MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................3
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu ......................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................9
5. Lý thuyết nghiên cứu .......................................................................................10
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ...............................................10
7. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................11
9. Bố cục của luận văn .........................................................................................13
Chương 1 ..................................................................................................................14
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .....................................................................14
1.1. Các khái niệm liên quan ...............................................................................14
1.1.1. Quản lý văn hóa .......................................................................................14
1.1.2. Nghệ thuật biểu diễn ................................................................................17
1.1.3. Âm nhạc ....................................................................................................17
1.1.4. Âm nhạc dân tộc .......................................................................................19
1.1.5. Biểu diễn âm nhạc dân tộc .......................................................................22
1.2. Các đơn vị biểu diễn âm nhạc dân tộc tại thành phố Hồ Chí Minh ........25
1.2.1. Nhà hát Ca múa nhạc dân tộc Bông Sen ..................................................25
1.2.2. Dàn nhạc dân tộc Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh .............................29
1.2.3. Một số nhóm nhạc dân tộc tại Thành phố Hồ Chí Minh ..........................31
1.3. Vai trò của biểu diễn âm nhạc dân tộc trong đời sống xã hội ở thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay .........................................................................................37
1.3.1. Biểu diễn âm nhạc dân tộc góp phần đáp ứng nhu cầu giải trí của xã hội
............................................................................................................................37
1.3.2. Chất lượng sản phẩm âm nhạc dân tộc có tác dụng giáo dục thẩm mỹ,
hoàn thiện nhân cách con người ........................................................................38
1.3.3. Phát triển lĩnh vực biểu diễn âm nhạc dân tộc góp phần giải quyết mối
quan hệ biện chứng giữa văn hóa và kinh tế......................................................39
1.3.4. Phát triển biểu diễn âm nhạc dân tộc theo hướng phát triển bền vững là
con đường để hiện đại hóa nền văn hóa dân tộc và hội nhập quốc tế ...............40
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................42
Chương 2 ..................................................................................................................43
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN ÂM NHẠC ...................................43
DÂN TỘC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................................................43
2.1. Thực trạng công tác quản lý ........................................................................43
2.1.1. Nhà hát Ca múa nhạc Bông Sen...............................................................43
2.1.2. Dàn nhạc dân tộc Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh .............................49
2.1.3. Một số nhóm ca - nhạc dân tộc ................................................................54
2.2. Thực trạng hoạt động ...................................................................................59
2.2.1. Nhà hát Bông Sen .....................................................................................60
2.2.2. Dàn nhạc dân tộc Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh .............................73
2.2.3. Một số nhóm ca - nhạc dân tộc ................................................................81
2.3. Đánh giá chung .............................................................................................86
2.3.1. Ưu điểm ....................................................................................................86
2.3.2. Tồn tại và nguyên nhân cần khắc phục ....................................................88
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................91
Chương 3 ..................................................................................................................92
GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ....................................92
BIỂU DIỄN ÂM NHẠC DÂN TỘC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........92
3.1. Phương hướng phát triển hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc tại thành
phố Hồ Chí Minh .................................................................................................92
3.1.1. Chủ trương, chính sách về nâng cao năng lực quản lý văn hóa đối với
hoạt động biểu diễn âm nhạc nói chung tại thành phố Hồ Chí Minh ................92
3.1.2. Một số định hướng xây dựng và phát triển hoạt động biểu diễn âm nhạc
dân tộc tại thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................95
3.2. Các giải pháp phát triển biểu diễn âm nhạc dân tộc tại Tp. Hồ Chí Minh....97
3.2.1. Vấn đề nhận thức ......................................................................................97
3.2.2. Cơ chế, chính sách .................................................................................106
3.2.3. Các giải pháp đặc thù cho từng đơn vị biểu diễn âm nhạc dân tộc tại
thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................................113
Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................120
KẾT LUẬN ............................................................................................................121
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................123
PHỤ LỤC ...............................................................................................................129
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam vốn có nền âm nhạc truyền thống vơ cùng độc đáo, phong
phú và đa dạng. Các loại hình âm nhạc như nhã nhạc cung đình Huế, Quan họ, Ca
trù, Hát xoan, Đờn ca Tài tử, Ví Giặm Nghệ - Tĩnh... đã được UNESCO cơng nhận
là “di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”. Thế nhưng, thực tế cho thấy
âm nhạc truyền thống nói chung và các di sản âm nhạc nêu trên nói riêng vẫn ít
người xem, người nghe, đặc biệt là giới trẻ. Ở nước ta hiện nay nói chung và Thành
phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) nói riêng, khán thính giả đến với âm nhạc dân tộc là
lớp người lớn tuổi, hoặc một số ít những người sống trong gia đình có truyền thống
u âm nhạc dân tộc còn lại đa số thanh thiếu niên, lớp thế hệ trẻ của xã hội tương
lai đều chuộng trào lưu nhạc ngoại, nhạc nhẹ.
Trong bối cảnh như vậy, tại Tp. HCM đang có nhiều đơn vị, cá nhân nỗ lực
hết mình trong việc gìn giữ, bảo tồn và phát triển biểu diễn âm nhạc dân tộc. Đó là
các hình thức làm mới mẽ âm nhạc dân tộc, không thể hiện nguyên xi các thể loại
âm nhạc cổ truyền như Đờn ca Tài tử, Ca Huế, Ca Trù v.v… mà đổi mới. Hình thức
biểu diễn, sử dụng nhạc khí dân tộc được trình diễn với những tác phẩm mới sáng
tác, các tác phẩm âm nhạc dân ca đương đại, thể hiện các ca khúc mang âm hưởng
dân ca trên nền hồ âm nhạc nhẹ; trình diễn độc tấu, hoà tấu nhạc cụ dân tộc, kết
hợp ca nhạc (tạm gọi là “nhạc dân tộc cải biên”1 hay “âm nhạc dân tộc mới”). Ở
hoạt động này, trước tiên phải kể đến nhà hát Ca múa nhạc dân tộc Bông Sen (gọi
Thuật ngữ “Nhạc Dân tộc cải biên” được PGS. TS. Vũ Nhật Thăng chính thức nêu
lần đầu tiên trong bài viết “Nhạc Cải biên” (tạp chí Nghiên cứu Văn hố Nghệ Thuật số 31988, tr.24-28) nhằm nói đến một thể loại âm nhạc được hình thành vào nửa sau thế kỷ
XX, có nhiều yếu tố cải cách, biến đổi từ âm nhạc dân tộc ở nhiều phương diện, nhưng chủ
yếu là từ những sáng tác - chuyển soạn, chuyển biên viết cho nhạc khí dân tộc, sự cải tiến
nhạc khí dân tộc để có thể diễn tấu những tác phẩm mới, với tư duy, khuynh hướng cải
cách âm nhạc dân tộc, nhằm mục đích làm mới di sản âm nhạc cổ truyền theo khuynh
hướng “tiên tiến”, “hiện đại” hoá.
1
2
tắt là nhà hát Bơng Sen) do Sở Văn hố và Thể thao (VH&TT) Tp. HCM quản lý và
dàn nhạc Dân tộc thuộc Nhạc viện Tp. HCM. Ngoài ra, loại hình này cịn được thực
hiện bởi các nhóm nhạc dân tộc khác như: Đồn nhạc gõ Phù Đổng, Nhóm Mặt trời
Đỏ, Mặt trời Mới, Giao Thời, Hoa Mai… và các nhóm nhạc dân tộc của các nghệ sĩ
biểu diễn tại các khu du lịch, tụ điểm, phòng trà nhạc sống (“acoustic”). Họ đã tạo
ra những hoạt động ca nhạc dân tộc phục vụ cho đời sống văn hoá người dân Tp.
HCM. Đơi khi, các đội nhóm nhạc dân tộc này cịn đóng vai trị đại diện hoạt động
âm nhạc dân tộc của thành phố trong các liên hoan âm nhạc phạm vi cả nước hay
mang tính quốc tế. Họ cịn tổ chức dàn dựng các chương trình độc tấu, hồ tấu nhạc
cụ, các tiết mục đệm cho hát, múa bằng nhạc cụ dân tộc phục vụ nhiệm vụ chính trị
của Tp. HCM.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hoạt động của các đơn vị, nhóm âm
nhạc dân tộc đã khơng cịn sơi nổi, nhiều nhóm nhạc thành lập rồi giải tán, nhiều
nhóm hoạt động theo các nhà hàng – quán nhậu, một số nghệ sĩ hoạt động cầm chừng
theo kiểu “đánh thuê” hoặc cho thuê nhạc cụ dân tộc. Chưa kể, với điều kiện hiện
nay, nhờ vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, đặc biệt là
mạng tồn cầu (internet) người dân trong nước có nhiều cơ hội và dễ dàng tiếp xúc
với các dòng nhạc mới, lạ, của nhiều nước khác nhau trên thế giới nên âm nhạc dân
tộc khơng cịn là chọn lựa thường xun. Âm nhạc trở thành “món” giải trí với nhiều
lựa chọn thì bất cứ loại âm nhạc nào cũng có thể trở thành mục đích để nhà sản xuất
đầu tư tìm lợi nhuận và ngược lại, sự thiếu đầu tư cho chất lượng nghệ thuật, chỉ chạy
theo lợi nhuận cũng có thể mang đến sự biến dạng hoặc mai một của một dòng âm
nhạc, thể loại âm nhạc nào đó cho dù nó có giá trị cao về tư tưởng, giáo dục, giá trị
nghệ thuật hoặc thậm chí có thể là một đại diện cho bản sắc văn hoá dân tộc.
Âm nhạc dân tộc thể hiện truyền thống văn hoá, hàm chứa những quy chuẩn
truyền thống, đạo đức xã hội, những bài học giáo dục, bài học của truyền thống dân
tộc, là chất keo kết nối những thành viên trong cộng đồng gắn bó với nhau, với truyền
thống dân tộc và tình yêu quê hương, đất nước. Hơn nữa, âm nhạc dân tộc chứa trong
nó những giá trị nghệ thuật đã được tích luỹ từ nhiều thế hệ, tồn tại với truyền thống
3
văn hoá dân tộc. Bảo tồn âm nhạc dân tộc phải được thực hiện trong yêu cầu “phát
huy” những giá trị của nó trong đời sống đương đại và như vậy, âm nhạc dân tộc mới
tồn tại bền vững trong lòng mọi người cũng như trong đời sống nhộn nhịp, sôi nổi và
luôn biến đổi của một thành phố năng động như Tp. HCM.
Có thể nói, sự tồn tại của một loại hình nghệ thuật khơng phải hồn tồn tuỳ
thuộc vào thị hiếu người xem mà còn chịu sự tác động của cơng tác quản lý văn hố
(QLVH). Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, đã có thời kỳ mà thể loại âm nhạc này
phát huy rất tốt trong đời sống âm nhạc của người dân, đóng góp cho hoạt động đối
ngoại, giới thiệu văn hoá Việt Nam ra quốc tế, tham gia quảng bá hình ảnh Việt Nam
ở các mặt chính trị, kinh tế, văn hố. Do vậy, khơng thể hồn tồn phó mặt cho sự
“điều tiết” của kinh tế thị trường hoặc chạy theo thị hiếu của công chúng. Trong quản
lý, tổ chức hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc này cần có những nghiên cứu để đưa
ra những giải pháp hỗ trợ cho công tác quản lý hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc
theo mô hình mới tại Tp. HCM. Có thể, đây là cách góp phần bảo tồn cũng như phát
huy tốt di sản văn hoá âm nhạc dân tộc trong tương lai.
Là người đang công tác tại Nhạc viện Tp. HCM, nơi đào tạo âm nhạc chuyên
nghiệp, trong đó có đào tạo nghệ sĩ biểu diễn nhạc cụ dân tộc, bản thân tôi có nhiều
cơ hội tiếp cận và mong muốn được đóng góp vào sự phát triển chung của ngành
cũng như thực hiện nhiệm vụ học tập, nên học viên mạnh dạn chọn đề tài “Hoạt động
biểu diễn âm nhạc dân tộc tại Thành phố Hồ Chí Minh”. Thơng qua việc làm rõ
những ảnh hưởng của mơ hình biểu diễn âm nhạc dân tộc đối với công chúng, thực
trạng hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc tại Tp. HCM trong xu hướng giao lưu, hội
nhập; hy vọng tìm ra những giải pháp thiết thực, hướng đến mục tiêu nâng cao công
tác quản lý văn hóa nói chung, âm nhạc dân tộc nói riêng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc theo
mơ hình “nhạc dân tộc mới” tại Tp. HCM, luận văn đưa ra các giải pháp nâng cao
4
hiệu quả quản lý góp phần bảo tồn âm nhạc dân tộc trong đời sống văn hóa ở Tp.
HCM hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu các loại hình biểu diễn âm nhạc dân tộc mới (cải biên), chức
năng và vai trò của hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc trong đời sống.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc mới (cải biên)
tại Tp. HCM, thông qua 02 tổ chức biểu diễn âm nhạc dân tộc, đó là nhà hát Bông
Sen và dàn nhạc Dân tộc Nhạc viện Tp. HCM cũng như hoạt động của một số nhóm
ca - nhạc dân tộc đang hoạt động tại Tp. HCM.
- Chỉ ra những tồn tại trong biểu diễn âm nhạc dân tộc tại Tp. HCM từ góc
nhìn quản lý văn hố.
- Đề xuất giải pháp quản lý góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động biểu diễn
âm nhạc dân tộc tại Tp. HCM hiện nay.
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều cơng trình về vấn đề quản lý, cơng tác quản lý, bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa phi vật thể nói chung, trong đó đã có rất nhiều nghiên cứu về âm
nhạc, những nghiên cứu, sưu tầm bài bản, thu âm, ký âm, chụp ảnh, quay phim… để
lưu giữ những thể loại âm nhạc cổ truyền, âm nhạc dân tộc. Những đề tài liên quan
đến lĩnh vực này thường được mở rộng ở hướng nghiên cứu về thị hiếu âm nhạc,
nhu cầu thưởng thức hoặc đào tạo âm nhạc. Ngồi ra cịn có các nghiên cứu chun
sâu về các thể loại âm nhạc cổ truyền còn được lưu giữ hiện nay như Đờn ca Tài tử,
Ca Huế, ca Trù… và đặc biệt là các bài báo, tham luận, nghị quyết, các kỷ yếu hội
thảo khoa học hoặc khóa luận quan tâm đến Quản lý hoạt động biểu diễn âm nhạc
dân tộc, hoạt động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cũng như âm nhạc
dân tộc. Có thể tập hợp thành các nhóm tài liệu nghiên cứu như sau như:
5
3.1. Những văn bản pháp quy thể hiện quan điểm của Đảng, nhà nước về
bảo tồn và phát huy di sản âm nhạc truyền thống trong thời đại hiện nay
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII), số 03-NQ/TW, ngày 16 tháng 7 năm 1998, về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Bộ chính trị (2008), Nghị quyết số 23-NQ/TW về tiếp tục xây dựng phát triển
văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng Sản Việt Nam (2014), Nghị quyết số
33-NQ/TW ngày 9/6/2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã nhấn mạnh: xây dựng nền văn hóa
và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần
tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Nghị Quyết Trung ương IX (khóa XI), (2014) về “Xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước”.
Nghị định 79/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2012 quy định về biểu diễn nghệ
thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh ghi âm,
ghi hình ca múa nhạc sân khấu, trong đó tại chương 2 của Nghị định quy định chi tiết
về biểu diễn nghệ thuật (từ điều 8 đến điều 16).
Nghị định 15/2016/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2016 về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định 79/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ quy
định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu
hành, kinh doanh ghi âm, ghi hình ca múa nhạc sân khấu.
Trên đây là những văn bản xác lập quan điểm, định hướng cho các chính sách
về xây dựng nền văn hoá Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Trong đó,
có những nhận định về thực trạng đời sống văn hoá - xã hội Việt Nam sau “Đổi
mới” cũng như những định hướng, chỉ đạo của Đảng. Mặt khác, các văn bản cũng
thể hiện rõ những quan điểm, định hướng chỉ đạo về việc bảo tồn và phát huy nền
âm nhạc truyền thống dân tộc Việt Nam trong giai đoạn mới.
6
3.2. Những cơng trình nghiên cứu về việc đưa âm nhạc dân tộc vào đời
sống nhằm bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc
Tại Nhạc viện TP. HCM, trong nhiều năm đã có khá nhiều luận nghiên cứu
về vấn đề âm nhạc dân tộc, đưa âm nhạc dân tộc vào trường phổ thông v.v... như:
luận văn cao học “Thị hiếu thẩm mỹ âm nhạc của học sinh trung học phổ thông tại
TP. HCM - trường hợp 2 trường Trung học cơ sở tại TP. HCM” (2008) của Trần
Thanh Hải, chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học Âm nhạc; luận văn cao
học “Đồng dao và giáo dục Mầm non” của Hà Thị Hương Lan (2015), “Dân ca
Nam Bộ cho chuyên ngành giáo dục mầm non tại trường Cao đẳng Sư phạm Cà
Mau” (2015) của Lê Thị tuyết Đào, luận văn “Đưa âm nhạc dân gian Khmer vào
chương trình dạy nhạc cho sinh viên sư phạm mầm non tại Đại học Trà Vinh” của
Nguyễn Thị Kim Biên hoặc “Thể nghiệm dạy nhạc cụ dân tộc ngoại khoá tại trường
THCS Đồng Khởi – TP. HCM” (2017) của Nguyễn Thị Ái Thuỷ (2017)... là những
khóa luận đề cập đến vấn đề thưởng thức và thị hiếu âm nhạc cũng như bàn đến việc
đưa âm nhạc vào giới trẻ từ môi trường giáo dục, trường đại học và trường trung học
và thậm chí khá sớm - từ lứa tuổi mầm non. Đây là những luận văn chuyên ngành Lý
luận và phương pháp dạy học Âm nhạc nên phù hợp với mã số chuyên ngành, chủ
yếu bàn đến các vấn đề liên quan đến phương pháp, đưa nội dung âm nhạc dân tộc
vào giáo dục âm nhạc không phải nghiên cứu từ góc nhìn quản lý văn hóa.
3.3. Những nghiên cứu từ góc nhìn của chun ngành Quản lý văn hố
Những tài liệu liên quan đến hoạt động quản lý văn hố (QLVH) trong và
ngồi nước đóng vai trị lý thuyết cho luận văn, những tài liệu nghiên cứu về lý
thuyết chuyên ngành QLVH, đặt vấn đề trực tiếp đến lý thuyết cũng như phương
pháp và thực tiễn QLVH hoá tại Việt Nam, trong đó có đề cập đến quản lý văn hố
(QLVH) cũng như chính sách văn hố nói chung và chính sách văn hố tại Việt
Nam nói riêng điển hình như:
- Nguyễn Văn Tình (2009), Chính sách văn hóa trên thế giới và việc hồn
thiện chính sách văn hóa ở Việt Nam, NXB Văn hóa - Thơng tin. Với rất nhiều
7
thơng tin về các mơ hình chính sách văn hố các nước trên thế giới từ đó đưa ra
những kiến nghị, giải pháp cho vấn đề hồn thiện chính sách văn hố Việt Nam.
- Phan Hồng Giang, Bùi Hồi Sơn (đồng chủ biên) (2014), Quản lý văn hóa
Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, là
tài liệu nghiên cứu cơng phu của nhóm tác giả Việt Nam về QLVH và những vấn đề
thực hiện hoạt động QLVH trong điều kiện thực tế Việt Nam hiện nay.
- Giáo trình “Chính sách văn hoá” do tác giả Lương Hồng Quang chủ biên
(dành cho Học viên cao học), Viện Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam, năm 2014 là một
trong những tài liệu lý thuyết hiếm hoi bằng tiếng Việt về lĩnh vực chính sách văn
hoá. Đây là một trong những tài liệu chuyên ngành QLVH mang đến cho người học,
nghiên cứu những kiến thức cơ bản về QLVH, lý thuyết về chính sách văn hố cũng
như về một số bài học chính sách văn hoá của các nước.v.v..
Một số Luận văn tốt nghiệp cao học có góc nhìn từ chun ngành Quản lý
văn hố đối với các thể loại âm nhạc dân tộc như: luận văn "Nghệ nhân Đờn ca Tài
Tử Nam Bộ - Thực trạng và giải pháp” của Phạm Thái Bình (2015) nghiên cứu âm
nhạc dân tộc từ chủ thể sáng tạo (nghệ nhân) hay “Đờn ca Tài tử- Cải Lương trên
sóng Đài phát thanh và Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh” (2017) của
Nguyễn Văn Nam bàn đến hoạt động biểu diễn - truyền bá cũng như đưa ra nhận
định cần bảo tồn di sản âm nhạc dân tộc trên các phương tiện của hệ thống truyền
thanh Đại chúng tại TP. HCM. Một số luận văn, nghiên cứu khác cũng có hướng
nghiên cứu đến vấn đề quản lý văn hố - âm nhạc dân tộc nhưng phần lớn tập trung
ở thể loại Đờn ca Tài tử, nhất là từ sau khi loại hình nghệ thuật dân tộc này được
phong “Di sản phi vật thể đại diện của nhân loại” (năm 2013).
Các luận văn nghiên cứu về hoạt động biểu diễn chuyên ngành quản lý văn
hóa âm nhạc nói chung, thuộc Đại học Văn hố Tp. HCM cịn có: “Hoạt động biểu
diễn âm nhạc kinh viện tại Thành phố Hồ Chí Minh” của Huỳnh Thị Ngọc Phượng;
“Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại Trung tâm văn hoá tỉnh Vĩnh Long”
của Lê Đức Tuyên hoặc “Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại các cơ sở kinh
doanh dịch vụ trên địa bàn quận 2” của Quách Văn Chung (đều thuộc Khoá 5,
8
2015-2017). Đối tượng nghiên cứu của các luận văn này là vấn đề tổ chức quản lý
âm nhạc kinh viện (tại Tp. HCM) hoặc quản lý nghệ thuật biểu diễn nghệ thuật (tại
một địa phương cụ thể) nói chung.
Ngồi ra, bàn về âm nhạc dân tộc tại Tp. HCM còn có các bài viết, tham luận
hội thảo khác, như:
- Tham luận “Vài thiển nghĩ về đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp tại Thành phố
Hồ Chí Minh”, hội thảo do báo điện tử “Giai điệu xanh” tổ chức, tháng 7 năm 2005
và tham luận “Đào tạo âm nhạc Hàn lâm, nhạc dân tộc – vấn đề cần làm ngay” trong
Hội thảo khoa học “Đời sống văn học - nghệ thuật Tp. HCM trong giai đoạn hội
nhập”, Sở Văn hóa Thơng tin - Ban Văn hóa tư tưởng Thành Ủy TP. HCM, tháng
11/2007 là hai bài tham luận của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Liêm bàn đến vấn đề tác
dụng của âm nhạc trong giáo dục nhân cách con người và sự cần thiết phải đào tạo
những người làm âm nhạc chuyên nghiệp, trong đó có âm nhạc dân tộc.
Bên cạnh đó cịn có các bài viết trong kỷ yếu hội thảo đề cập đến phát triển
ngành âm nhạc truyền thống như:
- Năm 2004 Vụ Đào Tạo Bộ Văn Hóa - Thơng Tin, Viện Âm nhạc có tập kỷ
yếu hội thảo khoa học“ Phát triển âm nhạc truyền thống ý nghĩa văn hóa và thành
tựu nghệ thuật”
- Năm 2013, Trung tâm nghiên cứu, bảo tồn và phát huy âm nhạc dân tộc có
kỷ yếu hội thảo khoa học “Âm nhạc dân tộc với cuộc sống hôm nay”.
- Năm 2014, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ xuất bản kỷ yếu hội thảo
“Bản sắc dân tộc trong đời sống văn hóa, nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh q
trình hội nhập quốc tế hiện nay”.v.v..
Có thể nói, những luận văn, khóa luận hay bài viết, bài tham luận nêu trên chỉ
là một số trong rất nhiều bài viết về vấn đề quản lý, đào tạo, thưởng thức âm nhạc, thị
hiếu thưởng thức âm nhạc nói chung và âm nhạc dân tộc nói riêng. Trong đó có một
số bài tham luận đã đưa ra những hạn chế, bất cập trong đầu tư, tổ chức hoạt động
biểu diễn, quản lý, đào tạo đối với âm nhạc dân tộc Tp. HCM. Tuy nhiên, vấn đề vai
trị của quản lý văn hóa trước thực trạng hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc mới tại
9
Tp. HCM một cách đầy đủ, tập trung hoặc những nghiên cứu về biểu diễn âm nhạc
dân tộc thông qua hoạt động biểu diễn chuyên nghiệp của Nhà hát Ca Múa nhạc dân
tộc Bơng Sen hay các đội nhóm âm nhạc dân tộc theo phong cách mơ hình mới gần
như chưa được quan tâm. Cũng như vậy, hiện nay, chưa có cơng trình nào nghiên
cứu, đề xuất, kiến nghị cũng như giải pháp thấu đáo đối với biểu diễn âm nhạc dân
tộc hoặc bàn về vấn đề biểu diễn âm nhạc dân tộc tại Tp. HCM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý và tổ chức hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc mới (cải biên) tại
Tp. HCM.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc
tại Tp. HCM bằng việc lựa chọn trường hợp nghiên cứu hoạt động biểu diễn thể
loại nhạc mới sáng tác của các dàn nhạc, nhóm nhạc dân tộc mà chủ yếu là Nhà
hát ca múa nhạc dân tộc Bông Sen, dàn nhạc dân tộc Nhạc viện Tp. HCM và một
số nhóm nhạc dân tộc hoạt động trên địa bàn thành phố. Việc chọn 02 đơn vị nêu
trên là do những hoạt động biễu diễn được sự quản lý của Nhạc viện Tp. HCM
(mơ hình thực hành chun mơn trong cơng tác đào tạo) và Sở VH&TT Tp. HCM
(mơ hình biểu diễn theo nhiệm vụ chính trị, chuyên nghiệp), quy mơ lớn, có kế
hoạch thực hiện cụ thể chịu sự quản lý nhà nước. Ngoài ra, do đặc thù của thể loại
âm nhạc cũng như tính chất chun mơn của âm nhạc dân tộc, luận văn sẽ bàn đến
một số nhóm nhạc dân tộc đã và đang hoạt động biểu diễn tại TP. HCM. Mặt
khác, Tp. HCM có một đời sống âm nhạc phong phú, đa dạng và rất sôi nổi, nhiều
thể loại âm nhạc dân tộc vẫn tồn tại dù có xuất phát từ các vùng miền khác nhau
(như Ca Trù - miền Bắc, Ca Huế - miền Trung, Ví Giặm vùng Nghệ An - Hà
Tĩnh.v.v..) và đặc biệt là hoạt động của nghệ thuật Đờn ca Tài tử tại Tp. HCM.
Tuy nhiên, tất cả các hoạt động âm nhạc, sinh hoạt âm nhạc… liên quan đến các
thể loại này không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn do tính đặc thù của thể
10
loại, do hình thức thể hiện, cũng như quản lý, mơ hình hoạt động có những u
cầu, điều kiện, thực tế hoạt động riêng.
Về thời gian: luận văn tập trung khảo sát hoạt động tổ chức biểu diễn giai
đoạn từ 2015 - 2017, bởi đây là khoảng thời gian tổ chức biểu diễn âm nhạc tại Tp.
HCM phát triển, các đơn vị của nhà nước quản lý bắt đầu được giao tự chủ tài chính
một phần, thêm vào đó là việc các nhóm nhạc dân tộc hoạt động tại Tp. HCM sơi
nổi, nhiều nhóm được thành lập mới, tan rã hoặc tái lập. Số liệu khảo sát trong 03
năm là khoảng thời gian phù hợp cho nghiên cứu, có thể kết hợp việc khảo sát thực
tế với việc so sánh những số liệu của thời gian trước đây.
5. Lý thuyết nghiên cứu
Với đề tài “Hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc tại thành phố Hồ Chí
Minh”, luận văn vận dụng các lý luận của bộ môn quản lý văn hóa nghệ thuật, văn
hóa học, tâm lý học nghệ thuật, nghệ thuật học để nghiên cứu, thực hiện. Ngoài ra,
luận văn còn áp dụng các thuyết nghiên cứu như: thuyết chức năng, thuyết cấu trúc.
Dựa vào lý thuyết chức năng, luận văn áp dụng trong việc nghiên cứu nhiệm
vụ tổ chức triển khai hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc đối với đời sống tinh thần
của người dân Tp. HCM hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn cũng có thể dùng lý thuyết
cấu trúc để phân tích hình thức tổ chức, cấu trúc của hoạt động tổ chức biểu diễn âm
nhạc dân tộc, tìm ra những điểm yếu, tồn tại về nội dung, hình thức, cơ cấu tổ chức,
chủ thể sáng tạo nghệ thuật, trước những tác động của kinh tế thị trường ảnh hưởng
đến kết quả của hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc tại Tp. HCM trong giai đoạn
hiện nay.
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
6.1. Câu hỏi nghiên cứu:
- Hoạt động biểu diễn “Âm nhạc dân tộc” tại Tp. HCM gồm những thể loại
nào? Chức năng, tác dụng của hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc mới (cải biên),
của các tổ chức biểu diễn âm nhạc dân tộc mới (cải biên) trong đời sống âm nhạc
Tp. HCM hiện nay?
11
- Thực trạng hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc mới (cải biên) tại Tp.
HCM hiện nay như thế nào?
6.2. Giả thuyết nghiên cứu
Hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc tại Tp. HCM do nhiều đơn vị thực hiện
với nhiều tác phẩm khác nhau, phong phú về nội dung, đa dạng về thể loại biểu diễn.
Hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc mang tính cải biên của các tổ chức biểu diễn âm
nhạc dân tộc đã đáp ứng mọi nhu cầu trong đời sống âm nhạc của cơng chúng tại Tp.
HCM hiện nay. Trên thực tế, có thể hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc tại Tp.
HCM có nhiều bước tiến mới và đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên ở lĩnh
vực biểu diễn này cũng gặp khơng ít khó khăn, tồn tại cần được khắc phục.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc Tp. HCM nhằm tìm
hiểu thực trạng và đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động biểu diễn âm nhạc dân
tộc mới tại Tp. HCM, luận văn áp dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như:
* Phương pháp nghiên cứu định tính
Thực hiện thơng qua các hoạt động như phỏng vấn trực tiếp các chủ thể hoạt
động trong lĩnh vực âm nhạc dân tộc như: quản lý, tổ chức biểu diễn, diễn viên... tác
giả sử dụng các phương pháp cụ thể là:
- Trực tiếp tham dự, quan sát: Đây là phương pháp để thu thập thông tin.
Thực hiện phương pháp này người nghiên cứu sẽ tham gia trực tiếp các buổi biểu
diễn âm nhạc dân tộc do các đơn vị trực tiếp thực hiện tại các địa điểm trong thành
phố (Tại nhà hát, tại các điểm biểu diễn khác) cho khán giả xem. Thông qua hoạt
động quan sát để thấy được sự quan tâm của công chúng (người dân thành phố và
khách du lịch tỏng, ngoài nước) đối với loại hình biểu diễn này. Từ đó cũng cho
thấy các ảnh ảnh hưởng của âm nhạc dân tộc với với thế hệ trẻ ở Tp. HCM. Từ đó
người nghiên cứu hiểu được thực tế về cách quản lý, tổ chức biểu diễn, trên cơ sở
đó đề xuất những giải pháp hợp lý có tính khả thi, phù hợp.
- Phỏng vấn sâu: là phương pháp quan trọng đối với người nghiên cứu khi
thực hiện đề tài vì kết quả của phương pháp mang lại nhiều thông tin, phục vụ trực
12
tiếp và là số liệu cho nghiên cứu. Phương pháp này dùng để tìm hiểu đánh giá cơng
tác quản lý hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc. Đề tài tập trung phỏng vấn các cán
bộ quản lý hoạt động biểu diễn ở các đơn vị biểu diễn âm nhạc dân tộc tại Tp. HCM.
Cụ thể đề tài thực hiện 10 phỏng vấn sâu tại nhà hát Bông Sen; thực hiện 10 phỏng vấn
sâu tại Dàn nhạc Dân tộc, Học Viện Âm nhạc quốc gia Tp. HCM… Các thông tin
phỏng vấn được sử dụng làm minh chứng cho các luận điểm mà tác giá đưa ra trong
từng nội dung tại chương 2 của luận văn.
- Phương pháp thống kê, so sánh, tổng hợp số liệu: Đây là phương pháp
nhằm đem lại lượng thông tin đầy đủ, tổng hợp số liệu từ các năm để từ đó tác giả
so sánh với buổi biểu diễn âm nhạc khác để có những kết luận cần thiết về vấn đề
nghiên cứu.
- Từ những phân tích cụ thể luận văn sẽ đưa ra những định hướng và các giải
pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc tạo Tp.
HCM, góp phần bảo tồn, phát huy tốt di sản văn hố phi vật thể nói chung và âm
nhạc dân tộc nói riêng.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
8.1. Ý nghĩa khoa học
- Luận văn bảo vệ thành công sẽ là một cơng trình khoa học có thể làm tài
liệu tham khảo giúp cho các nhà quản lý văn hóa hoạch định chủ trương, chính sách,
định hướng phát triển âm nhạc trong thời gian tới.
- Những đề xuất những giải pháp nhằm phát triển hoạt động biểu diễn âm
nhạc dân tộc tại Tp. HCM trong tương lai.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn giúp cho học viên cũng như những người làm cơng tác quản
lý âm nhạc nói chung và âm nhạc dân tộc nói riêng những thơng tin, số liệu đáng
tin cậy, những nhận định, những đánh giá và rút ra những bài học kinh nghiệm.
- Luận văn đưa ra những đánh giá, nhận định thực tiễn hoạt động biểu
diễn âm nhạc dân tộc và đưa giải pháp về quản lý hoạt động biểu diễn Tp. HCM
13
nhằm phát triển công chúng đến với thể loại âm nhạc; những đề xuất nhằm thúc
đẩy sự phát triển hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc.
9. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về quản lý văn hoá - nghệ thuật âm nhạc, chức
năng, vai trò của âm nhạc trong đời sống tinh thần của người dân Tp. HCM và tổng
quan về hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc(cải biên) tại Tp. HCM hiện nay. Với
chương này, luận văn đưa ra các khái niệm chính liên quan đến nội dung nghiên
cứu; trình bày về nghệ thuật, loại hình biểu diễn của âm nhạc dân tộc, vai trò của
biểu diễn âm nhạc dân tộc trong đời sống xã hội hiện nay.
Chương 2: Thực trạng hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc tại Tp. HCM. tập
trung phân tích các nội dung cụ thể như: Tổ chức và cơ chế quản lý hoạt động biểu
diễn âm nhạc dân tộc ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay; Các hoạt động biểu diễn âm
nhạc dân tộc ở thành phố Hồ Chí Minh được triển khai thơng qua 02 khía cạnh: Xây
dựng kế hoạch hoạt động hàng năm của từng đơn vị biểu diễn âm nhạc dân tộc; Tổ
chức thực hiện hoạt động biểu diễn. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực tế hoạt
động biểu diễn âm nhạc, luận văn rút ra ưu điểm, tồn tại cần khắc phục trong thời
gian tới.
Chương 3: Giải pháp phát triển nâng cao hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc
tại Tp. HCM. Luận văn sẽ rút ra những bài học kinh nghiệm, trình bày những định
hướng của nhà nước đối với sự nghiệp phát triển ngành âm nhạc dân tộc, định
hướng của Tp. HCM đối với các hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc. Từ đó, đề
xuất các giải pháp gắn với thực tế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động biểu diễn
nhằm góp phần vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ
hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế.
14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1. Quản lý văn hóa
Khái niệm “Quản lý văn hóa” (QLVH) , là cách gọi tắt của cụm từ “quản lý
nhà nước về văn hố”, có thể được hiểu như sau:
QLVH là công việc của Nhà nước được thực hiện thông qua việc ban hành,
tổ chức thực hiện, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật trong lĩnh vực văn hóa, đồng thời nhằm góp phần phát triển kinh tế, xã hội của
từng địa phương nói riêng, cả nước nói chung.
Ngồi ra, QLVH còn được hiểu là sự tác động chủ quan bằng nhiều hình
thức, phương pháp của chủ thể quản lý (ở nước ta là các cơ quan Đảng, Nhà nước,
đoàn thể, các cơ cấu dân sự, các cá nhân được trao quyền và trách nhiệm quản lý)
đối với khách thể (là mọi thành tố tham gia và làm nên đời sống văn hóa) nhằm
đạt được mục tiêu mong muốn (bảo đảm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
nâng cao vị thế quốc gia, cải thiện chất lượng sống của người dân…).
QLVH ở nước ta là việc thực thi công tác quản lý từ Trung ương đến địa
phương đối với các hoạt động văn hoá nhằm xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. QLVH ở nước ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng, bao gồm những nội dung chính sau đây:
Xác lập hệ quan điểm chủ đạo (hệ tư tưởng chính trị, kinh tế, xã hội, đạo đức),
những nguyên tắc cơ bản xây dựng và phát triển văn hóa - là cơ sở của việc xác lập
nội dung và phương thức quản lý văn hóa (trong các văn kiện chính thức của Đảng,
Hiến pháp, trong Chiến lược phát triển văn hóa của Chính phủ). QLVH bao gồm việc
xây dựng quy hoạch, kế hoạch, xây dựng hành lang pháp lý (bao gồm luật, các cơ
chế); xây dựng các chính sách (nhằm khuyến khích sáng tạo, bảo đảm cho sự phát
triển của nền văn hố của đất nước): chính sách kinh tế trong văn hố - văn hố trong
kinh tế, chính sách xã hội hố hoạt động văn hố, chính sách thành lập các quỹ hỗ trợ
15
phát triển văn hoá và tài trợ của các nước, các tổ chức quốc tế cho văn hoá; đào tạo
cán bộ quản lý và thanh tra xử lý vi phạm trên lĩnh vực văn hố. [30, tr. 28].
Nói cách khác, QLVH bắt đầu bằng việc xây dựng bộ máy tổ chức, tập hợp
đội ngũ cán bộ thực hiện chức năng QLVH từ Trung ương đến địa phương và theo
các lĩnh vực; xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành (bộ, ban, ngành, đoàn thể, cơ cấu
dân sự); xây dựng hệ thống pháp luật (luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư, chỉ thị,
văn bản hướng dẫn, quy chế, quy tắc, quy định); xây dựng hệ thống chính sách trên
từng lĩnh vực (lối sống, nếp sống, văn học - nghệ thuật, di sản văn hóa, văn hóa dân
tộc) và theo địa bàn lãnh thổ (trung ương - địa phương, đô thị - nơng thơn, đồng
bằng - miền núi, trong nước - ngồi nước). Trong hoạch định chính sách, cần lưu ý
đến tầm quan trọng của các chính sách đầu tư phát triển các nguồn lực (đặt biệt là
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực) và phương tiện cho văn hóa. Tiếp theo là việc
tổ chức, thực thi chính sách và ngồi ra, QLVH cịn có cơng tác giám sát, kiểm tra,
khen thưởng và xử lý vi phạm [30, tr.22-26].
Hoạt động văn hóa thực chất là những hoạt động sáng tạo, bảo quản, phân phối
và sử dụng các giá trị văn hóa nhằm mục đích văn hóa con người để làm nền tảng
tinh thần cho sự phát triển xã hội. Đại hội Đảng IX cũng đã khẳng định: “Mọi hoạt
động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển về chính trị, tư tưởng,
trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lịng nhân ái,
khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, lối sống văn hóa, quan hệ hài lịng trong gia đình,
cộng đồng và xã hội” [5].
Trong nội dung học phần “Quản lý hoạt động văn hóa”, khái niệm QLVH như
sau: “Quản lý văn hóa là sự định hướng, tạo điều kiện, tổ chức điều hành cho văn
hóa phát triển khơng ngừng theo hướng có ích cho con người, giúp cho xã hội lồi
người khơng ngừng đi lên” [45, tr.28]. Từ khái niệm đó, ta có thể xác định được
một số đặc điểm của QLVH, đó là: Khái niệm văn hóa rộng, đa nghĩa nên QLVH
khơng chỉ quản lý các vật hữu hình mà cịn quản lý những cái vơ hình như tình cảm
xã hội, tư tưởng con người: Trong định hướng chung của Nhà nước các thành phần
văn hóa là tư nhân, tập thể, đồn thể, xã hội hay quốc gia đều phải hoạt động theo
16
một chuẩn mực thống nhất trên cơ sở pháp luật chung, thơng qua các chính sách văn
hóa xã hội; giá trị các hoạt động văn hóa căn cứ chủ yếu vào tính sáng tạo, giúp con
người vươn lên trước những địi hỏi của xã hội; QLVH khơng được dựa trên lối tư
duy cứng nhắc dập khuôn mà phải dựa trên hồn cảnh cụ thể; Quản lý văn hóa
khơng thể là sự chuyển dịch của mơ hình quản lý kinh tế - xã hội.
Theo Nghị định 103/2009/NĐ-CP đã quy định: Người đứng đầu các cơ quan
nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề
nghiệp, tổ chức xã hội chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động văn hóa, dịch
vụ văn hóa thuộc phạm vi quản lý của của mình.
Quản lý các hoạt động văn hóa chính là một q trình tổng hợp gồm nhiều hoạt
động khác nhau như: Xây dựng kế hoạch, tổ chức, quản lý các chương trình hoạt động
văn hóa ở các đơn vị, cơ quan và các cấp hành chính khác nhau từ cơ sở đến Trung
ương. Đồng thời quản lý những quá trình thực hành của cá nhân và các thiết chế xã hội
trong việc sản xuất, bảo quản, phân phối giao lưu và tiêu dùng những giá trị văn hóa
tinh thần, nhằm giao lưu những tư tưởng, ý nghĩa và những tác phẩm văn hóa của con
người sinh ra và cũng chính là để hồn thiện chất lượng cuộc sống của con người trong
xã hội. Khái niệm này là cơ sở quan trọng để tác giả luận văn vận dụng trong công tác
tổ chức, xây dựng những chương trình, hoạt động văn hóa bổ ích theo đúng chủ trương,
hướng dẫn của cơ quan cấp trên.
Trên cơ sở phân tích khái niệm quản lý văn hóa nêu trên, hoạt động quản lý
âm nhạc dân tộc là việc cơ quan quản lý trực tiếp xác lập các nhiệm vụ cụ thể cần
thực hiện trong lĩnh vực hoạt động biểu diễn âm nhạc dân tộc. Do đó, nội dung quản
lý ở lĩnh vực này bao gồm: Xây dựng kế hoạch hoạt biểu diễn; tổ chức thực hiện
biểu diễn; thực hiện chương trình quảng bá; phát triển cơng chúng; quản lý nguồn
lực (nhân lực, tài chính và cơ sở vật chất). Những nội dung nghiên cứu nêu trên sẽ
được triển khai thành các hoạt động cụ thể tại một số đơn vị biểu diễn âm nhạc dân
tộc ở Tp. HCM hiện nay.
17
1.1.2. Nghệ thuật biểu diễn
Thuật ngữ: Nghệ thuật biểu diễn (NTBD) được hiểu là loại hình nghệ thuật
được nghệ sĩ (chuyên nghiệp hoặc không chuyên) sáng tạo nhằm thể hiện cuộc sống
bằng hình thức trình diễn trên sân khấu trước khán giả xem trực tiếp. NTBD là loại
hình nghệ thuật sử dụng không gian của sân khấu để thể hiện, truyền tải nội dung của
các tác phẩm đến với công chúng. Đây là một lĩnh vực mang tính tổng hợp cao, đa
ngành nghề, liên quan đến nhiều cá nhân, tập thể. Nghệ thuật biểu diễn từ xưa đến
nay đã bao hàm nhiều chức năng, các chức năng này gắn bó hữu cơ, không tách rời,
chúng được thể hiện qua các tác phẩm sân khấu, ca, múa, nhạc. Ở đó, nó vừa đáp ứng
được nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần, vừa góp phần giáo dục tư tưởng, tình cảm,
lối sống của đại bộ phận công chúng; vừa khơi dậy những suy tư của người nghệ sỹ ở
người xem, vừa đem lại cho họ niềm vui trong cuộc sống.
* Các loại hình Nghệ thuật biểu diễn dân tộc
Trong quy chế hoạt động biểu diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên
nghiệp của Cục Nghệ thuật biểu diễn, ban hành ngày 02 tháng 7 năm 2004, tại Điều
05 có ghi rõ các loại hình nghệ thuật biểu diễn bao gồm: Tuồng, Chèo, Cải lương,
Xiếc, Múa Rối, Kịch nói, Kịch hát, Kịch câm, Dân ca kịch, Nhạc kịch, các loại hình
Ca - Múa - Nhạc, Ngâm thơ, Tấu hài.
Như vậy, căn cứ vào những phân tích trên đây, tổ chức hoạt động biểu diễn âm
nhạc dân tộc là một loại hình nghệ thuật biểu diễn ca – nhạc, được các nghệ sỹ
chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp biểu diễn thông qua các phương diện âm
nhạc, ca từ, khơng gian trình diễn, trang phục, động tác. Quá trình biểu diễn này được
thể hiện trước công chúng cùng với sự trợ giúp của âm thanh, ánh sáng.
1.1.3. Âm nhạc
Theo định nghĩa UNESCO, âm nhạc là một loại hình văn hóa phi vật thể.
Âm nhạc là nghệ thuật âm thanh, là nghệ thuật của thời gian. Âm nhạc còn là nghệ
thuật tổng hợp của sáng tác và biểu diễn [66, tr.130]. Bằng ngôn ngữ của mình, âm
nhạc phản ánh cuộc sống, thể hiện cảm xúc của con người, những biến đổi của trạng
thái tâm lý… một cách khái qt, ước lệ, thơng qua hình tượng âm nhạc.
18
Âm nhạc là nghệ thuật dùng âm thanh và nhịp điệu để diễn tả tư tưởng và
tình cảm của con người. Nghệ thuật âm nhạc gắn bó mật thiết với đời sống xã hội.
Loài người sáng tạo âm nhạc, sử dụng âm nhạc để phục vụ cho đời sống tinh thần,
góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Âm nhạc là hình thái ý thức phản ánh tồn tại xã hội, đồng thời nó cũng ảnh
hưởng tích cực trở lại đối với tồn tại xã hội. Âm nhạc khơng chỉ phản ánh xã hội mà
cịn góp phần cải biến xã hội. Âm nhạc tiến bộ chứa đựng trong nó những tư tưởng tiên
tiến của thời đại, mang trong mình những sức mạnh to lớn có thể làm biến cải xã hội.
Nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc đã khẳng định: những đoàn quân trùng điệp tiến quân
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của dân tộc đã bắt đầu từ những lời kêu
gọi hoặc được tiếp thêm sức mạnh bởi những ca khúc hào hùng của dòng ca khúc cách
mạng. Các triết gia, các nhà tư tưởng dù ở thời đại nào, châu lục nào cũng đều đánh giá
cao vai trị của âm nhạc trong việc hình thành và phát triển nhân cách của con người
trong cuộc sống.
Mặt khác, bản thân âm nhạc cũng chứa đựng trong nó dung mạo của xã hội và
nền văn hóa mà nó được sinh ra. Âm nhạc là phương tiện để thể hiện Chân - Thiện Mỹ; là ngôn ngữ thể hiện đời sống tinh thần của con người trong xã hội. Trong một
số tài liệu, người ta thường nhắc lời của Khổng Tử trong Kinh thi: “thẩm nhạc dĩ chi
chính” (nghe nhạc biết được chính trị). Khi nghe một tác phẩm âm nhạc người ta có
thể đánh giá tư tưởng, cuộc sống văn hóa của xã hội đó. John Blacking trong tác
phẩm của mình đã khẳng định: “Âm nhạc trong xã hội và văn hóa” và “Văn hóa và
xã hội trong âm nhạc” [71].
Âm nhạc là sản phẩm của con người. Chủ thể tạo nên âm nhạc là nhân tố hết
sức quan trọng trong hình thành tác phẩm âm nhạc. Con người - chủ thể tạo nên âm
nhạc, sẽ là đối tượng được khảo sát, phân tích chu đáo để có thể nêu những định
hướng đúng đắn cho cơng tác quản lý văn hóa – âm nhạc trong thực tế đời sống
hiện nay.
Chủ thể sáng tạo âm nhạc: nhạc sĩ, ca sĩ nói chung, là những người hoạt động
nghệ thuật được giáo dục, đào tạo trong những điều kiện, nội dung, môi trường xã
19
hội tốt, sẽ tạo ra nhân cách, đức tính tốt. Điều đó sẽ được thể hiện trong tác phẩm
của họ. Từ đó, tác phẩm âm nhạc truyền đạt vào tư tưởng con người, giúp con người
nhận thức được cái hay, cái đẹp, cái đúng, cái sai tạo ra hình tượng đúng đắn, tạo ra
tính thẩm mỹ trong âm nhạc. Nếu âm nhạc là sản phẩm tốt - đẹp, hướng đến Chân Thiện - Mỹ thì chính “nó” sẽ góp phần tạo ra sản phẩm đẹp cho xã hội.
Âm nhạc là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, nó có khả năng đi thẳng vào
mọi ngõ ngách tâm hồn con người, không cần thông qua bất cứ một ngôn ngữ phiên
dịch nào. Nó đi vào đời sống con người một cách nghiễm nhiên và thấm dần trong ý
tưởng của ta. Vì vậy, nếu giáo dục âm nhạc được hình thành từ thuở nhỏ, sẽ tạo cho
con người một phong cách lối sống trong văn hóa, từ tư tưởng, hành động, việc làm,
cho đến phong cách ứng xử. Chính điều này sẽ tạo nên “con người của xã hội” và
ngược lại, con người xã hội sẽ trở thành chủ thể sáng tạo cơ sở vật chất và tinh thần
cho xã hội, trong đó có văn hóa - âm nhạc.
1.1.4. Âm nhạc dân tộc
Đối với mỗi dân tộc trên thế giới, âm nhạc dân tộc bao giờ cũng giữ vị trí đặc
biệt quan trọng. Đó là di sản vơ cùng q báu, tinh hoa sáng tạo nghệ thuật của bao
thế hệ tiền nhân, cơ sở cho sự phát triển nền văn hóa âm nhạc của một dân tộc trong
tương lai. Ngay từ thời cổ, cư dân Việt Nam đã sáng tạo và coi âm nhạc như một nhu
cầu tinh thần không thể thiếu. Theo dòng lịch sử, dòng nhạc dân tộc được lưu truyền
cho đến nay như một mạch máu xuyên suốt.
Theo tác giả Trần Văn Khê cho rằng, âm nhạc dân tộc Việt Nam có những cá
tính mà có thể khơng tìm ra được ở những nền âm nhạc khác. Mặc dù ở Châu Á, cạnh
các nước Đông Á và Đông Nam Á nhưng âm nhạc dân tộc Việt Nam không thể nhầm
lẫn với âm nhạc của Trung Quốc, Nhật Bản hay Thái Lan… mà nó mang một cá tính
riêng. Theo định nghĩa của Hội đồng Âm nhạc Truyền thống Quốc tế (International
Council of Traditional Music), Âm nhạc truyền thống là “những ca khúc, giai điệu
được biểu diễn theo tập tục, thói quen qua một khoảng thời gian dài (thường là vài thế
hệ). Chúng thường là các bài dân ca, điệu vũ làng quê hay các loại tương tự như âm
20
nhạc dân gian nhưng cũng có thể được sáng tác bởi những nhà soạn nhạc từ buổi đầu
và có thể đã từng là nhạc phổ thông (pop) trong thời đại của chúng”.
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Liêm, Âm nhạc truyền thống là:
Toàn bộ những di sản âm nhạc của dân tộc Việt Nam được ghi chép, bảo tồn
và kế thừa (đang còn tồn tại trong đời sống tinh thần của dân tộc) đến ngày nay.
Trong “âm nhạc truyền thống” có thể có những thể loại âm nhạc khơng được sinh ra
từ nền văn hóa của tộc người, là một “du nhập văn hóa”. Nhưng trong q trình tồn
tại, phát triển, thể loại âm nhạc đó đã chuyển hóa, gắn bó với nền văn hóa chung và
trở thành một thành tố của nền văn hóa với những đặc trưng của truyền thống văn
hóa đó. Thể loại âm nhạc đó cũng được xem là một thể loại của nền âm nhạc truyền
thống [20, tr.9].
Có thể nhận thấy, âm nhạc dân tộc là những thể loại âm nhạc được sáng tạo
bởi tộc người hoặc do tộc người tự nhận là của dân tộc mình sáng tạo; Âm nhạc
truyền thống lại được định danh với ý nhằm chỉ kho tàng âm nhạc được tạo nên
trong quá trình lịch sử của một dân tộc, được hình thành và phát triển trong quá khứ
được lưu truyền hoặc lưu giữ đến ngày nay. Âm nhạc dân tộc gồm hai dịng chính
là: Âm nhạc dân gian và âm nhạc chuyên nghiệp.
Âm nhạc dân tộc Việt Nam gồm nhiều thể loại, có những thể loại được diễn
xướng trong sinh hoạt, đời sống (dân ca) hoặc nghi lễ trong tín ngưỡng (hát Văn,
nhạc lễ, bóng rỗi, hát Cửa Đình, hát Then Tày - Nùng.v.v..). Người ta cũng phân
chia các thể loại âm nhạc dân tộc theo nội dung, điều kiện hình thành và thực hành
như các thể loại gắn liền với vòng đời người (hát ru, đồng dao, hát giao duyên, hát
đám cưới, nhạc tang ma…); theo lịch tiết lao động nơng nghiệp hoặc phong tục - tín
ngưỡng dân tộc. Có những thể loại được trình diễn như các thể loại âm nhạc gắn
liền với tín ngưỡng - phong tục (hát cúng rẫy, mừng lúa mới, cúng cơm mới, cúng
bến nước, cầu mùa, cầu mưa.v.v..); thể loại âm nhạc liên quan đến các trò diễn, âm
nhạc sân khấu truyền thống (như Chèo, Tuồng, Cải lương, múa rối, Ca kịch Bài
Chịi) âm nhạc thính phịng (như ca Trù, ca Huế, Đờn ca Tài tử).
21
Khái niệm “âm nhạc dân tộc” được sử dụng trong luận văn nhằm chỉ thể loại
âm nhạc được hình thành trong khoảng nửa sau thế kỷ XX, được gọi một cách cụ
thể là “nhạc dân tộc cải biên”. Với cuộc tiếp biến lần thứ hai với văn hoá âm nhạc
phương Tây mà cụ thể là với Liên xô (cũ) [26, tr.238-240] có một sự cách tân, biến
đổi một bộ phận âm nhạc cổ truyền Việt Nam để phục vụ cho cuộc sống mới, từ đây
có sự phân biệt giữa âm nhạc dân tộc cổ truyền và một bộ phận âm nhạc dân tộc
khác – được gọi là nhạc dân tộc cải biên. Nhạc dân tộc cải biên được hình thành với
sự tranh cải ở nhiều phương diện, nhưng chủ yếu là từ những sáng tác – chuyển
soạn, chuyển biên viết cho nhạc khí dân tộc, sự cải tiến nhạc khí dân tộc để có thể
diễn tấu những tác phẩm mới, sự xây dựng chương trình đào tạo âm nhạc dân tộc từ
truyền ngón truyền khẩu theo lối học viện âm nhạc phương Tây và trình diễn. Nhạc
cải biên là thể loại âm nhạc được sáng tạo với tư duy, khuynh hướng cải cách âm
nhạc dân tộc, nhằm mục đích làm mới di sản âm nhạc cổ truyền theo khuynh hướng
“tiên tiến”, “hiện đại” hố.
Những đóng góp tích cực của các sáng tác - chuyển soạn cho nhạc cụ dân
tộc, dàn nhạc dân tộc tổng hợp theo hướng này là tính thể nghiệm, sáng tạo nhiều kỹ
thuật diễn tấu; sử dụng những nghiên cứu ứng dụng cải tiến nhạc cụ. Đặc biệt,
những tác phẩm viết theo lối này được sử dụng làm giáo trình giảng dạy trong các
nhạc viện, học viện âm nhạc; là tiết mục độc tấu, hoà tấu nhạc cụ dân tộc có tính kỹ
thuật để tham gia hội diễn của các diễn viên, sinh viên, học sinh âm nhạc dân tộc
chuyên nghiệp.
Ngoài ra, nhạc dân tộc cải biên cịn đóng góp cho nền âm nhạc dân tộc
những nhạc cụ dân tộc được cải tiến. Việc cải tiến nhạc cụ là một xu hướng
nghiên cứu, một “phong trào” khá phát triển, kéo dài trong nhiều năm (khoảng từ
năm 1954 đến sau năm 1975) của giới âm nhạc chuyên nghiệp. Những cải tiến
này nhằm phát huy khả năng diễn tấu của nhạc cụ dân tộc. Cụ thể là cách lên
dây, điều chỉnh hệ thống dây đàn, cấu trúc của nhạc cụ nhất là đối với các nhạc
cụ được giảng dạy trong các nhạc viện: sáo, tranh, tỳ bà, nhị, nguyệt, tam thập
lục, đàn bầu. Nhiều nhạc cụ dân tộc thiểu số đã được nghiên cứu, cải tiến, giảng
22
dạy và đưa lên sân khấu biểu diễn như tính tẩu của người Tày, Thái, T’rưng,
K’long put, đàn đá… của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên - Trường Sơn. Việc
cải tiến nhạc cụ dân tộc theo hệ thống âm bình quân hỗ trợ cho xây dựng dàn
nhạc dân tộc tổng hợp nhằm mục đích hiện đại hố nền âm nhạc dân tộc. Dàn
nhạc dân tộc tổng hợp có biên chế theo tổ chức dàn nhạc giao hưởng - âm nhạc
Cổ điển châu Âu: sắp xếp theo tổ bộ của dàn nhạc, tổng phổ được ghi chép theo
hình thức âm nhạc giao hưởng, hệ thống thang âm được sử dụng, cấu trúc hình
thức của tác phẩm viết cho dàn nhạc. Với hàng trăm tác phẩm viết cho dàn dàn
nhạc dân tộc tổng hợp đã cho thấy sự thành công và tác động vào nền âm nhạc
Việt Nam và đời sống văn hoá - tinh thần của dàn nhạc dân tộc tổng hợp.
Nhìn chung, nhạc cải biên là âm nhạc cổ truyền được nghiên cứu, cải tiến,
giảng dạy, trình diễn trong giai đoạn từ 1954 ở miền Bắc và phát triển trên cả nước
sau năm 1975, là âm nhạc mới chủ yếu sử dụng nhạc khí dân tộc truyền thống.
Nhạc Cải biên đã được sinh ra với tư duy cải tiến nền âm nhạc dân tộc cổ truyền
theo phương hướng tiếp thu âm nhạc phương Tây. Nhạc Cải biên đã đóng góp nhiều
mặt đối với nền âm nhạc mới Việt Nam, và cho đến nay vẫn là một thành phần quan
trọng của nền âm nhạc Việt Nam.
1.1.5. Biểu diễn âm nhạc dân tộc
Nghệ thuật biểu diễn tồn tại như một hình thái đặc thù trong lĩnh vực âm
nhạc, khơng có hoạt động biểu diễn thì tác phẩm âm nhạc chỉ là những “ký hiệu”
tiềm ẩn khả năng khai phá, chưa thể trở thành nghệ thuật đích thực. Vì vậy, biểu
diễn là con đường duy nhất biến tác phẩm thành nghệ thuật. Mặc dù biểu diễn được
coi như hoạt động sáng tạo lần hai trong quá trình sáng tác - biểu diễn - thưởng
thức, nhưng lần này thể hiện một cách đầy đủ, mang ý nghĩa bản thể của tác phẩm
âm nhạc.
Để đạt tới mức độ hoàn thiện người nghệ sĩ phải trải qua quá trình rèn luyện
kỹ năng, nhận thức, quan sát những diễn biến tâm lý bên trong của tác phẩm, biến
tồn bộ trải nghiệm cá nhân thành hình tượng nghệ thuật rồi từ đó vận dụng vào
việc thể hiện tác phẩm. Có thể nói giá trị nghệ thuật ẩn chứa bên trong của một tác
23
phẩm âm nhạc cịn được thể hiện thơng qua năng lực sáng tạo không ngừng của
nghệ sĩ biểu diễn.
Đối với âm nhạc dân tộc chuyên nghiệp, người nghệ sĩ biểu diễn có thể là
những nghệ sĩ chuyên nghiệp, có kỹ thuật diễn - tấu đủ để thực hiện tác phẩm âm
nhạc, có năng lực sáng tạo nghệ thuật để có thể biến những ký hiệu âm nhạc trở
thành những hình tượng âm nhạc đúng như người nhạc sĩ sáng tác đã gởi gắm trong
tác phẩm và thể hiện dấu ấn cá nhân (phong cách riêng), hoặc có thể là những nghệ
nhân. Nghệ nhân khác với nghệ sĩ là không học ở trường lớp nào cả, mà phần lớn là
được truyền dạy, nhưng khi biểu diễn họ có thể truyền tải tác phẩm đó một cách sâu
sắc nhất, hồn thiện nhất.
Một tác phẩm âm nhạc đến với người nghe, tạo nên nhận thức và cảm thụ
phải trải qua 3 lần sáng tạo: sáng tác là lần sáng tạo thứ nhất, biểu diễn được xem là
lần sáng tạo thứ hai và người thưởng thức tiếp nhận bằng sự cảm nhận, kết hợp với
kinh nghiệm và vốn sống của bản thân, liên tưởng và hình thành những cảm xúc,
cảm thụ và nhận thức - Là sự sáng tạo thứ ba. Lần sáng tạo thứ hai - biểu diễn đóng
vai trị quan trọng, mang đến đời sống cho tác phẩm âm nhạc, đồng thời mang đến
cho người nghe tác phẩm âm nhạc theo sự hiểu biết, cảm nhận của bản thân người
nghệ sĩ. Biểu diễn là khâu trọng yếu, để tác phẩm âm nhạc có đời sống và chi phối
lần sáng tạo thứ ba đời sống của tác phẩm âm nhạc, sự cảm thụ - nhận thức của
người nghe.
Như nêu trên, hình thức biểu diễn âm nhạc dân tộc của các Nhà hát Ca - Múa Nhạc Bông Sen, của Dàn nhạc Dân tộc Nhạc viện Tp. HCM và các nhóm nhạc dân
tộc là hình thức biểu diễn mới, xuất hiện khoảng từ nửa sau thế kỷ XX trở về sau và
khá phát triển ở những năm đầu thế kỷ XXI. Ban đầu là hình thức độc tấu, hồ tấu
những tác phẩm mới sáng tác (nhạc cải biên) và tiếp nối là hình thức biểu diễn ca,
múa có các nhạc cụ dân tộc đệm. Những tác phẩm mới sáng tác cho nhạc cụ dân tộc
biểu diễn độc tấu là hình thức trình diễn được công chúng hoan nghênh ngay từ giai
đoạn mới xuất hiện. Những tác phẩm độc tấu đàn tranh, tỳ, nhị, nguyệt, bầu... cuốn
hút không chỉ với khán giả trong nước mà cịn được giới thiệu ở nước ngồi. Nhiều