Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

CHĂM SÓC CÂY KHOAI TÂY VỤ ĐÔNG potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.81 KB, 3 trang )

CHĂM SÓC CÂY KHOAI TÂY VỤ
ĐÔNG

Cây khoai tây( Solanum Tuberosum. L) là cây trồng vụ đông có năng
suất ổn định và hiệu quả kinh tế cao, là nguồn nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến. Khoai tây có thời gian sinh trưởng ngắn 85 – 90 ngày,
là cây ưa lạnh, đáp ứng điều kiện sản xuất vụ đông muộn ( 15/10 –
15/11, có thể muộn hơn) nên không bị áp lực về thời vụ như các cây vụ
đông ưa ấm như ngô, đậu tương.
Tính đến thời điểm này, toàn tỉnh đã trồng được trên 150 ha khoai tây,
trong đó, gần 60 ha áp dụng làm đất tối thiểu. Các huyện trồng nhiều
như: Tân Sơn 47,5 ha, Yên Lập 32,2 ha, Lâm Thao 20,1 ha giống được
lựa chọn gieo trồng phù hợp với điều kiện khí hậu và đất đai của tỉnh
như: Diamant, Atlantic, Sinora, Aladin, Solara có năng suất khá, phù
hợp với thị hiếu ăn tươi và chế biến công nghiệp. Nhiều mô hình khuyến
nông; mô hình giảm nghèo; mô hình nông nghiệp sáng tạo ứng phó với
biến đổi khí hậu được triển khai, lồng ghép nhằm mở rộng diện tích
trồng khoai tây vụ đông năm nay.
Để cây khoai tây sinh trưởng, phát triển tốt, năng suất cao, cần quan
tâm chăm sóc và phòng trừ một số đối tượng sâu bệnh hại chính như
sau:
- Chăm sóc, bón phân: Sau khi trồng khoảng 3 tuần (cây cao 20 cm)
cây khoai tây hình thành tia củ, quá trình này kéo dài 30 - 45 ngày tuỳ
theo giống và điều kiện sinh thái nhưng tập trung nhất trong khoảng 20 –
25 ngày đầu. Những tia củ ra muộn khó phát triển thành củ. Ngoài yếu
tố về nhiệt độ thích hợp từ 17- 20
0
c, yêu cầu độ ẩm đất 70 - 80%, dinh
dưỡng đầy đủ và đất tơi xốp thông thoáng. Vì vậy, khi cây được 7- 10
ngày cần tỉa bớt mầm, chỉ để lại 3 – 4 mầm trên khóm. Cây được 3 tuần
tiến hành bón thúc đợt đầu. Lượng phân bón lần này nếu bón phân đơn


từ 4 - 5 kg đạm và 5 - 6 kg kali /sào. Nếu bón theo quy trình khép kín thì
cần 17 – 20 kg N:P:K-S
12.5.10-14
/sào. Với phương pháp làm đất tối thiểu
chỉ cần vạch rơm rạ, bón vào giữa 2 hàng khoai rồi phủ bổ sung rơm rạ.
Trồng theo truyền thống thì sới nhẹ bón xung quanh, cách gốc 15 – 20
cm kết hợp vun nhẹ lấp đất kín phân. Nếu đất khô thì lấy nước vào rãnh
ngập ½ rãnh để ngấm đủ thì tháo cạn. Trường hợp không chủ động lấy
nước tự chảy phải bơm hoặc dùng ô doa tưới nước để phân tan vào đất.
Bón thúc lần hai khi cây khoai được 6 tuần, lượng bón tương tự như lần
một và nên giảm 1- 2 kg đạm/sào. Lưu ý: Nếu không phủ thêm rơm rạ
hoặc sới vun cao đất nhỏ kín gốc, ánh sáng chiếu vào tia củ làm cho củ
bị xanh, giảm năng suất và giảm giá trị thương phẩm.
- Phòng trừ sâu, bệnh hại chính:
+ Nhện trắng: Xuất hiện và gây hại khi thời tiết ấm, chúng rất nhỏ, mắt
thường khó nhìn thấy, tập trung ở mặt sau lá chích hút dịch lá. Nhận biết
khi lá và ngọn cây quăn lại chuyển màu tím tái. Sử dụng thuốc: Aremec
36EC, Shepatin 36EC, Silsau 10WP, Soka 25EC, Ortus 5SC phun
theo hướng dẫn trên bao bì
+ Bọ trĩ: Cơ thể cũng rất nhỏ, mầu vàng, dài khoảng 1 - 2 mm, nằm ở
mặt dưới lá non. Chúng chích hút dịch lá ở các đường gân lá, làm cho lá
bị khô và chết. Nhiều khi nhện và bọ trĩ cùng xuất hiện gây hại nặng giai
đoạn cây còn non. Sử dụng thuốc: Dylan 2EC, Actatoc 200 WP,
Reasgant 1.8EC, Confidor 100 SL, Actamec 20EC phun theo hướng
dẫn trên bao bì.
+ Rệp sáp: Khi mới nở màu trắng hồng hay vàng nhạt. Trưởng thành
hình bầu dục, dài 4 mm, mắt thường dễ nhìn thấy, gây hại mạnh khi
khoai tây 30 – 60 ngày tuổi. Chúng tụ tập phần ngọn, nách lá, mặt dới lá
để chích hút dịch làm cho mầm thui, lá khô. Rệp còn là môi giới truyền
một số bệnh do vi rút. Sử dụng thuốc:Reasgant 1.8EC; Shepatin 18EC;

Scorpion18 EC; Actamec 20EC; Actatoc 200WP; Bestox 5EC; Fastac 5
EC phun theo hướng dẫn trên vỏ bao bì.
+ Bệnh mốc sương (sương mai) do nấm Phytophhthora infestans. Vết
bệnh có màu nâu. Nếu trời ẩm ướt thì mặt dưới lá có một lớp mốc trắng,
còn trời khô lạnh thì vết bệnh khô lại, trường hợp bị nặng bệnh xâm
nhập xuống củ làm cho củ teo khô và thối ướt. Nhiệt độ 10 - 25
0
C, mưa
phùn kéo dài, trời nhiều mây mù, độ ẩm không khí cao, ruộng khoai ẩm
ướt thì bệnh dễ phát sinh phát triển. Để hạn chế bệnh nên sử dụng củ
giống sạch bệnh, không để ruộng quá ẩm, bón vôi bột khi trồng. Sử dụng
thuốc: Ridomil Gold 68WP; Score 250EC; Zinep Buld phun ngay khi
bệnh mới xuất hiện.
+ Bệnh héo xanh do vi khuẩn Pseudomonas solanacearum gây nên.
Cây bị bệnh, lá và thân cây vẫn xanh, nhưng héo rũ đột ngột như nhúng
nước nóng. Bị nặng, gốc cây và củ thối nhũn, trong có chất nhầy dính,
mùi hôi. Nguồn bệnh có thể từ củ giống; nguồn nước tưới có vi khuẩn;
bón phân chuồng tươi Thời tiết nóng, ẩm, mưa nhiều, đất quá ướt là
điều kiện tốt cho bệnh phát triển. Hạn chế bệnh là sử dụng củ giống sạch
bệnh, luân canh khoai tây với lúa nước, không bón phân tươi, khi có
mưa to phải tháo kiệt nước. Nhổ bỏ toàn bộ cây bệnh (cả củ) đem tiêu
huỷ và rắc vôi vào gốc cây bệnh. Sử dụng thuốc: PN-Balacide 32WP;
Stifano 5.5SL; Fulhumaxin 5.15 SC phun ngay khi bệnh mới xuất hiện.
Cây khoai tây còn gặp một số bệnh như: Vi rút xoăn lùn làm cho lá bị
xoăn lại, cây còi cọc, thấp lùn; bị nhẹ lá nhăn lại, có màu xanh đậm –
nhạt xen kẽ, phiến lá gồ ghề, củ nhỏ, ít củ. Vi rút cuốn lá làm cho lá
phía dưới cong lên, màu sắc lá trở thành vàng nhạt hoặc tím tía, đỏ; lá dễ
bị gẫy ròn. Đây là 2 loại vi rút nặng đối với cây khoai tây, nguy hiểm
nhất là vi rút xoăn lùn rất phổ biến, tuy không làm cây chết nhưng ảnh
hưởng năng suất tới 40%. Ngoài ra, còn vi rút khảm lá cũng làm giảm

năng suất từ 10 -15 %, phiến lá có những vết đốm mầu vàng nhạt xen
với mầu xanh tạo thành vết khảm lốm đốm. Lá cũng hơi biến dạng, nhỏ
lại, mép hơi cong, mặt lá hơi gồ ghề. Nhìn chung các loại bệnh do vi rút
là không có thuốc chữa, biện pháp chính là phòng bệnh: Sử dụng củ
giống sạch bệnh; luân canh khoai tây với lúa nước; sử dụng phân chuồng
hoai mục, bón vôi bột khi trồng. Diệt trừ tác nhân truyền bệnh như các
loại rệp, bọ phấn. Phát hiện sớm cây bệnh nhổ bỏ và tiêu huỷ. Bón đầy
đủ dinh dưỡng, tưới đủ ẩm giúp cây sinh trưởng khoẻ tăng khả năng đề
kháng bệnh.

×