Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vận dụng xây dựng văn hóa công sở tại trường cao đẳng Điện lực thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.8 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KPĂ HOA

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ VẬN DỤNG
XÂY DỰNG VĂN HÓA CÔNG SỞ TẠI TRƯỜNG
CAO ĐẲNG ĐIỆN LỰC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - Năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KPĂ HOA

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ VẬN DỤNG
XÂY DỰNG VĂN HÓA CÔNG SỞ TẠI TRƯỜNG
CAO ĐẲNG ĐIỆN LỰC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Chính trị học
Mã số: 8310201

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐINH NGỌC THẠCH

Hà Nội - Năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vận
dụng xây dựng văn hóa công sở tại Trường Cao đẳng Điện lực Thành phố Hồ
Chí Minh” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Đinh Ngọc Thạch.
Các tài liệu tham khảo sử dụng trong luận văn là trung thực và các
thông tin trích dẫn có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

Tác giả

Kpă Hoa


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu của học viên
Cao học tại Khoa Triết học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa
học Xã hội Việt Nam.
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Học viện Khoa học Xã
Hội, đã tạo những điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tôi học tập và nghiên
cứu.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến quý thầy, cô giáo, những người
phụ trách khoa Triết học đã truyền đạt cho tôi những kiến thức và kinh
nghiệm quý báu trong suốt thời gian tôi học tập tại Học viện.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đinh Ngọc Thạch, thầy đã tận tình
chỉ dạy, truyền đạt cho tôi những kiến thức, kinh nghiệm có giá trị, giúp tôi
hoàn thành Luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin được cảm ơn tập thể, Chi bộ Trường Cao đẳng Điện
lực Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi được học tập,
tiếp cận và nghiên cứu các tài liệu chuyên môn trong quá trình học tập và làm
Luận văn.

Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 3 năm 2019
Học viên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ QUAN ĐIỂM
CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ........................................................................11
1.1. Lý luận chung về văn hóa ..............................................................................11
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về văn hóa .......................................................11
1.1.2. Các chức năng của văn hóa ....................................................................15
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa ................................................................17
1.2.1. Khái niệm, vị trí, vai trò và tính chất của văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí
Minh ..................................................................................................................17
1.2.2.Quan điểm về chức năng của văn hóa và một số lĩnh vực chính của văn
hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh ......................................................................21
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về văn hóa, văn hóa chính trị và văn hóa
công sở trong giai đoạn hiện nay ..........................................................................23
1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về văn hóa và văn hóa chính trị .....23
1.3.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về văn hóa công sở .........................31
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VĂN HÓA CÔNG
SỞ TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG ĐIỆN LỰC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .39
2.1. Tổng quan về Trường Cao đẳng Điện lực thành phố Hồ Chí Minh ..............39
2.2. Thực trạng xây dựng văn hóa công sở tại Trường Cao đẳng Điện lực thành
phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến nay................................................................42
2.2.1. Nội dung công tác xây dựng văn hóa công sở tại Trường Cao đẳng Điện
lực Thành phố Hồ Chí Minh .............................................................................42
2.2.2. Các kết quả đạt được ..............................................................................52

2.2.3. Hạn chế và nguyên nhân trong xây dựng văn hóa công sở tại Trường
Cao đẳng Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................56
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện văn hóa công sở tại Trường Cao đẳng
Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh ........................................................................59


2.3.1. Nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý và tuyên truyền ...............................59
2.3.2. Nâng cao năng lực chuyên môn và tác phong của giảng viên phù hợp với
những yêu cầu của một trường thuộc ngành Điện ............................................61
2.3.3. Đổi mới nội dung, xây dựng kế hoạch ...................................................64
2.3.4. Xây dựng đội ngũ thực hiện và cơ chế phối hợp .....................................66
KẾT LUẬN ..............................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội không chỉ thể hiện trình độ mà còn
là động lực thúc đẩy sự phát tiển kinh tế - xã hội. Văn hóa được kết tinh từ những
giá trị tốt đẹp của con người, của một cộng đồng, từ đời sống một dân tộc, một xã
hội. Vì vậy, văn hóa là vừa là mục tiêu, vừa động lực cho hoạt động phát triển kinh
tế, đồng thời một nền văn hóa tiên tiến không chỉ phục vụ riêng cho một dân tộc,
cho một quốc gia mà còn đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của cách mạng
thế giới, đó chính là nội dung tích cực trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh. Trong
số những tên tuổi vĩ đại được tổ chức văn hóa thế giới (UNESCO) ra nghị quyết kỷ
niệm, Hồ Chí Minh là một trường hợp đặc biệt bởi vì Người vừa được tôn vinh là
anh hùng giải phóng dân tộc, vừa được ghi nhận là nhà văn hóa kiệt xuất. Tư tưởng,
sự nghiệp, nhân cách Hồ Chí Minh đã trở thành một hệ giá trị văn hóa của loài
người.
Kể từ sau khi Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, vệc
nghiên cứu giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa to lớn. Trong đó, tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa chiếm một vị trí quan trọng.
Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quan tâm đến vấn đề văn
hóa, coi đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng để giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người, phát triển đất nước; Đảng đã sớm đề ra quan
niệm và đường lối về văn hóa, đó là bảo tồn văn hóa dân tộc và phát triển văn hóa
dân tộc bắt nhịp cùng thời đại. Trải qua hơn tám thập kỷ lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Đảng ta luôn nhất quán và không ngừng bổ sung đường lối xây dựng nền văn
hóa mới phù hợp với tiến trình phát triển của cách mạng nước ta. Tháng 7 năm
1998, tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII của Đảng đã
họp và ra Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã xác lập một hệ
thống chính sách để xây dựng và phát triển văn hóa, trong đó đáng chú ý là chính
1


sách “kinh tế trong văn hóa” nhằm gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế, khai thác
tiềm năng tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa và chính sách “văn hóa trong kinh
tế” nhằm bảo đảm cho văn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế: “Văn hóa là
nền tảng tinh thần xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội” [9, tr.55].
Trong giai đoạn hiện nay, hòa nhập vào xu thế chung của các nước trong khu
vực và trên thế giới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát huy mọi nguồn lực để
phát triển đất nước phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi
liền với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải
thiện môi trường; kết hợp kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh. Vì
vậy, văn hóa là một bộ phận hữu cơ trong toàn bộ hoạt động của xã hội, phát huy
các giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống
tinh thần của nhân dân sẽ góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế-xã hội của

đất nước.
Nước ta đã đi qua một chặng đường hơn 30 năm đổi mới mang tầm vóc của
một cuộc cách mạng, một quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để
mọi lĩnh vực của đời sống. Từ đại hội XII, đảng ta xác định phải bảo đảm tính đồng
bộ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đổi mới kinh tế nổi bật ở xây dựng và
phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là nền kinh
tế thị trường hiện đại, vận động theo quy luật của thị trường, nâng cao năng lực
cạnh tranh trong hội nhập kinh tế và hội nhập quốc tế. Động lực và phương thức căn
bản để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, văn minh là khoa học
- công nghệ, là nguồn nhân lực chất lượng cao, đó là vốn người, thành phần quan
trọng bậc nhất của vốn xã hội. Đó phải là nền kinh tế giải quyết hài hòa các mối
quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội, các hoạt động sản xuất - kinh doanh phải
tuân thủ luật pháp của nhà nước, làm giàu hợp pháp, chính đáng được khuyến khích
và bảo vệ.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải do Đảng
lãnh đạo và được quản lý bởi nhà nước pháp quyền theo tinh thần thượng tôn pháp
2


luật, đây là định hướng chính trị đối với sự phát triển kinh tế thị trường. Theo Hồ
Chí Minh, chính trị khi nghĩ rộng cũng là văn hóa và văn hóa khi nghĩ sâu cũng là
chính trị, văn hóa không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị. Do đó, bảo
đảm tốt định hướng chính trị đối với sự phát triển kinh tế thị trường có ý nghĩa là
đem văn hóa chính trị thâm nhập vào kinh tế vì mục tiêu phát triển xã hội, phát triển
con người với thước đo tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội,
tốc độ tăng trưởng phải gắn liền với chất lượng tăng trưởng. Chất lượng ấy không
chỉ là kinh tế mà còn là văn hóa, văn hóa trong kinh tế và kinh tế trong văn hóa.
Xây dựng văn hóa công sở là xây dựng lề lối, nề nếp làm việc khoa học, có
trật tự kỷ cương, tuân theo những nội quy, quy định chung nhưng không mất đi tính
dân chủ. Trong môi trường làm việc ngày càng năng động và chuyên nghiệp như

hiện nay, bên cạnh việc sáng tạo để tìm ra phương pháp giúp làm việc nhanh hơn và
đạt hiệu quả cao hơn thì việc xây dựng giá trị riêng của bản thân thông qua việc
hình thành những thói quen, lề lối làm việc, phong cách ứng xử cùng hành vi văn
minh, lịch sự chốn công sở là điều hết sức quan trọng.
Văn hoá nơi công sở không chỉ thể hiện đạo đức, phẩm chất của cán bộ, công
nhân viên chức trong khi thực thi nhiệm vụ mà còn thể hiện trình độ văn hoá của
mỗi người. Để bảo đảm tính trang nghiêm và hiệu quả hoạt động của các cơ quan,
đơn vị, nhà trường trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng các chuẩn mực trong
văn hóa công sở luôn rất cần thiết.
Đồng thời, bản thân đang công tác tại trường Cao đẳng Điện lực thành phố
Hồ Chí Minh, một đơn vị trường học thuộc Tổng Công ty Điện lực miền Nam của
Tập đoàn Điện lực Việt Nam có cam kết đầu tiên của Tập đoàn với Đảng và Chính
phủ là “Sống, lao động và học tập theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí
Minh”. Do đó Tập đoàn Điện lực luôn chú trọng xây dựng những giá trị cốt lõi,
những chuẩn mực đạo đức và những cam kết về văn hóa để tất cả các đơn vị trong
hệ thống của mình xác lập một hệ thống các giá trị được mọi người trong đơn vị
chia sẻ, chấp nhận, đề cao và ứng xử theo các giá trị đó tạo nên sự khác biệt và được
coi là truyền thống riêng của mỗi đơn vị. Vì vậy tôi chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí
3


Minh về văn hóa và vận dụng xây dựng văn hóa công sở tại Trường Cao đẳng Điện
lực Thành phố Hồ Chí Minh” để thực hiện luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
việc xây dựng văn hóa công sở được tìm hiểu khá phổ biến, từ những cách tiếp cận
khác nhau, trong đó nổi bật có 3 hướng chính:
Trước hết, những công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa:
Cuốn sách “Chủ tịch Hồ Chí Minh với nền văn hoá Việt Nam” của tác giả Lê
Xuân Vũ do Nhà xuất bản Sự Thật ấn hành năm 1989, sách đề cập đến những vấn

đề trong toàn bộ cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nền văn hoá Việt
Nam: lý luận về cách mạng văn hoá Việt Nam, sự chỉ đạo và hoạt động của Chủ
tịch Hồ Chí Minh như là nhà văn, nhà thơ, nhà báo cách mạng. Tập sách là những
nét chấm phá cho bức tranh tổng quát về hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin
từ thực tế Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từ thực tế Việt Nam phát triển
và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng văn hoá. Người đã giải
quyết thành công vấn đề xây dựng một nền văn hoá mới và đã dày công vun đắp
qua 2 cuộc cách mạng văn hoá: Cách mạng văn hoá trong giai đoạn dân tộc dân chủ
nhân dân và cách mạng văn hoá trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cái
trước tạo tiền đề cho cái sau và cái sau là bước phát triển tất yếu của cái trước.
Tiếp theo là cuốn sách “Bác Hồ và truyền thống văn hoá dân tộc” do Thanh
Lê biên soạn được Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành năm 2003. Nội dung sách
dành phần lớn để nghiên cứu, giới thiệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với tư cách là
nhà chính trị, nhà tư tưởng thiên tài; Nhà văn hoá kiệt xuất, danh nhân văn hoá thế
giới; Nhà giáo mẫu mực, người khai sáng nền giáo dục Việt Nam. Đồng thời, dưới
ngòi bút phân tích của tác giả, Hồ Chí Minh hiện lên như là một nhà xã hội học vĩ
đại, người đặt nền móng xây dựng xã hội mới, con người mới Việt Nam; Đối với sự
nghiệp cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh lại là hiện thân của chủ nghĩa quốc tế vô
4


sản. Tác giả cũng dành những trang viết về tư duy cách mạng sáng tạo của nhà
chiến lược thiên tài Hồ Chí Minh qua các giai đoạn lịch sử cách mạng, người đã
khéo léo lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Ở những trang viết khác, tác giả lại giới thiệu chân dung
cuộc đời Hồ Chí Minh với tư cách của một nhà báo cách mạng lỗi lạc. Với trái tim
trong sáng, cao thượng và sâu sắc đến tuyệt vời, từ những bài báo của mình, Bác Hồ
đã nêu tấm gương sáng về phẩm chất, đức độ, tài năng...là những phẩm chất cao
qúy của nhà báo vô sản, đáng để các thế hệ làm báo hôm nay suy ngẫm, học tập.

Phần thứ hai của nội dung, tác giả dành để nghiên cứu các đặc điểm lịch sử Việt
Nam từ thời đại các Vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh. Tác giả giới thiệu về đặc
điểm quí báu nhất: Khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam; Về ngày giỗ tổ Hùng
Vương (mùng 10 tháng 3 âm lịch), ngày tết Đoan Ngọ (mùng 5 tháng 5 âm lịch);
Về nền văn hoá dân tộc kiến trúc xưa... Cuối cùng, tác giả dành trích những lời di
huấn bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho nhân dân Việt Nam qua suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng của Người (về đạo đức, về đoàn kết, về xây dựng con
người mới, về học tập, về lao động, về chống tham ô lãng phí, chống chủ nghĩa cá
nhân, về tự phê bình và phê bình...).
Cuốn sách “Văn hóa đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh” của Bùi Đình
Phong biên soạn do Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành lần đầu năm 2008 và
được tái bản năm 2017. Cuốn sách đề cập những vấn đề về văn hóa, đạo đức, nhân
văn, quan hệ quốc tế, triết lý phát triển, dân chủ, dân vận…Mỗi bài viết trong sách
một vẻ khác nhau, bài ngắn, bài dài được đăng tải trên nhiều tạp chí, ở những thời
điểm không giống nhau. Tuy nhiên, sợi chỉ đỏ xuyên suốt, tinh thần cơ bản của
cuốn sách, đó là Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa lớn. Đặc biệt là vấn đề văn hóa
đạo đức được người quan tâm toàn diện và sâu sắc.
Cùng tác giả Bùi Đình Phong, cuốn sách “Hồ Chí Minh trí tuệ và văn hóa”
do Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành lần đầu năm 2010 và được tái bản năm
2017. Cuốn sách với cái nhìn bao quát trí tuệ, văn hóa Hồ Chí Minh nhằm khắc họa
nhân cách, tài năng của Hồ Chí Minh. Cuốn sách cũng dành một số bài tập trung
5


phân tích triết lý Hồ Chí Minh về văn hóa lãnh đạo, về dân, về công tác dân vận, về
vai trò của Đảng cầm quyền…Hạt nhân trong tư tưởng và toàn bộ cuộc đời cách
mạng của Hồ Chí Minh là vì hạnh phúc, tự do của nhân dân và cuốn sách đã khắc
đậm mục tiêu này.
Cuốn sách “Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi”
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp do Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật xuất bản

tháng 5 năm 2018. Cuốn sách bao gồm một số bài nghiên cứu đã được công bố của
Đại tướng về tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung cuốn sách là những kỷ niệm sâu sắc
của Đại tướng với Bác Hồ, nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh, phân tích tư tưởng Hồ
Chí Minh trên một số lĩnh vực cụ thể trong đó có nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng văn hóa Việt Nam. Tác giả đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hóa trong cuộc đời hoạt động, trong cuộc sống hàng ngày của con người Hồ Chí
Minh.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu về phong cách làm việc và vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn:
Cuốn sách “Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn
hóa thế giới” do nhóm biên soạn: Trần Đình Huỳnh, Hoàng Chí Bảo, Đặng Quốc
Bảo, Thành Duy, Phan Hữu Tích, Nguyễn Hòa biên soạn do Nhà xuất bản Văn
nghệ Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2002. Cuốn sách được đầu tư công phu
từ hình thức cho tới chắt lọc nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung cuốc
sách gồm hai phần: thứ nhất là những mốc son trong hành trình của Hồ Chí Minh;
thứ hai là trình bày chín công trình khảo luận về một số vấn đề cơ bản như triết lý
phát triển xã hội của Hồ Chí Minh, triết lý về đổi mới và sáng tạo, về con người và
văn hóa.
Cuốn sách “Phong cách Hồ Chí Minh” của các tác giả Đỗ Hoàng Linh,Vũ
Kim Yến tuyển chọn và biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm
2014. Qua những câu chuyện minh họa rất giản dị, đời thường nhưng lại vô cùng
xúc động, giàu ý nghĩa, người đọc sẽ hiểu được phong cách Hồ Chí Minh - một
phong cách văn hóa Việt Nam điển hình, rất gần gũi và thân thuộc. Đồng thời,
6


thông qua những bài viết nghiên cứu, tìm hiểu phong cách Hồ Chí Minh của các tác
giả giàu tâm huyết, người đọc sẽ càng thấy rõ hơn tầm vĩ đại của Hồ Chí Minh với
tư cách là nhà tư tưởng lớn, nhà chiến lược thiên tài, nhà hoạt động thực tiễn lỗi lạc
và là tấm gương sáng ngời đã để lại những bài học quý giá trở thành chuẩn mực cho

việc xây dựng và rèn luyện phong cách của người đảng viên, người cán bộ cách
mạng, bồi dưỡng nhân cách cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau. Cuốn
sách giúp cho độc giả hiểu rõ hơn tầm vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh,với tư cách
là nhà tư tưởng lớn, nhà chiến lược thiên tài, nhà hoạt động thực tiễn lỗi lạc và là
tấm gương sáng ngời đã để lại những bài học quý giá trở thành chuẩn mực cho việc
xây dựng và rèn luyện phong cách của người đảng viên, người cán bộ cách mạng,
bồi dưỡng nhân cách cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau.
Bài viết “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế với văn hóa”
của Nguyễn Thế Thắng được đăng trên Trang Điện tử Ban Quản lý Lăng Chủ tịch
Hồ Chí Minh vào ngày 02 tháng 12 năm 2016. Nội dung bài viết phân tích sự vận
dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào phát
triển kinh tế của Việt Nam, phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hoá, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội,
ngược lại bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội là động lực cho tăng trưởng kinh tế,
ổn định. Bài viết khẳng định “Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng ta về mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và văn hóa, cần quán
triệt sâu sắc và thực hiện tốt hơn định hướng kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế
và phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển”[47, tr.1].
Thứ ba, những công trình nghiên cứu tập trung khai thác về yếu tố văn hóa
công sở:
Trong cuốn “Lễ nghi công sở” do Dương Thu Ái và Nguyễn Kim Hanh biên
soạn xuất bản năm 2014 do Nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành. Tác phẩm mô tả chi
tiết tất cả các lễ nghi cần thiết từ thi tuyển vào công sở, về hành vi của người mới
7


vào công sở đến hành vi thường ngày nơi công sở hay hành vi ở trong văn phòng,
hội nghị hay các trường hợp khác. Trong đó có thể thấy rõ các nội dung có ý nghĩa

thực tiễn việc ứng xử giao tiếp nơi công sở được hai tác giả trình bày rõ ràng.
Ấn hành của Nhà xuất bản Lao động năm 2013: “Văn hóa ứng xử và nghệ
thuật giao tiếp nơi công sở trong các cơ quan hành chính nhà nước, doanh nghiệp,
trường học, bệnh viện, khi tham gia giao thông”. Cuốn sách bao gồm những kỹ
năng giao tiếp trong công việc cũng như trong đời sống như: giao tiếp nơi công sở,
kỹ năng ứng xử với đồng nghiệp, cấp trên-cấp dưới, khách hàng... và nêu lên những
điều cần tránh nơi công sở qua những bài học cụ thể. Đây là một tài liệu mang tính
chất hướng dẫn có giá trị thiết thực giúp nhận thức đúng đắn vai trò của văn hóa và
trách nhiệm của mỗi người chúng ta trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt
Nam trong hiện tại và tương lai.
Cuốn sách “Pháp luật, lối sống và văn hóa công sở” do Nguyễn Minh Doan
làm chủ biên, đồng tác giả là Bùi Thị Đào và Nguyễn Văn Năm do Nhà xuất bản Tư
pháp Hà Nội ấn hành năm 2011. Nội dung cuốn sách trang bị một số kiến thức về
pháp luật, sự cần thiết phải sống và làm việc theo pháp luật, lối sống theo pháp luật
và văn hóa công sở ở nước ta trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và mở cửa hội
nhập quốc tế.
Ấn phẩm lưu hành nội bộ về “Quy tắc ứng xử văn hóa cơ quan Tập đoàn
Điện lực Việt Nam” do Trung tâm thông tin Điện lực ấn hành năm 2013. Đây là tài
liệu triển khai văn hóa Tập đoàn Điện lực Việt Nam, nhằm mục đích hoàn thiện các
quy định về hành vi của cán bộ, công nhân viên trong Tập đoàn khi giao tiếp, thực
thi công việc chuyên môn trong mối quan hệ với đồng nghiệp, môi trường cộng
đồng và xã hội. Quy tắc ứng xử này cũng nhằm hướng các hành vi giao tiếp và ứng
xử của cán bộ, công nhân viên đến các chuẩn mực tốt đẹp, văn minh, lịch sự... cống
hiến cho sự phát triển của Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu được đề cập nói trên đã đi sâu và
làm sáng tỏ những vấn đề trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vận dụng
8



những giá trị này vào trong thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Mặt
khác, cũng cho thấy, tầm quan trọng khi nghiên cứu một khía cạnh của văn hóa là
văn hóa công sở vì văn hóa là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc, là động lực để
phát triển kinh tế để Việt Nam đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” như Đảng đã đề ra.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các nguồn tài liệu liên quan tới đề tài, luận
văn đi sâu nghiên cứu một khía cạnh cụ thể về vận dụng xây dựng văn hóa công sở
từ tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa tại trường Cao đẳng Điện lực Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Luận văn nghiên cứu nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và sự vận
dụng vào một lĩnh vực cụ thể của văn hóa là văn hóa công sở để làm sáng tỏ thực
tiễn xây dựng văn hóa công sở tại Trường Cao đẳng Điện lực Thành phố Hồ Chí
Minh. Từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường hiệu quả thực hiện văn hóa công
sở nhằm kế thừa và phát huy các giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ như sau:
- Khái lược tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và quan điểm của Đảng, Nhà
nước về xây dựng, phát triển văn hóa trong giai đoạn hiện nay.
- Làm rõ thực trạng xây dựng văn hóa công sở tại trường Cao đẳng Điện lực
Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện văn hóa công sở tại
trường Cao đẳng Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và
văn hóa công sở tại Trường Cao đẳng Điện lực thành phố Hồ Chí Minh.

9



Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vận dụng xây dựng văn hóa công sở tại
Trường Cao đẳng Điện lực thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ năm 2015
đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là Chủ nghĩa Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về văn hóa, văn hóa chính trị, văn
hóa công sở…
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là Phép biện chứng duy vật
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là quy nạp và diễn
dịch, lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh và đối chiếu…
Luận văn còn chú ý khai thác, kế thừa những giá trị của các công trình
nghiên cứu trước đó có liên quan đến đề tài
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đây là một công trình nghiên cứu có thể coi là mới trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa và vận dụng xây dựng văn hóa công sở tại trường Cao đẳng Điện
lực Thành phố Hồ Chí Minh. Việc nghiên cứu sâu hơn, chi tiết hơn về văn hóa công
sở và vận dụng xây dựng văn hóa công sở tại trường Cao đẳng Điện lực Thành phố
Hồ Chí Minh hy vọng có những giá trị thực tiễn và lý luận nhất định.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập
tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vận dụng xây dựng văn hóa nơi công sở.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 2 chương và 6 tiết.
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và quan điểm của Đảng, Nhà
nước về xây dựng, phát triển văn hóa trong giai đoạn hiện nay.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp xây dựng văn hóa công sở tại trường cao
đẳng Điện Lực thành phố Hồ Chí Minh


10


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG,
NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Lý luận chung về văn hóa
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về văn hóa
Văn hóa là khái niệm xuất hiện từ lâu trong lịch sử; tồn tại và phát triển
cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong tiếng Việt, văn hóa là danh từ có
nội hàm ngữ nghĩa khá phong phú và phức tạp. Có thể hiểu văn hóa như một hoạt
động sáng tạo của con người, nhưng cũng có thể hiểu văn hóa như lối sống, thái độ
ứng xử, lại cũng có thể hiểu văn hóa như trình độ học vấn của con người.
Ngược dòng lịch sử, ở phương Tây, từ văn hóa xuất hiện sớm trong đời
sống ngôn ngữ. Nhà ngôn ngữ học người Đức W.Wundt cho rằng: Văn hóa là một
từ có nguồn gốc Latinh: Colere, sau trở thành Cultura nghĩa là cày cấy, gieo trồng.
Về sau nghĩa được mở rộng hơn là sự hoàn thiện, vun trồng tinh thần, trí tuệ. Vào
thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, nhà hùng biện thời La Mã, Cicéron từng có câu
nói nổi tiếng: Triết học là văn hóa (sự vun trồng) tinh thần ( Filosofia cultura
animiest).
Ở Trung Quốc, từ “văn hóa” đã xuất hiện đầu tiên trong Kinh Dịch, quẻ Bí
viết: “Quan hệ thiên văn dĩ sát thời biến, quan hệ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ”.
Đặc biệt trong đời sống ngôn ngữ ở thời Tây Hán ( 206 trước Công nguyên-25 năm
sau công nguyên) từ “văn hóa” đã được phổ biến. Lưu Hướng viết trong sách
“Thuyết uyển” bài “Chỉ vũ”: “Thánh nhân cai trị thiên hạ, trước dùng văn đức rồi
sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực đều để đối phó kẻ bất phục tùng, dùng văn
hóa không thay đổi được thì sau sẽ chinh phạt”. Như vậy, trong cách nghĩ của Lưu
Hướng, từ văn hóa được hiểu như một cách giáo hóa đối lập với vũ lực, văn hóa gần
nghĩa với giáo hóa.

Mặc dù có mặt sớm trong đời sống ngôn ngữ phương Tây cũng như phương
Đông như vậy, nhưng phải đến thế kỷ XVIII, từ văn hóa mới được đưa vào khoa
11


học, sử dụng như thuật ngữ khoa học. Năm 1774, từ này mới được xuất hiện trong
thư tịch và ghi vào từ điển năm 1783 ở Đức.
Người đầu tiên sử dụng từ văn hóa trong khoa học là Pufendorf, người Đức,
ông cho rằng văn hóa là toàn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã hội, nghĩa là
văn hóa đối lập với trạng thái tự nhiên. Sau ông, nhà triết học Herder (1744-1803)
cho rằng: văn hóa là sự hình thành lần thứ hai của con người. Theo ông, lần thứ
nhất, con người xuất hiện với tư cách là một thực thể sinh vật tự nhiên; lần thứ hai
con người hình thành như một thực thể xã hội, tức là một nhân cách văn hóa, theo
nghĩa toàn vẹn của từ này.
Sau đó, ông Adelung, người Đức, người đầu tiên đề quan niệm lịch sử phát
triển của văn hóa như lịch sử phát triển xã hội, đối lập với lịch sử phát triển các
triều đại. Trong khi đó, nhà triết học Kant lại cho rằng văn hóa là sự phát triển, bộc
lộ các khả năng, năng lực và sức mạnh của con người. Cùng với các nhà triết học
người Đức, nhà triết học Vico người Ý cho rằng, văn hóa là một từ chỉ phức thể
gồm: khoa học, nghệ thuật, kinh tế, chính trị.
Đến năm 1871, E.B.Tylor công bố công trình “Văn hóa nguyên thủy” ở Luân
Đôn. Lúc này ngành khoa học văn hóa mới chính thức được khẳng định bởi
E.B.Tylor và ông cũng chính là người đưa ra định nghĩa: Văn hóa là một phức thể
bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và mọi khả
năng, thói quen mà con người với tư cách là một thành viên xã hội đạt được.
Từ đây, khái niệm văn hóa được nhiều người đề cập. Năm 1952, trong công
trình “Văn hóa: tổng luận phê phán các quan niệm và định nghĩa” (Culture: a
critical review of concepts and difintions), hai nhà khoa học Mỹ là A.L.Kroeber và
A.C.Kluckhohn đã thống kê và phân tích tới 164 định nghĩa về văn hóa, trong đó có
7 định nghĩa ra đời từ 1871 đến 1919 và 157 định nghĩa ra đời từ năm 1920 đến

1950. Năm 1967, nhà văn hóa học người Pháp, Abraham Moles lại cho biết có đến
250 định nghĩa. Vào năm 1982, tại Mexico, trong Hội nghị thế giới về văn hóa, Tổ
chức văn thế giới (UNESCO) đã đưa ra khái niệm về văn hóa theo nghĩa rộng: văn
hóa là toàn bộ các thuộc tính đặc biệt về tâm hồn, vật chất, trí tuệ và tình cảm đặc
12


trưng cho một xã hội, chứ không phải chỉ bao gồm có nghệ thuật. Văn hóa còn bao
gồm lối sống, các quyền cơ bản của con người, các giá trị tín ngưỡng, truyền thống
của các dân tộc. Năm 1994, trong công trình “Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận
mới”, Phan Ngọc viết: “Một nhà dân tộc học Mỹ đã dẫn ngót bốn trăm định nghĩa
về văn hóa khác nhau”.
Ở Việt Nam, từ thời Lý, người Việt đã tự hào nước mình có một “văn hiến
chi bang”. Đến đời Lê, Nguyễn Trãi viết:
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Nghĩa là:
Như nước Đại Việt ta,
Thực là một nước văn hiến.
Ở đây, Nguyễn Trãi đặt từ văn hiến bên cạnh những từ khác như sơn xuyên
(núi sông), phong tục, lịch sử, hào kiệt. Nói khác đi, nội hàm của từ văn hiến chính
là một khía cạnh trong nội hàm của từ văn hóa.
Kế thừa tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng
viết: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao
gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong
một quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử... cốt lõi của
sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao quát và đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ
thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự
nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh các
cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng

lớn mạnh” [57, tr.17].
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII của Đảng đã
đưa ra nội hàm của khái niệm văn hóa như sau: “Văn hóa theo nghĩa rộng, tức là
toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội...trong đó trọng tâm là tư tưởng, đạo đức, lối
sống và dời sống văn hóa” [9, tr.11].

13


Như vậy, khi tiếp cận văn hóa với tư cách là một khái niệm khoa học-triết
học đã thể hiện những nội dung cơ bản:
Thứ nhất, văn hóa là toàn bộ hoạt động(gồm cả sản xuất, quan hệ, giao
tiếp...) của con người (cá nhân, cộng đồng) trong quan hệ với tự nhiên, xã hội và
bản thân; đó là hoạt động tạo ra sản phẩm, bảo vệ và trao đổi sản phẩm, mà trọng
tâm là hoạt động sản xuất xã hội. Văn hóa là sự sáng tạo của con người, thuộc về
con người, những gì không do con người làm thì nên không thuộc về khái niệm văn
hóa. Từ đó văn hóa là đặc trưng căn bản phân biệt con người với động vật, đồng
thời cũng là tiêu chí căn bản phân biệt sản phẩm nhân tạo với sản phẩm tự nhiên.
Văn hóa xuất hiện do sự thích nghi một cách chủ động và có ý thức của con người
với tự nhiên, nên văn hóa cũng là kết quả của sự thích nghi ấy.
Thứ hai, sự thích nghi trên là sự thích nghi có ý thức và chủ động nên không
phải là sự thích nghi máy móc mà thường là sự thích nghi có sáng tạo, phù hợp với
giá trị chân - thiện - mỹ. Vì văn hóa là một hệ thống giá trị, cả tinh thần và vật chất,
cả vật thể và phi vật thể. Nhưng trước hết là giá trị tinh thần, cơ bản là các giá trị
khoa học, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ. Do vậy, ta hay nói văn hóa là chân - thiện
- mỹ. Các giá trị đó dần dần được tích lũy lại làm nên môi trường văn hóa, cụ thể là
thực hiện dân sinh, dân chủ, dân trí... Từ môi trường văn hóa này, mỗi thành viên
của xã hội, kể từ khi ra đời, lớn lên...sẽ nhận được sự giáo dục, đào tạo, rèn luyện để
thực sự trở thành một con người và sáng tạo những giá trị-văn hóa mới. Đây là
những thành tố cơ bản của giá trị văn hóa và giá trị chân - thiện - mỹ là hạt nhân

trọng tâm.
Thứ ba, văn hóa bao gồm cả những sản phẩm tinh thần và vật chất, chứ
không riêng tinh thần mà thôi. Và như thế văn hóa càng không đơn giản là thượng
tầng kiến trúc xã hội, nó có gốc rễ trong kinh tế, là hạ tầng của đời sống tinh thần xã
hội. Văn hóa là sáng tạo và phát triển nhưng trước hết là phát triển năng lực con
người.
Thứ tư, văn hóa là phương thức tồn tại, phương thức sinh sống và phát triển
của con người và cộng đồng. Phương thức này là cách thức để hoạt động, cách thức
14


làm ra, bảo tồn các giá trị văn hóa trong từng giai đoạn lịch sử nhất định của loài
người.
Văn hóa có nhiều khía cạnh, biểu hiện nhưng đều không nằm ngoài những
nội dung trên, tạo thành chỉnh thể cơ bản của văn hóa như một bản thể người sáng
tạo, sinh động, vừa bất biến và dĩ biến trong quá trình phát triển của con người và
xã hội loài người.
1.1.2. Các chức năng của văn hóa
Ngày nay văn hóa trở thành đối tượng của khoa học, một ngành khoa học
khá lớn; đồng thời văn hóa luôn luôn gắn chặt với các khái niệm chân - thiện - mỹ
nên văn hóa được nhận thức đúng đắn về các chức năng cơ bản của nó trong quá
trình phát triển kinh tế-xã hội như sau:
Chức năng nhận thức, được xem là điều kiện thiết yếu và yếu tố cấu thành
của bất cứ hành vi văn hóa nào của con người để tồn tại, khẳng định và phát triển
trong quan hệ với tự nhiên và xã hội.
Nhận thức là yếu tố chất lượng, là thuộc tính hàng đầu của văn hóa. Không
có nhận thức của con người với thế giới tự nhiên, với xã hội rộng lớn và với chính
con người vô cùng phong phú, đa dạng thì có thể nói không có văn hóa. Cho nên
văn hóa dưới nhiều hình thức khác nhau luôn phản ánh các hiện tượng cuộc sống,
phản ánh các quy luật nội tại trong xã hội và thiên nhiên, phản ánh những chân lý

khách quan và chủ quan của quá khứ, hiện tại và tương lai. Tất cả sự phản ánh đó
chính là sự nhận thức cái CHÂN, là nền tảng tinh thần tạo nên nền móng của xã hội.
Chức năng định hướng giá trị, là một vấn đề quan trọng tiếp sau chức năng
nhận thức. Văn hóa khẳng định nhân tính, khẳng định phẩm giá của con người. Văn
hóa cũng khẳng định con người là giá trị cao nhất, đó là giá trị gốc sản sinh ra mọi
giá trị của văn hóa. Văn hóa bao giờ cũng thấm đượm cái THIỆN, nghĩa là xuất
phát từ bản chất chủ nghĩa nhân đạo, bởi lẽ văn hóa là của con người, do con người
và vì con người. Sự gắn bó của văn hóa với con người ở nhiều khía cạnh khác nhau,
phản ánh hệ thống đạo lý hay đạo đức của nền văn hóa đó, mà ở phương Đông được
quy về các đạo lý như: đạo làm người, đạo làm quân tử, đạo làm vua, đạo làm tôi,
15


đạo vợ chồng, đạo cha con... Con người chỉ khẳng định, phát triển được nhân tính
đích thực, tốt đẹp của mình trong quá trình xã hội hóa, văn hóa hóa. Môi trường xã
hội lành mạnh, tốt đẹp sẽ là điều kiện để nhân tính hóa của con người. Do đó,
những định hướng giá trị đúng đắn sẽ góp phần củng cố, nâng cao và phát triển
nhân tính xã hội, cũng có nghĩa là đặt nền tảng cho sự nghiệp văn hóa cao quý. Hay
nói cách khác, bất cứ nền văn hóa nào cũng phải gắn với khái niệm cái đẹp. Nó
dường như nằm trong bản chất của con người, như C.Mác đã nói: “Bản chất của con
người là biết nhào nặn hiện thực theo quy luật của cái đẹp” [6, tr.137]. Hay nói cách
khác là toàn bộ nền văn hóa được xây dựng theo quy luật của cái đẹp-cái MỸ.
Vì vậy, nhận thức cái CHÂN và định hướng giá trị để thực hiện cái THIỆN,
đạt được cái MỸ là các chức năng cơ bản hàng đầu của văn hóa, luôn có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau.
Ngoài ra, chức năng của văn hóa còn có những yếu tố khác như :
Sự sáng tạo, là hệ quả của nhận thức và định hướng giá trị của văn hóa, là
yếu tố chất lượng của văn hóa, gắn bó mật thiết với CHÂN-THIỆN-MỸ. Nhưng để
phát huy mạnh mẽ năng lực sáng tạo của con người thì cần phải biết khích lệ, động
viên, đồng thời phải gắn liền nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân

tài.
Giao tiếp, có vị trí rất quan trọng trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay,
là yếu tố định tính cơ bản của văn hóa. Chỉ có giao tiếp mới có đối thoại, và chỉ có
đối thoại mới có sự giao lưu văn hóa một cách mạnh mẽ và chọn lọc những tinh hoa
văn hóa cho dân tộc mình.
Cuối cùng là văn minh hóa, tức là phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ;
đồng thời xây dựng hình thái kinh tế-xã hội tiến bộ, hiện đại hóa các lĩnh vực hoạt
động của thực tiễn xã hội.
Khi nói đến văn minh hóa thì cũng được xem là một yếu tố văn hóa trong
cấu trúc mô hình xã hội. Từ đó, để xây dựng chiến lược văn hóa ở tầm vĩ mô nhằm
tạo thành cấu trúc trong mô hình phát triển xã hội, điều quan trọng là phải nắm chắc

16


các loại hình văn hóa có ý nghĩa then chốt, tác động đến toàn bộ hệ thống, đồng thời
coi trọng tính đặc thù của mỗi loại hình văn hóa trong thời đại hiện nay
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
1.2.1. Khái niệm, vị trí, vai trò và tính chất của văn hóa trong tư tưởng Hồ
Chí Minh
Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm về văn hóa từ năm 1943, trong mục đọc sách
ở phần cuối tập Nhật ký trong tù, Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoại
hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [24, tr.431]. Như vậy, Người coi văn hóa là
sự tổng hợp các giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra.
Định nghĩa này đến nay vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự khi văn hóa đã thực

sự trở thành sức mạnh to lớn trong công cuộc phát triển chính trị, kinh tế, xã hội
Tinh thần và bản chất trong quan niệm văn hóa của Hồ Chí Minh có tính kế
thừa và phát triển các quan niệm văn hóa đi trước nhưng lại phù hợp và thống nhất
với quan niệm văn hóa của UNESCO. Đây là khái niệm văn hóa sớm nhất và duy
nhất của Hồ Chí Minh khi bàn về văn hóa.
Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có ý nghĩa vô cùng to lớn và giữ vị trí đặc biệt
quan trọng. Theo Người: “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ
tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát
triển được; có thực mới vực được đạo; xã hội thế nào thì văn hóa thế ấy. Nhưng mặt
khác, đến lượt mình, văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội, phát triển kinh tế;
văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” [28, tr.320]
Văn hóa được xây dựng và bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử, nó làm
nên nền tảng tinh thần của một xã hội, giữ vai trò quan trọng vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong rất nhiều bài nói và bài viết,
17


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến việc phải giữ gìn và phát huy những truyền
thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng dân tộc Việt Nam được hun đúc nên qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là
lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao
động, dũng cảm trong chiến đấu…
Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng, được
đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội. Văn hóa là nền tảng tinh thần của đời
sống xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định đời sống xã hội bao gồm bốn mặt và phải xây
dựng đồng thời bốn mặt đó là: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.Trong quan hệ với
chính trị, xã hội: chính trị, xã hội được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng.
Chính trị mở đường cho văn hóa phát triển. Để văn hóa phát triển tự do, phải làm
cách mạng chính trị trước. Ở Việt Nam, tiến hành cách mạng chính trị thực chất là

tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, giải phóng
chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát
triển. Trong quan hệ với kinh tế: kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc
xây dựng văn hóa, do đó phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng
để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa. Văn hóa là một kiến trúc thượng
tầng; nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được
và có đủ điều kiện phát triển được. Người viết: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì
phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế.
Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước. Phải phát
triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”
[25, tr.470].
Văn hóa thúc đẩy sự phát triển kinh tế và chính trị. Văn hóa không thể đứng
ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc
đẩy sự phát triển của kinh tế. Đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ
Chí Minh không nhấn mạnh một chiều về sự phụ thuộc “thụ động” của văn hóa vào
kinh tế, chờ cho kinh tế phát triển xong rồi mới phát triển văn hóa. Văn hóa có tính
18


tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn như một động lực, thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế và chính trị. Người nói: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp
cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao
trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành
một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” [24, tr.458 - 459].
Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị có nghĩa là:
Văn hóa phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây
dựng và phát triển kinh tế. Quan điểm này định hướng cho việc xây dựng một nền
văn hóa mới ở Việt Nam, định hướng cho mọi hoạt động văn hóa. Văn hóa không
đứng ngoài mà ở trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc và cuộc kháng
chiến trở thành cuộc kháng chiến có văn hóa.

Kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hóa. Điều mà chủ nghĩa xã hội và
thời đại đang đòi hỏi. Ngày nay, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
chủ trương gắn văn hóa với phát triển, chủ trương đưa các giá trị văn hóathấm sâu
vào kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.ính trị, thúc đẩy xây dựng và phát
triển kinh tế. Đồng thời kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hóa và thời đại
đang đòi hỏi.
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã bắt
tay vào việc xây dựng một nền văn hóa mới. Nhiều vấn đề văn hóa đã được đặt ra
và giải quyết ngay từ những ngày đầu của cuộc cách mạng như giải quyết nạn dốt,
giáo dục tinh thần cần, kiệm, liêm, chính; cấm hút thuốc phiện, lương giáo đoàn kết
và tự do tín ngưỡng…
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển kinh tế phải hài hòa với xây dựng
văn hóa, phải gắn sự phát triển kinh tế với góp phần nâng cao trình độ văn hóa cho
nhân dân. Mặt khác, phải làm mọi cách để phát huy tối đa sức mạnh của văn hóa,
làm cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, biến văn hóa thành một nguồn lực
nội sinh quan trọng nhất của phát triển kinh tế.

19


×