ chức ra lực lượng vũ trang cách mạng. Theo Hồ Chí Minh
cách mạng là việc chung của dân chúng, sức mạnh của nhân dân là vơ địch,
“Dân khí mạnh thì qn lính nào, súng ống nào cũng khơng chống lại” [39,

tr.297]. Muốn có sức mạnh đó, nhân dân phải được tuyên truyền, giác ngộ,
được tổ chức chặt chẽ trong Mặt trận dân tộc đồn kết thống nhất, lấy liên
minh cơng nơng làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chỉ có
như vậy, lực lượng quần chúng nhân dân mới có sức mạnh chính trị to lớn, đủ
sức đưa cách mạng đến thắng lợi. Bạo lực chính trị của quần chúng hướng tới
mục tiêu cao cả là xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, nó khác hẳn với tư
tưởng bạo lực khủng bố, ám sát cá nhân...
Hồ Chí Minh coi xây dựng lực lượng chính trị là cơ sở để xây dựng lực
lượng vũ trang, đấu tranh chính trị là cơ sở để triển khai đấu tranh vũ trang.
Khơng có lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị của quần chúng thì đấu
tranh quân sự và lực lượng vũ trang không thể giành được thắng lợi. Nhưng
trong tình hình cụ thể như những trận chiến đấu trên chiến trường, trong đối
đầu trực tiếp với địch, đấu tranh vũ trang có thể giữ vai trị trực tiếp quyết
định tiêu diệt lực lượng quân sự của địch. Việc xây dựng lực lượng vũ trang,
có đủ khả năng đấu tranh vũ trang là việc rất quan trọng và cần thiết.
Theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giành và giữ chính quyền rất
khó khăn, người cách mạng khơng tự giới hạn ở một hình thức, phương pháp
mà cần vận dụng sáng tạo, linh hoạt nhiều hình thức, phương pháp cho phù


18
hợp với điều kiện lịch sử cụ thể. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tuỳ tình hình cụ thể
mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng
và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để
giành thắng lợi cho cách mạng” [52, tr.391]. Người chỉ rõ, cần kết hợp chặt
chẽ giữa đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự với đấu tranh kinh tế, văn hoá,
ngoại giao...v.v. Trong từng lĩnh vực cũng cần biết sáng tạo ra nhiều hình
thức, biện pháp cụ thể nhằm phát huy thế mạnh, khai thác các điều kiện thuận
lợi, khắc phục những cản trở làm cho lực lượng ngày càng lớn mạnh. Hồ Chí
Minh nhắc nhở: “Địch có vũ khí tối tân thì ta đánh du kích, nó lấy vũ lực ta

khơng sợ, nó lấy chính trị ta khơng mắc mưu, nó lấy kinh tế phong toả thì ta
lấy kinh tế đánh nó…”, “Muốn trị lửa phải dùng nước. Địch muốn tốc chiến,
tốc thắng ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất
định thắng” [41, tr.539]. Trong q trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Hồ Chí
Minh đưa ra hai hình thức cơ bản, chủ yếu của bạo lực cách mạng là đấu tranh
chính trị và đấu tranh vũ trang và sự phối hợp giữa lực lượng đấu tranh chính
trị và đấu tranh vũ trang. Tất yếu phải sử dụng lực lượng chính trị của quần
chúng và lực lượng vũ trang nhân dân để đập tan bộ máy bộ máy cai trị của
đế quốc và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân. Đấu tranh chính trị địi
hỏi phải xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng chính trị ln ln là cơ sở
để từ đó xây dựng lực lượng vũ trang. Quân sự phải phục tùng và nhằm thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, “Qn sự mà khơng có chính trị như cây
khơng có gốc, vơ dụng mà lại có hại” [44, tr.217]. Hồ Chí Minh thường phê
bình những xu hướng tư tưởng chỉ thấy qn sự, khơng thấy chính trị, chỉ biết
tác chiến mà khơng biết vận động quần chúng và chính trị trong nhân dân.
Kết hợp lực lượng đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; kết hợp
hình thức đấu tranh là một vấn đề có tính ngun tắc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về bạo lực cách mạng. Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã
diễn ra dưới hình thức đấu tranh chính trị của quần chúng là chính đã thành


19
cơng nhanh chóng, trên phạm vi cả nước và rất ít đổ máu. Đó chính là sức
mạnh to lớn của hình thức bạo lực chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, trong tình hình cụ thể thế và lực, tương quan lực
lượng trên chiến trường, khi trực tiếp đối đầu với địch, sử dụng lực lượng vũ
trang, đấu tranh vũ trang khi thời cơ đã chín muồi có thể nổi lên, giữ vai trị
quyết định kết thúc chiến tranh. Ví dụ, trong kháng chiến chống Pháp, bạo lực
cách mạng của nhân dân ta đã được thể hiện bằng sự kết hợp đấu tranh vũ
trang với đấu tranh chính trị trong đó đấu tranh qn sự là chủ yếu. Thắng lợi

của các chiến dịch quân sự trong Đông - Xuân năm 1953 - 1954 mà đỉnh cao
là chiến dịch quân sự Điện Biên Phủ đã dẫn đến kết thúc cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp. Thắng lợi quân sự của cuộc Tổng tấn công mùa Xuân
năm 1968 đã buộc Mỹ phải rút hết quân Mỹ, quân chư hầu ra khỏi miền Nam
Việt Nam, chấm dứt ném bom miền Bắc và chịu ngồi đàm phán với Việt Nam
tại Hội nghị Pari. Thắng lợi quân sự của quân dân ta trong 12 ngày đêm cuối
năm 1972, làm nên trận Điện Biên Phủ trên không đã buộc đế quốc Mỹ phải
ký Hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình ở Việt Nam.Thắng
lợi của ba chiến dịch qn sự lớn là Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế
- Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh đã dẫn đến kết thúc cuộc kháng chiến
chống Mỹ, thống nhất đất nước đã chứng minh vai trò của đấu tranh vũ trang
trên cơ sở thắng lợi của đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao. Vì vậy,
theo Hồ Chí Minh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là vấn đề có tính
quy luật xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ của cách mạng, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc .
1.3. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh tồn diện,
trong đó lấy xây dựng về chính trị làm “gốc”, mang bản chất giai cấp
cơng nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân phải xây
dựng vững mạnh tồn diện, trong đó lấy xây dựng về chính trị làm “gốc”. Đó



×