Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

luận văn thạc sĩ Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng đảng “là đạo đức, là văn minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.74 KB, 99 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 80 năm qua, bằng thực tiễn vẻ vang và sinh động, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã trở thành nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội trên phạm vi thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
"Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hịa bình, ấm no!”1.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo: “Một
dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
khơng nhất định hơm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi,
nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân" 2. Theo Người,
Đảng phải được xây dựng “là đạo đức, là văn minh”, trở thành “đội tiên phong
dũng cảm và bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động
và của cả dân tộc”3 để lãnh đạo thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của cách
mạng trong điều kiện “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền cịn khó hơn”.
Đó là yêu cầu tự thân, là phương thức tồn tại của Đảng; là mong mỏi của nhân
dân; là yêu cầu của sự nghiệp cách mạng; là nghĩa cử thiêng liêng đối với thế hệ
đi trước.
Sự nghiệp đổi mới đất nước là thử thách lớn đối với Đảng. Nó khơng chỉ
diễn ra từ sự thúc bách của thực tiễn khủng hoảng, mà còn từ trăn trở trọng trách
của Đảng đối với tiền đồ cách mạng. Với sự nỗ lực phấn đấu của tồn Đảng,
tồn dân, tồn qn, cơng cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử, song vẫn cịn khơng ít khó khăn, thử thách, nguy cơ. Phát
huy thành tựu, triệt tiêu khó khăn, vượt qua thử thách, loại trừ nguy cơ là u cầu
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 10, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 2.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 12, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 557.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 493-494.


2


cấp thiết của cách mạng đặt ra cho Đảng. Từ thực tiễn hơn hai mươi năm đổi
mới, Đảng đề ra năm bài học lớn, trong đó “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng” được xem là nhiệm vụ then chốt.
Công tác xây dựng Đảng thời gian qua bên cạnh thành tựu đạt được cịn
có những hạn chế. Trong nhận thức, nhiều vấn đề lý luận về sự lãnh đạo của
Đảng và công tác xây dựng Đảng chậm được làm sáng tỏ. Trong thực tiễn,
“năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng còn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu
cầu của tình hình mới;… chậm cụ thể hóa, thể chế hóa một số quan điểm lớn,
đúng đắn về sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng đã đề ra trong các
Cương lĩnh và các Nghị quyết Đại hội Đảng; tổ chức thực hiện vẫn là khâu
yếu”1. Việc quán triệt, vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin chưa ngang tầm yêu cầu đặt ra; các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng
vẫn có biểu hiện chưa thực hiện tốt; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
suy thoái về đạo đức, lối sống; “quan hệ giữa Đảng và nhân dân có lúc, có nơi bị
xói mịn”, “cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng… chưa đạt yêu cầu đề ra,
chưa tạo được chuyển biến cơ bản”2.
Khắc phục những hạn chế trên là tất yếu để nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng. Tuy nhiên, hiểu thấu nguyên nhân và đề ra giải pháp đúng
khơng phải là điều giản đơn. Điều đó một lần nữa đặt ra yêu cầu Đảng nghiên cứu,
vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, để định hướng và
chỉ đạo hành động đúng đắn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ then chốt.
Với sự cần thiết đó, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Đảng “là đạo đức, là văn minh” là vấn đề có ý nghĩa
cả về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:

1

2

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H, tr.262.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H, tr. 268.

2


Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng “là đạo đức, là văn
minh” và vận dụng tư tưởng đó trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trình bày có hệ thống những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng “là đạo đức, là văn minh”.
Phân tích q trình Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Đảng “là đạo đức, là văn minh” trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa - thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh
nghiệm. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng
Đảng “là đạo đức, là văn minh”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng “là đạo đức, là văn minh” được
thể hiện qua các bài nói, bài viết và hoạt động thực tiễn cách mạng của Người.
Quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng “là đạo
đức, là văn minh” của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng “là đạo đức, là văn minh”.
Nghiên cứu quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ

Chí Minh về xây dựng Đảng “là đạo đức, là văn minh” trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là cơ sở để nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng “là đạo đức, là văn minh”.

3


Vận dụng các phương pháp luận Hồ Chí Minh như: Lý luận gắn với thực
tiễn; Quan điểm thống nhất giữa lập trường giai cấp với lập trường dân tộc, giữa
dân tộc với thời đại; Quan điểm phát triển, sáng tạo, đổi mới; Quan điểm tồn
diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm cụ thể.
- Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài tuân thủ nguyên tắc thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học.
Đề tài sử dụng kết hợp chặt chẽ phương pháp lơgíc và phương pháp lịch sử.
Vận dụng các phương pháp liên ngành như: tổng hợp, phân tích, thống kê,
so sánh, hỏi ý kiến chuyên gia,...
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
kết cấu gồm 2 chương, 6 tiết.

4


Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng “là đạo đức, là văn
minh” – Quan niệm, tính tất yếu, nội dung
1.1. Quan niện của Hồ Chí Minh về đạo đức, văn minh và Đảng “là đạo đức,
là văn minh”

1.1.1. Đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm hệ thống những
quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn
tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội. Nhờ đó, con người tự giác điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội
trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, tương ứng với các hình thái kinh tế - xã hội
chiếm hữu nơ lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa là đạo đức chiếm hữu nô lệ, đạo đức
phong kiến, đạo đức tư bản chủ nghĩa. Trong thời đại ngày nay, đạo đức mới là đạo
đức cộng sản chủ nghĩa. Đó là một trong những biểu hiện của sự thống nhất tư tưởng chính trị và đạo đức của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đạo đức cộng sản chủ nghĩa là bước
tiến bộ tồn diện của đạo đức. Nó khác với tất cả những nền đạo đức đã có trong xã
hội đối kháng giai cấp ở chỗ đây là lần đầu tiên và cuối cùng đạo đức của số đông giai
cấp lao động trở thành đạo đức cách mạng và chiếm địa vị thống trị trong đời sống đạo
đức của xã hội. Theo Lênin, đạo đức mới là những gì góp phần đồn kết tất cả những
người lao động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới - xã hội cộng
sản chủ nghĩa. Các lý tưởng và nguyên tắc đạo đức cộng sản là cơ sở để các đảng
mácxít và chính quyền nhà nước vơ sản hoạch định chiến lược, sách lược, chính sách
kinh tế, chính sách văn hóa - tư tưởng. Đạo đức cộng sản được xem vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cuộc đấu tranh mà giai cấp vô sản tiến hành.

5


Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc đến đạo đức. Toàn bộ sự nghiệp cách mạng
của Người gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển đạo đức cách mạng. Theo
Người, nói một cách ngắn gọn nhất, khái quát nhất thì có thể định nghĩa:
“Đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách
mạng. Đó là điều chủ chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật Đảng, thực hiện tốt đường lối,
chính sách của Đảng.

Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích
của cá nhân mình. Hết lịng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà phấn
đấu quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, ln ln dùng tự phê bình và phê
bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình
tiến bộ”1.
Có thể hiểu đạo đức cách mạng là hệ thống các mối quan hệ cơ bản và nội
dung của các mối quan hệ đó mà người đảng viên phải nhận thức và rèn luyện
để ứng xử với bản thân, với tổ chức, với nhà nước, với nhân dân và với đồng
chí, đồng bào. Đạo đức cách mạng biểu hiện những đặc điểm cơ bản sau:
- Bản chất của đạo đức cách mạng biểu hiện bản chất của giai cấp cơng nhân.
Hồ Chí Minh yêu cầu: “Người cách mạng phải thấy rõ điều đó và đứng vững trên
lập trường của giai cấp công nhân, để hết lòng hết sức đấu tranh cho chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản, cho giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động.
Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”2.
- “Đạo đức cách mạng. Đạo đức đó khơng phải là đạo đức thủ cựu. Nó là
đạo đức mới, đạo đức vĩ đại...” 3. Đạo đức cách mạng biểu hiện rõ tính chiến đấu
loại trừ “đạo đức cũ” và mọi biểu hiện phản đạo đức khác, xây dựng các giá trị
cao đẹp, tiến bộ. Theo Hồ Chí Minh, “Đạo đức cách mạng là vơ luận trong hồn
cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh
giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, khơng chịu cúi đầu”; “...
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 8, Nxb. CTQG, H, 2000, tr.237-238.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 9, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 289.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 252.
2

6



nó phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân” 1. Đạo đức cách mạng là nền
tảng của người cách mạng trong cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ để
cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới.
- Đạo đức cách mạng biểu hiện trong mối quan hệ giữa người cán bộ,
đảng viên, giữa Đảng với nhân dân. Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức cách mạng là
hịa mình với quần chúng thành một khối, tin vào quần chúng, hiểu quần chúng,
lắng nghe ý kiến của quần chúng... làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết
quần chúng... tổ chức, tuyên truyền và động viên quần chúng thực hiện chính
sách và nghị quyết của Đảng”.
- Đạo đức cách mạng biểu hiện hết sức sinh động và toàn diện tới mọi đối
tượng (từ công nhân, nông dân đến trí thức, văn nghệ sĩ; từ các cụ phụ lão đến
các cháu nhi đồng; từ đồng bào các dân tộc đến đồng bào các tôn giáo, các nhà
tu hành; từ cán bộ, đảng viên đến chiến sĩ...); trên mọi lĩnh vực (sinh hoạt, học
tập, rèn luyện, lao động sản xuất, chiến đấu, lãnh đạo, quản lý...); trên mọi phạm
vi (từ hẹp đến rộng, từ gia đình đến xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ vùng miền, địa phương đến cả nước, từ quốc gia đến quốc tế...); trên tất cả các mối
quan hệ chủ yếu của con người (đối với mình, đối với người, đối với việc...)
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò, ý nghĩa của đạo đức cách mạng. Người xem
đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của người cách mạng. “Sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm
nền tảng, mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. “Cũng như sơng
có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài
giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”2.
Đạo đức cách mạng là gốc của Đảng cách mạng. Khơng có đạo đức cách
mạng, Đảng khơng có đảng viên cách mạng, khơng có quần chúng cách mạng để tồn
tại và hoạt động. Đạo đức cách mạng quyết định sức mạnh của Đảng trong thực hiện
1


Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 10, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 306.

2

Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 252-253.

7


sứ mệnh lịch sử trước giai cấp và dân tộc. Người có đạo đức cách mạng là người cao
thượng. Đảng chỉ có đạo đức cách mạng mới là Đảng chân chính cách mạng.
Lồi người đã chứng kiến sự xác lập nhiều loại hình đạo đức. Mỗi giai cấp đại
diện cho các thời đại lịch sử có giai cấp đối kháng ý thức và sử dụng triệt để đạo đức
như là phương tiện để khởi phát cuộc cách mạng giành lấy quyền thống trị và duy trì
nền thống trị. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử, sự xác lập đạo đức cộng sản
chủ nghĩa là tất yếu. Giai cấp cơng nhân, cùng với đội tiền phong của mình là Đảng
Cộng sản, cần nắm lấy đạo đức như là công cụ hữu hiệu cho cuộc đấu tranh xây
dựng xã hội mới. Đảng Cộng sản chỉ khi trở thành đạo đức, là biểu tượng đạo đức,
mới thực hiện được vai trò và sứ mệnh mang giá trị đạo đức cao cả của mình.
1.1.2. Văn minh
Văn minh là danh từ Hán - Việt (văn là vẻ đẹp, minh là sáng), chỉ tia sáng của
đạo đức, biểu hiện ở chính trị, pháp luật, văn học, nghệ thuật. Văn minh nói lên niềm
tin và khát vọng của con người vào tiến bộ xã hội. Các yếu tố của văn minh có thể
hiểu gọn lại là di sản tích lũy tri thức, tinh thần và vật chất của con người kể từ khi
lồi người hình thành cho đến thời điểm xét đến. Khái niệm văn minh chỉ mang tính
tương đối, có tính so sánh tại thời điểm xét đến mà khơng có giá trị tuyệt đối.
Theo Ph. Ăngghen, văn minh là chính trị khoanh văn hóa lại và sợi dây liên
kết văn minh là nhà nước. Từ điển Chính trị do Nhà xuất bản Tiến bộ (Mat-xcơva) và Nhà xuất bản Sự thật (Hà Nội) đồng ấn hành năm 1988 ghi: Văn minh có 3
cách hiểu như sau: Đồng nghĩa với văn hóa; trình độ, giai đoạn phát triển của nền
văn hóa vật chất và tinh thần; giai đoạn phát triển xã hội sau thời đại dã man. Từ

điển Từ và ngữ Hán Việt của giáo sư Nguyễn Lân do Nhà xuất bản Văn học, Hà
Nội, ấn hành năm 2007 cũng ghi 3 cách hiểu: Trình độ phát triển khá cao của nền
văn hóa về tinh thần và vật chất trong xã hội loài người; cuộc sống cao đẹp đã xa
thời dã man, mông muội; có trình độ văn hóa cao. Theo Trần Ngọc Thêm, văn
minh là trình độ phát triển nhất định của văn hóa về phương diện vật chất, đặc
trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại hoặc cả nhân loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng trực tiếp nêu khái niệm văn minh nhưng sự
quan tâm sâu sắc của Người trong đấu tranh chống chiêu bài “khai hóa văn minh”

8


của chủ nghĩa thực dân đế quốc và trong xây dựng xã hội mới mang lại những quan
niệm về văn minh. Các quan niệm này được đưa ra trên cơ sở mục đích hướng đến
ở từng thời điểm, đối với từng đối tượng nên mang tính đa dạng. Về cơ bản, bước
đầu có thể tiếp cận quan niệm về văn minh của Hồ Chí Minh qua các lăng kính sau:
- Văn minh được hiểu đồng nghĩa với văn hóa.
Hồ Chí Minh nêu định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn”1.
Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc đến xây dựng một nền văn hóa mới, đứng ở
đỉnh cao của truyền thống văn hóa dân tộc và tiến trình phát triển văn hóa nhân
loại - Văn hóa cộng sản chủ nghĩa. Hiểu văn minh là nền văn hóa ở tầm cao thì đó
là nền văn hóa mà Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng. Người xem những yếu tố
của nền văn hóa mới như là tiêu chí của một xã hội văn minh. Đạo đức mới - đạo
đức cách mạng là thành tố quan trọng của văn hóa mới. Người xem đạo đức là

tiêu chí đánh giá sự văn minh: Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân
tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ. Chủ
nghĩa tập thể là đặc trưng cơ bản của đạo đức mới, xã hội mới. Hồ Chí Minh
khẳng định: Thời đại của chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng, mọi
việc càng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội; cá nhân càng khơng thể
đứng riêng lẻ mà càng phải hịa mình trong tập thể, trong xã hội.
Trong điều kiện chính sách văn hóa nơ dịch của chế độ thực dân phong kiến,
dân tộc ta cần có một nền văn hóa mới lấy tiến bộ là tiêu chí cơ bản nhất. Tiến bộ
theo nghĩa là mới so với cũ, đỉnh cao so với tụt hậu. Chỉ có nền văn hóa như thế, dân

1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 3, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 431.

9


tộc Việt Nam mới là một dân tộc văn minh. Xây dựng thành cơng nền văn hóa “chất
lượng cao” tức là đạt đến văn minh. Đó cũng là mong muốn của Hồ Chí Minh.
- Văn minh là sự đối lập với dã man, mơng muội, lạc hậu,…
Hồ Chí Minh bắt đầu sự nghiệp chính trị bằng những nhận thức “văn
minh chống dã man”, “thời đại cơng lý và chính nghĩa”. Ngọn cờ khai hóa văn
minh của tư bản phương Tây được dựng lên như một trong những chiêu bài xâm
lược. Đây là sự truyền bá một cách tiêu cực và giả tạo nền văn minh tư bản chủ
nghĩa vào các quốc gia dân tộc cịn trì trệ dưới chế độ phong kiến. Người ca
ngợi những giá trị đích thực của văn minh tư bản chủ nghĩa bao nhiêu thì vạch
trần và tuyên án tất cả những gì mà bọn thực dân thực hiện đằng sau lá cờ đó.
Dựa vào những tài liệu và sự việc cụ thể, Hồ Chí Minh tố cáo bản chất ăn
cướp, giết người của chủ nghĩa thực dân đế quốc, vạch trần cái gọi là “khai hóa văn
minh” của chúng: “Để che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư

bản thực dân luôn luôn trang điểm cho cái huy chương mục nát của nó bằng những
châm ngơn lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng,…”1.
Từ tư tưởng và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh trong đấu tranh
chống chiêu bài “khai hóa văn minh” cho thấy văn minh có ở những khẩu hiệu
mà chủ nghĩa thực dân đế quốc lợi dụng giương cao; văn minh là sự tương phản
hoàn toàn với hành động xâm lược và thống trị thuộc địa của chủ nghĩa thực dân
đế quốc. Sự tôn trọng, công lý, bác ái, bình đẳng, giá trị con người, nhu cầu phát
triển... là những tiêu chí của văn minh.
- Hồ Chí Minh quan niệm về văn minh trên cả phương diện vật chất và
tinh thần.
Trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến tiến hành cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ sản, Hồ Chí Minh nhận
thức sự cần thiết phải không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho

1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 76.

10


nhân dân. Xây dựng “xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh
thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”2.
Hồ Chí Minh xem nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ là xây dựng nền tảng
vật chất - kỹ thuật, các tiền đề kinh tế, chính trị, văn hóa - tư tưởng cho chủ nghĩa xã
hội. Trong đó, cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm nhằm đảm
bảo đời sống sung sướng mãi mãi cho nhân dân, cụ thể và trước hết là thỏa mãn nhu
cầu kinh tế - vật chất của chủ nghĩa xã hội, sau đó là tiền đề cho sự thỏa mãn các nhu
cầu văn hóa - tinh thần. Tiến bộ về vật chất trong mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã
hội - xã hội văn minh trong tương lai - là mục đích cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa

hướng đến. Mặt khác, Hồ Chí Minh xem yếu tố tinh thần vừa là động lực, vừa là tiêu
chí của văn minh. Theo Người, đạo đức đem lại sức mạnh gấp bội cho cách mạng,
bởi đó là yếu tố “chất” người, là vai trò động lực của đạo đức - một thành tố của văn
hóa, là văn minh thắng bạo tàn.
Như vậy, văn minh là một khái niệm động, không nhất thành bất biến mà thay
đổi theo quan điểm của mỗi thời đại. Xét cho cùng, tiêu chí của văn minh là sự tiến
bộ ở đỉnh cao. Một khi sự tiến bộ được thiết lập và duy trì, khi đó văn minh tồn tại.
Tiến bộ xét ở góc độ khác nhau sẽ có những nền văn minh khác nhau. Lịch sử xã hội
loài người chứng kiến sự xuất hiện và tiêu vong của nhiều nền văn minh, khi sự tiến
bộ này được thay thế bằng sự tiến bộ khác cao hơn, phù hợp hơn. Lịch sử cứ tiến lên,
văn minh cứ hình thành. Xã hội cộng sản chủ nghĩa với tất cả tính ưu việt vốn có là
khát vọng về một nền văn minh trong tương lai. Tính tất yếu của sứ mệnh lịch sử của
giai cấp vơ sản khẳng định điều đó. Đội tiên phong của giai cấp vô sản - Đảng Cộng
sản - phải trở thành văn minh và lấy xây dựng xã hội văn minh mới làm mục tiêu.
1.1.3. Quan niệm về Đảng “là đạo đức, là văn minh”
Trong diễn văn tại Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng (01-1960), Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Đảng ta là đạo đức, là văn minh".
Quan niệm "Đảng ta là đạo đức, là văn minh" là một bộ phận trong hệ thống
quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì đạo đức và văn minh
2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 10, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 17.

11


có quan hệ mật thiết với nhau, nhất là trong quan niệm của Hồ Chí Minh khi nhìn
nhận về Đảng, nên có thể tiếp cận nội dung của quan niệm không theo lát cắt thuật
ngữ mà theo những yếu tố của Đảng thể hiện đặc điểm đạo đức, văn minh.
1.1.3.1. Đảng là sản phẩm tất yếu của yêu cầu sáng tạo văn hóa

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ nhu cầu đời sống và đòi hỏi sinh tồn của
dân tộc, là kết quả của những sáng tạo văn hóa diễn ra tất yếu trong bối cảnh nửa
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là giai đoạn mà vấn đề đạo
đức, văn minh trở thành quan tâm chung của cả dân tộc. Chế độ phong kiến tồn
tại hàng ngàn năm đến giai đoạn lạc hậu tột độ, ngăn trở tiến lên giai đoạn văn
minh cao hơn vốn đã diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới - văn minh cơng
nghiệp. Chính sách bế quan tỏa cảng của triều đình nhà Nguyễn là điển hình cho
tính chất phản động, lạc hậu của nền quân chủ. Bánh xe văn minh nhân loại vẫn
lăn trên đất nước ta, dù bằng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.
Những biểu hiện bạc nhược của triều đình nhà Nguyễn trong chống ngoại xâm,
cũng như sự cấu kết sau khi thực dân Pháp thiết lập ách thống trị, một mặt cho
thấy nền quân chủ khơng cịn đủ tư cách đại diện cho dân tộc, mặt khác đặt ra
yêu cầu về một lực lượng lãnh đạo mới.
Thực dân Pháp thống trị vô cùng tàn bạo, biến nước ta từ một nước phong
kiến độc lập thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia để trị”, dùng
người Việt trị người Việt, nhằm phá hoại khối đoàn kết của nhân dân, sự thống
nhất lãnh thổ của đất nước. Nền độc lập dân tộc, sự thống nhất Tổ quốc là “lẽ
sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống” cao nhất của dân tộc ta. Truyền thống
dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc cũng từ nguyên tắc đó mà có. Văn
hóa cao nhất là văn hóa giữ nước, giữ vững sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của dân tộc. Đó cũng là yêu cầu, giá trị đạo đức cao nhất của nhân dân ta. Xét

12


chính sách cai trị về chính trị, thực dân Pháp và tay sai phong kiến nhà Nguyễn
vi phạm nghiêm trọng truyền thống văn hóa, đạo đức của dân tộc.
Về kinh tế, bản chất phi văn minh, đạo đức thể hiện ở sự duy trì phương thức

sản xuất phong kiến cùng với du nhập một cách hạn chế phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Đây là hành động phản bội lại truyền thống vẻ vang của đại cách
mạng Pháp, đi ngược lại tiến trình phát triển của văn minh nhân loại vốn đã diễn ra
trước đó khá lâu. Khẩu hiệu vĩ đại của cách mạng Pháp “Tự do - Bình đẳng - Bác
ái” bị vi phạm nghiêm trọng bởi phương thức cai trị về kinh tế ở Việt Nam. Thực
chất chính sách kinh tế của thực dân Pháp là ăn cướp, bóc lột, cưỡng bức,… theo
kiểu vắt chanh bỏ vỏ, chỉ nhất nhất quan tâm đến quyền lợi của mình, khơng đếm
xỉa gì đến tình cảnh người dân thuộc địa. Chính sách thống trị về kinh tế đã kìm
hãm sức sản xuất - một trong những yếu tố quan trọng của nền văn minh. Nền sản
xuất tạo ra những điều kiện vật chất mà thiếu nó thì nền văn minh và đạo đức khó
có thể ra đời và phát triển. Bản thân nền sản xuất cũng là một biểu tượng văn minh.
Về văn hóa, người Pháp thực hiện chính sách văn hóa giáo dục thực dân,
dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu và đầu độc nhân dân ta bằng thuốc phiện,
rượu cồn; tuyên truyền tâm lý tự ti, vong bản…, hủy hoại các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Chế độ thuộc địa Pháp ở Việt Nam là một hiện tượng phản văn hóa, nó
chà đạp, thủ tiêu văn hóa, đầu độc và giết dần giết mịn dân tộc ta bằng chính
sách cai trị. Dân ta muốn sống thì phải làm cách mạng lật đổ chế độ thống trị
của thực dân Pháp và tay sai - “cách mạng thì sống, khơng cách mạng thì chết”.
Để cách mạng thành cơng “trước hết phải có đảng cách mệnh”. Như vậy, Hồ
Chí Minh khởi xướng con đường cách mạng dân tộc dân chủ đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam và sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo con đường cách
mạng này là “vì lẽ sinh tồn” của dân tộc ta. Đó là một hiện tượng văn hóa.
Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kế tiếp sáng tạo văn hóa ở
một nước thuộc địa. Với tư cách là tổ chức chính trị tiên tiến có tính vượt trội so
với các tổ chức chính trị cùng thời kỳ, Đảng là con đẻ của sự vận động lịch sử,

13



xuất hiện đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử dân tộc, gánh vác sứ mệnh
dẫn dắt nhân dân đồn kết đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi cuộc đời nô lệ,
giành lấy chủ quyền. Đảng tự nguyện nhận làm bộ tham mưu tối cao và đội tiền
phong dũng cảm trong cuộc đấu tranh ấy của nhân dân. Chỉ khi Đảng Cộng sản
ra đời, sau đó với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, lẽ sinh tồn và
mục đích của cuộc sống của dân tộc mới được đáp ứng. Cũng chỉ khi cách mạng
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dân tộc ta mới hòa vào dòng chảy phát
triển của văn minh nhân loại và góp phần vào xu thế đó. Đảng ra đời từ nhu cầu
văn hóa và đáp ứng tiêu chí tiến bộ, nhân văn của yêu cầu.
1.1.3.2. Đảng là sản phẩm hợp thành của các yếu tố mang giá trị đạo đức,
văn minh
Khái quát quy luật đặc thù ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh
viết: "Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đơng Dương vào đầu năm 1930" 1.
Đó là sự kết hợp các giá trị đạo đức, văn minh.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin:
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống có căn cứ khoa học của các quan
điểm triết học, kinh tế, chính trị - xã hội; học thuyết về nhận thức và cải tạo thế
giới, về những quy luật phát triển của xã hội, tự nhiên và tư duy con người, về
những con đường cách mạng lật đổ chế độ bóc lột và xây dựng chủ nghĩa cộng
sản; thế giới quan của giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là các đảng
cộng sản và công nhân.
Xét dưới giác độ đạo đức, văn minh, Hồ Chí Minh nhận định về chủ nghĩa
Mác - Lênin như sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận khoa học trên nhiều lĩnh vực. Hồ
Chí Minh đồng tình với quan niệm của Ăngghen: "Lý luận là sự tổng kết những
kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích
trữ lại trong q trình lịch sử. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tổng kết kinh
1


Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 10, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 8.

14


nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước. Nó là: "Khoa
học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội; khoa học về cách mạng của
quần chúng bị áp bức và bị bóc lột; khoa học về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất
cả các nước; khoa học về xây dựng chủ nghĩa cộng sản" (Stalin)"1. Vì là một khoa
học đúng đắn và toàn diện được khái quát từ đúc kết kinh nghiệm, chủ nghĩa Mác Lênin là sự kết tinh trí tuệ nhân loại.
Thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học về giải phóng tồn diện con
người; mang bản chất sáng tạo, đổi mới. Đây là giá trị đạo đức, văn minh cao nhất
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh xem chủ nghĩa Mác - Lênin là "con
đường giải phóng chúng ta". "Chủ nghĩa Mác - Lênin đã xây dựng lý luận đúng
đắn và toàn diện cho cuộc cách mạng dân tộc chống đế quốc" ; "chủ nghĩa Mác Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không
những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt
trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản"2. Tổng kết kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam,
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chúng ta giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, nhưng cần
phải nhấn mạnh rằng chúng ta giành được những thắng lợi đó trước hết nhờ cái vũ
khí khơng gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh khẳng định và phát huy bản chất sáng tạo, đổi mới của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Với Hồ Chí Minh, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin khơng
phải là khơng có chỗ trống do sự biến đổi của thời gian và hoàn cảnh. Người là
điển hình của sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin phù hợp
với thực tiễn cách mạng.
Thứ ba, chủ nghĩa Mác - Lênin được sáng lập bởi những vĩ nhân kiệt
xuất, được bảo vệ và phát triển bởi nhân dân tiến bộ, và tạo dựng nên những
con người đạo đức, văn minh. Mác, Ăngghen, Lênin ln được Hồ Chí Minh ca
ngợi về trí tuệ, đạo đức. Sống cùng thời đại và chịu ảnh hưởng trực tiếp của

Lênin trên cả phương diện lý luận và thành quả thực tiễn, Hồ Chí Minh ca ngợi:
1
2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 8, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 497.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 10, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 128.

15


"Khơng phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh
thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại
và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao đến các dân tộc châu Á, và đã
khiến cho trái tim của họ hướng về Người, khơng gì ngăn cản nổi".
Chủ nghĩa Mác - Lênin là để phụng sự cho cách mạng, cho Tổ quốc và nhân
dân. Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, bất kỳ việc to, việc
nhỏ đều nhằm mục đích ấy. Nếu khơng hết lịng, hết sức phụng sự nhân dân, tự
kiêu, tự đại, tự tư, tự lợi, như thế là trái với chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác
- Lênin khơng chỉ là lý trí mà cịn là tình cảm. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống
khơng có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được.
Hồ Chí Minh ln nhất quán chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Lý tưởng vạch ra bởi chủ nghĩa Mác - Lênin
được Đảng trung thành, phấn đấu thực hiện. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin là người thầy vĩ đại, là tấm gương sáng dẫn dắt mỗi cán bộ, đảng viên và toàn
Đảng. Giá trị đạo đức, văn minh của chủ nghĩa Mác - Lênin là vốn quý của Đảng,
góp phần quan trọng để Đảng ta là đạo đức, là văn minh. Trung thành và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin cũng là quá trình Đảng củng cố và không ngừng
vươn lên thành đạo đức, văn minh.
- Phong trào công nhân:
Là sản phẩm của nền văn minh công nghiệp, phong trào công nhân là
phong trào của giai cấp tiến bộ đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, giai

cấp gắn liền giải phóng bản thân với giải phóng nhân loại. Đây là mơi trường
hiện thực của chủ nghĩa Mác - Lênin, tiền đề thực tiễn của các Đảng Cộng sản.
Phong trào công nhân Việt Nam là phong trào cách mạng xuất phát từ thực
tiễn, là hoạt động của cơng nhân với tính cách là một giai cấp. Tính chất của phong
trào đó xuất phát từ bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ ra: “Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để,
tập thể, có tổ chức, có kỷ luật”1; “dũng cảm nhất, cách mạng nhất, ln gan góc
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 7, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 212.

16


đương đầu với bọn đế quốc thực dân”. Phong trào cơng nhân có sức lơi cuốn, quyết
định chiều hướng phát triển của phong trào dân tộc theo tư tưởng cách mạng vô sản.
Sau khi Đảng ra đời, phong trào công nhân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, hòa
chung trong dịng chảy đấu tranh của tồn dân tộc và nhân loại tiến bộ, vì mục tiêu
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Từ bản chất của giai cấp chủ thể và sự thể hiện trong thực tiễn, phong trào
cơng nhân nói chung, cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân Việt Nam nói
riêng, là phong trào cách mạng mang giá trị đạo đức và văn minh.
- Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam:
Lênin nêu luận điểm Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác với phong trào cơng nhân. Trên bình diện văn hóa, đó là sự kết hợp tri thức
văn hóa cao với khát vọng và hành vi sơi sục mang tính nhân văn sâu đậm của nhân
dân. Do vậy, Đảng cũng là một biểu trưng của văn hóa, nhưng là biểu trưng của
văn hóa cao - văn minh, của văn hóa nhân văn - đạo đức.
Xuất phát từ tình hình một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh
nhận thấy sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác

- Lênin với phong trào cơng nhân thì chưa đủ, vì giai cấp cơng nhân cịn nhỏ bé,
phong trào cơng nhân cịn non yếu. Do đó, phải kết hợp cả với phong trào yêu
nước rộng lớn của nhân dân đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân vốn diễn ra liên
tiếp, từ rất lâu trước khi có giai cấp cơng nhân và phong trào cơng nhân.
Trong một nước thuộc địa, kinh tế lạc hậu như Việt Nam, phong trào yêu
nước vẫn là phong trào rộng lớn nhất, lơi cuốn nhiều giai cấp, tầng lớp có tinh
thần dân tộc chống đế quốc thực dân. Đây là điều khác biệt, không giống với các
nước phương Tây. Ở đây, phong trào cơng nhân dù có tiên tiến nhất, nhưng nếu
khơng gắn bó với phong trào u nước, trở thành nịng cốt của phong trào u
nước, thì cũng khơng mở rộng được cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân,
thành lập Đảng và lãnh đạo cuộc đấu tranh đến thắng lợi.

17


Như vậy, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là nấc thang cao nhất trong bảng
các giá trị truyền thống của văn hóa dân tộc, đồng thời là giá trị đạo đức cao
nhất của nhân dân Việt Nam. Xét ở góc độ bộ phận hợp thành, chủ nghĩa yêu
nước là nhân tố quan trọng tạo nên tính đạo đức, văn minh của Đảng.
Tóm lại, mỗi bộ phận hợp thành Đảng ta đều mang giá trị đạo đức, văn minh.
Sự kết hợp các bộ phận đó trong một thể thống nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam giúp cho các giá trị đạo đức, văn minh của riêng mỗi bộ phận được phát huy. Chủ
nghĩa Mác - Lênin chỉ là đạo đức, văn minh trên trang giấy nếu khơng có phong trào
đấu tranh của giai cấp cơng nhân hiện thực hóa, ngược lại, khơng có chủ nghĩa Mác Lênin, phong trào cơng nhân sẽ không đi đúng và thực hiện được các mục tiêu đạo
đức, văn minh. Ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân chỉ tồn
tại và phát huy vai trò được khi gắn kết chặt chẽ với phong trào yêu nước.
1.1.3.3. Đảng mang bản chất giai cấp cơng nhân, đại biểu trung thành cho
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tồn dân tộc
Hồ Chí Minh có hai cách thể hiện về bản chất giai cấp của Đảng. Cách
thứ nhất: "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp" ; "là đội quân tiên phong
của đạo quân vô sản" ; "Đảng của giai cấp vơ sản". Cách thứ hai: "Chính vì

Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động,
cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam" 1 ; "Đảng Lao động là tổ chức
cao nhất của giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc… Vì vậy,
Đảng là Đảng của giai cấp lao động, mà cũng là Đảng của toàn dân" ; "Đảng ta
là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị".
Đảng là đội tiên phong có tổ chức và là một tổ chức cao nhất của giai cấp công
nhân, gồm những người ưu tú nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất của giai cấp.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiến bộ, đạo đức và Đảng là bộ phận đứng ở đỉnh
cao trong đó.

1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 75.

18


Nói đến bản chất giai cấp của Đảng phải nói đến vấn đề cơ bản: Mục
đích, lý tưởng của Đảng là gì, phấn đấu cho ai, đại diện cho ai. Trong q trình
cách mạng, Đảng ln ln đứng vững trên quan điểm, lập trường của giai cấp
công nhân, để xác định cương lĩnh, đường lối, chủ trương. Đường lối đó tuyệt
đối trung thành với lợi ích của giai cấp cơng nhân, đồng thời đại biểu cho lợi ích
của nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Cần hiểu "nhân dân lao động" là
những người được giác ngộ chính trị theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Khái niệm "nhân dân" có nội dung được xác định rõ ràng, trong đó có những bộ
phận tiêu biểu cho xu hướng chính trị và ý thức cộng đồng lành mạnh. Đó là sự
liên minh của giai cấp công nhân, giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức u
nước.
Là đảng của giai cấp cơng nhân, Đảng mang trong mình tất cả những phẩm
chất ưu việt của giai cấp công nhân, trong đó có bản chất đạo đức, văn minh; là

đảng của nhân dân lao động, Đảng đại diện cho lực lượng sáng tạo ra mọi nền văn
minh, mọi giá trị đạo đức; là đảng của dân tộc, Đảng kết tinh truyền thống của
một dân tộc ngàn năm văn hiến, trọng đạo đức, trọng tình nghĩa. Xét cả trên phạm
vi thế giới hay dân tộc, cái chung nhân loại đến cái riêng đất nước, giai cấp nòng
cốt đến nền tảng tồn tại, Đảng đều đại diện cho những lực lượng tiến bộ.
1.1.3.4. Đảng có mục tiêu, lý tưởng đạo đức, văn minh
Cuộc đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng theo lý tưởng
cộng sản chủ nghĩa. Đặc trưng của lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là tính nhân đạo
chân chính, được xác định trên cơ sở thiết lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa, tiêu diệt tận gốc quan hệ bóc lột, thống trị và phụ thuộc, thay vào đó
là những quan hệ mang tính người, biểu hiện qua phương châm "Tất cả vì con
người, vì hạnh phúc của con người". Sự thỏa mãn toàn diện và triệt để nhu cầu
vật chất và tinh thần của con người khiến lý tưởng cộng sản chủ nghĩa mang giá
trị đạo đức, văn minh. Đó là lý tưởng cao đẹp, trong sáng nhất của con người, do
con người và vì con người. Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa thể hiện ở ham muốn
tột bậc của Hồ Chí Minh: "Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là
làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng

19


bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" 1. Người thường xuyên
căn dặn Đảng ta: "chủ nghĩa cộng sản là mục đích cuối cùng của Đảng ta. Đấu
tranh cho chủ nghĩa cộng sản là mục đích cuối cùng của người đảng viên..., mỗi
đảng viên nâng cao quyết tâm phấn đấu suốt đời cho lý tưởng cộng sản… cần
luôn ghi nhớ: Người cộng sản chúng ta khơng được phút nào qn lý tưởng cao
cả của mình là: suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc
lập, làm cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn trên Tổ
quốc ta và trên thế giới”2.
Khi xác định con đường cứu nước theo lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, Hồ

Chí Minh nêu quan điểm về mục tiêu của cuộc cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Mục tiêu tổng quát, xuyên suốt là lãnh đạo thắng lợi cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người ở Việt Nam, góp phần vào
thắng lợi chung của cuộc đấu tranh trên phạm vi thế giới. Trên cái nền đó, ở
những giai đoạn khác nhau, mục tiêu của Đảng không giống nhau. Tùy nhu cầu
và điều kiện của cuộc cách mạng ở mỗi thời điểm mà hướng trọng tâm và ưu
tiên vào một trong những nội dung của mục tiêu tổng quát.
Mục tiêu đấu tranh trên hết và trước hết của Đảng là giải phóng dân tộc.
Tất cả những chủ trương, đường lối, chiến lược, sách lược, mọi hành động của
Đảng trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền đều nhằm thực hiện khát vọng
cháy bỏng nhất của toàn thể nhân dân - độc lập dân tộc. Đi cùng với mục tiêu đó
là sự thủ tiêu chủ nghĩa thực dân với tư cách lực lượng phản động, chủ thể của
ách áp bức thuộc địa, một hiện tượng phản văn hóa, phi đạo đức. Các văn kiện
do Hồ Chí Minh soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng xác định
mục tiêu của cách mạng là "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản", trong đó, mục tiêu trước hết là "Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến" "làm cho nước Nam hoàn toàn độc
lập" để đi tới xã hội cộng sản. Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hiểu thấu thực tiễn cách mạng, Người khẳng
1
2

Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 161.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 12, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 93.

20


định: Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
khơng địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể

quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của giai cấp bộ phận
đến vạn năm cũng khơng địi lại được. Do có đường lối đúng đắn, Đảng đã huy
động được lực lượng đông đảo của toàn dân tộc, kết hợp được sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại để đưa cách mạng đến thắng lợi.
Sứ mệnh của Đảng sau khi lãnh đạo giành lại được độc lập cho dân tộc
cũng rất nặng nề và vẻ vang. Đó là lãnh đạo phát triển đất nước về mọi mặt, cả
kinh tế và văn hóa, đời sống vật chất và đời sống tinh thần, thúc đẩy tiến bộ và
cơng bằng xã hội, hướng đến giải phóng triệt để con người. Trong phiên họp đầu
tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời (03-9-1945), Hồ Chí Minh nêu những
nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa: Giải quyết nạn
đói, nạn dốt; tổ chức Tổng tuyển cử; giáo dục tinh thần nhân dân bằng cách thực
hiện: cần, kiệm, liêm, chính; bỏ những thứ thuế vơ nhân đạo (thuế thân, thuế
chợ, thuế đò); cấm hút thuốc phiện và đề nghị Chính phủ ra tuyên bố tự do tín
ngưỡng, lương - giáo đồn kết. Sau kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi
Người nói: Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thốt
nạn bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn việc làm được ấm no và sống một
đời hạnh phúc. Mục tiêu cuối cùng của xây dựng chủ nghĩa xã hội là con người
được giải phóng và phát triển tồn diện. Nó phù hợp với những quy luật phát
triển của xã hội, phù hợp với lòng dân.
Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành
cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và dân tộc, vừa là người lãnh
đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, Đảng là một tổ chức chiến
đấu cách mạng, kiên trì cải tạo xã hội cũ, phá bỏ mọi lạc hậu; nhân danh chính
nghĩa và vì chính nghĩa mà chống phi nghĩa, chống mọi biểu hiện của cái ác. Mục
tiêu chủ yếu của Đảng là kiến tạo và dựng xây một xã hội mới tốt đẹp, nhân đạo
hoàn bị tiến tới nền văn minh mới - văn minh cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy, bản thân

21



Đảng là một lực lượng tiên tiến, là bộ phận tinh hoa của xã hội, là một tập thể đại
diện cho văn minh và nhân danh văn minh để chống dã man, tàn bạo.

22


1.1.3.5. Đảng là tổ chức tập hợp những con người có văn hóa, đạo đức
Đảng chính trị là tổ chức xã hội tự nguyện, là liên minh của những người
cùng lý tưởng. Người đảng viên là bộ phận hợp thành, quyết định bản chất, năng
lực, sức mạnh của đảng. Muốn biết đảng đó như thế nào hãy nhìn vào đội ngũ
đảng viên. Đảng viên mạnh, tốt, tiên tiến, thuận lòng dân, hợp thời đại thì đảng
tồn tại vững bền. Ngược lại thì đó khơng phải là một đảng tốt, đảng mạnh.
Theo Hồ Chí Minh: "Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những thợ thuyền, dân cày và lao động trí
óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ
quốc và nhân dân. Những người mà:
- Giàu sang không thể quyến rũ,
- Nghèo khó khơng thể chuyển lay,
- Uy lực khơng thể khuất phục"1.
Đội ngũ đảng viên của Đảng, kể từ khi thành lập, hầu hết xứng đáng với
tiêu chuẩn người cộng sản. Hồ Chí Minh ca ngợi: "Đảng ta là một tổ chức rất
tiến bộ, đã có những thành tích rất vẻ vang.
Chủ thể sáng tạo ra Đảng ta, cũng là chủ thể của Đảng, là hiện thân của đạo
đức, văn minh. Chủ thể đó là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng, là giai cấp
công nhân và nhân dân Việt Nam. Sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam là q trình
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đi từ tích hợp văn hóa Đơng - Tây tạo nên bản lĩnh
văn hóa vững vàng. Bản lĩnh đó như tấm màng lọc tự nhiên trong lựa chọn các học
thuyết cứu nước. Bằng bản lĩnh văn hóa và đạo đức, Hồ Chí Minh lựa chọn con
đường cứu nước theo quỹ đạo cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng
sản. Hồ Chí Minh lại là người cơng nhân Việt Nam tiêu biểu, người tiêu biểu cho

một dân tộc Việt Nam mấy ngàn năm văn hiến, dân tộc yêu chuộng và đề cao đạo lý.
Như vậy, Đảng ta là đạo đức, là văn minh là bởi vì Đảng là một tập thể
bao gồm hầu hết những đảng viên hồng thắm, chun sâu, vững về chính trị,
giỏi về chun mơn, tài đức vẹn tồn, kết thành một tổ chức có năng lực trí tuệ
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 6, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 184.

23


cao, có trình độ văn hóa tiêu biểu của thế giới đương đại, có trình độ lý luận tiên
phong đủ sức làm một đảng tiên phong dẫn đường cho quần chúng trong các
giai đoạn phát triển của lịch sử.
1.1.3.6. Đảng được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc tích hợp giá
trị đạo đức, văn minh; ln tự đổi mới, tự chỉnh đốn
Các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng là một bộ phận quan trọng
trong học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản. Đó là sản phẩm kết tinh trí tuệ
của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình nghiên cứu lý
luận và tổng kết thực tiễn. Những nguyên tắc cơ bản như tập trung dân chủ; tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh,
tự giác; đoàn kết, thống nhất trong Đảng… được xây dựng trên cơ sở vận dụng
và phát triển những quy chuẩn đạo đức của xã hội vào tổ chức và hoạt động của
một đảng chính trị. Thiếu những quy chuẩn đạo đức, xã hội sẽ rối loạn. Khơng
có các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt, Đảng không thể ra đời, tồn tại và phát
triển được. Các nguyên tắc mang tính chân lý đối với sự sống cịn của Đảng và
hướng đến tổ chức, củng cố và phát triển Đảng luôn vững mạnh để thực hiện
mục tiêu, lý tưởng văn minh, đạo đức. Chấp hành các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt Đảng kiểu mới, tức là thực hiện đạo đức trong điều kiện mới, là không
ngừng rèn luyện cách hoạt động và sinh hoạt văn minh.

Đảng luôn ý thức được: Điều kiện để đảm bảo cho tính tất yếu lịch sử
của vai trò cầm quyền và lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam là ln
ln đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Chỉ có ln đổi mới và chỉnh đốn, Đảng mới
theo kịp dòng chảy văn minh dân tộc và nhân loại. Thông qua đổi mới và tự
chỉnh đốn, Đảng loại trừ những yếu tố lạc hậu, bổ sung nguồn lực mới, làm giàu
và phát triển lên nội lực đang có.
Tóm lại, Đảng ta là đạo đức, là văn minh vì trong bản thân Đảng và trong
mọi hoạt động của Đảng, đạo đức văn minh ln là giá trị mang tính bao trùm,
xun suốt, chi phối.

24


1.2. Tính tất yếu của xây dựng Đảng «Đảng là đạo đức, là văn minh »
Vận dụng học thuyết Mác - Lênin về xây dựng Đảng trong điều kiện cụ
thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về tính tất yếu của xây dựng Đảng
"là đạo đức, là văn minh" như sau:
1.2.1. Xuất phát từ vị trí, vai trị, phương thức tồn tại của Đảng
Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân. Để nhân dân ta biết tự giác, đoàn kết, tập trung lực lượng, “đem sức ta mà
giải phóng cho ta”, Người đặt vấn đề: “Cách mạng trước hết phải có gì?
Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng
có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền
mới chạy”1.
Sự lãnh đạo của Đảng là tất yếu và có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Cách mạng là mơi trường sống của Đảng. Vai trị lãnh đạo
cách mạng của Đảng, yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng đối với Đảng đồng thời
đặt ra yêu cầu phải xây dựng Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy, xây dựng và
chỉnh đốn Đảng vừa là để đảm bảo giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa giúp

cho việc thực hiện vai trị đó một cách tốt nhất. Không xây dựng và chỉnh đốn
Đảng, đồng nghĩa với việc Đảng từ bỏ vai trò lãnh đạo, dân tộc Việt Nam sẽ
không thể nào tiến lên theo con đường chủ nghĩa xã hội được, mọi thành quả
cách mạng mà nhân dân ta bỏ biết bao công sức, xương máu giành được đều bị
thủ tiêu. Khi ấy Đảng cũng không tồn tại được.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, xây dựng và chỉnh đốn Đảng gắn liền
với sự tồn tại của Đảng; còn Đảng, còn hoạt động còn cần phải xây dựng, chỉnh
đốn. Trong khi chỉ ra tính tất yếu phải “có Đảng” thì Hồ Chí Minh cũng ln
kèm theo tính tất yếu phải “Đảng vững”. Điều này diễn ra trước cả khi Đảng ra
đời, kéo dài xuyên suốt quá trình tồn tại của Đảng. Đảng là sự tập hợp của
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 2, Nxb. CTQG, H, 2000, tr. 267-268.

25


×