Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Luận văn làng nghề sơn mài tương bình hiệp bình dương trong phát triển du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 107 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận văn này, tơi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu
Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Q thầy cơ Khoa Sau Đại học
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt q trình học tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin gởi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Đức Tuấn, người
thầy đã tận tình hướng dẫn tơi thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô trong Hội đồng chấm luận văn đã
dành thời gian, cơng sức sửa chữa, đóng góp ý kiến quý báu để luận văn hoàn chỉnh
hơn.
Đồng thời, tơi xin cảm ơn q anh, chị các phịng ban có liên quan đến nội
dung đề tài (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Dương; Hiệp hội sơn mài
và điêu khắc; Sở Nông nghiệp và Phát triển nơng thơn tỉnh Bình Dương; Chi Cục
thống kê tỉnh Bình Dương) đã tận tình giúp đỡ, hỗ trợ, cung cấp thơng tin tư liệu
trong q trình tơi thực hiện đề tài.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn hữu đã động viên ủng hộ, giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian qua.
Người viết luận văn

Lê Hữu Vạn


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả của quá trình suy nghĩ, nghiên cứu
tổng hợp thật sự nghiêm túc của bản thân. Các luận cứ nghiên cứu, dữ liệu, hình ảnh
trong luận văn là chính xác và trung thực.
Bình Dương, ngày 30 tháng 8 năm 2019
Người viết luận văn

Lê Hữu Vạn



BẢNG DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNH – HĐH

: Công nghiệp hóa – hiện đại hóa

ĐX

: Đường xã

NXB

: Nhà xuất bản

QL

: Quốc lộ

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TP

: Thành phố

TW

: Trung ương

UBND


: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu............................................................................................2
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..........................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................7
6. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu ........................................................................8
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.............................................................................9
8. Cấu trúc luận văn ................................................................................................9
Chương 1 ..................................................................................................................11
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN ...................................................................11
VỀ LÀNG SƠN MÀI TƯƠNG BÌNH HIỆP ........................................................11
1.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................................11
1.1.1 Một số khái niệm liên quan đề tài .............................................................11
1.1.2 Du lịch làng nghề truyền thống .................................................................21
1.2 Lý thuyết nghiên cứu ........................................................................................21
1.2.1 Lý thuyết Chức năng luận của A.R. Radcliffe-Brown (1881 - 1955) .......22
1.2.2 Lý thuyết Sinh thái văn hóa của Julian Steward (1902 - 1972) ................22
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của Làng sơn mài Tương Bình Hiệp ..........23
1.3.1 Quá trình hình thành và phát triển làng nghề ............................................23
1.3.2 Quy trình sản xuất sản phẩm của làng nghề sơn mài ................................28
Tiểu kết chương 1...................................................................................................33
Chương 2 ..................................................................................................................34
THỰC TRẠNG BẢO TỒN LÀNG NGHỀ VÀ THỰC TRẠNG........................34
KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI LÀNG NGHỀ

TRUYỀN THỐNG SƠN MÀI TƯƠNG BÌNH HIỆP .........................................34
2.1. Các hoạt động bảo tồn giá trị nghề sơn mài Tương Bình Hiệp .....................34
2.1.1. Hoạt động làm nghề sơn mài ....................................................................34
2.1.2. Hoạt động giáo dục - trao truyền ..............................................................38
2.1.3. Hoạt động kinh doanh sản phẩm của hộ gia đình và doanh nghiệp. ........42


2.2. Thực trạng khả năng đáp ứng hoạt động du lịch tại làng nghề sơn mài Tương
Bình Hiệp ...............................................................................................................46
2.2.1. Thực trạng về cơ sở hạ tầng .....................................................................46
2.2.2. Thực trạng hoạt động sản xuất của hộ gia đình, doanh nghiệp tại Tương
Bình Hiệp trong giai đoạn hiện nay. ..................................................................50
2.2.3. Thực trạng về nguồn nhân lực ..................................................................53
2.3. Nhận định, đánh giá .......................................................................................58
2.3.1. Các giá trị làng nghề.................................................................................58
2.3.2 Tiềm năng phát triển du lịch .....................................................................64
2.3.3. Hạn chế. ....................................................................................................68
Tiểu kết chương 2...................................................................................................73
Chương 3 ..................................................................................................................74
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH ...............................74
LÀNG NGHỀ SƠN MÀI TƯƠNG BÌNH HIỆP – BÌNH DƯƠNG ...................74
3.1. Định hướng phát triển Làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp ........................74
3.1.1. Chính sách phát triển và hoạt động quảng bá du lịch ..............................74
3.1.2. Các quan điểm phát triển làng nghề .........................................................78
3.2. Giải pháp phát triển du lịch làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp ................79
3.2.1. Giải pháp quản lý nhằm bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ...................79
3.2.2. Giải pháp về xây dựng thương hiệu làng nghề ........................................80
3.2.3. Giải pháp về nguồn nhân lực ....................................................................83
3.2.4. Giải pháp về sản phẩm và liên kết các tuyến du lịch ...............................85
3.2.5. Giải pháp xúc tiến quảng bá du lịch .........................................................89

3.3. Một số khuyến nghị .........................................................................................90
3.3.1. Với Trung ương ........................................................................................90
3.3.2. Với địa phương tỉnh Bình Dương ............................................................91
3.3.3. Với nghệ nhân, cơ sở sản xuất .................................................................92
Tiểu kết chương 3...................................................................................................94
KẾT LUẬN ..............................................................................................................95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................98
PHỤ LỤC ...............................................................................................................102


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghề thủ công truyền thống ở Việt Nam đã xuất hiện, tồn tại và phát triển từ
rất lâu đời, cho đến ngày nay có khá nhiều nghề đã trở nên nổi tiếng, nhất là các
nghề thủ công mỹ nghệ. Tất cả đều nhờ vào bàn tay khéo léo, óc sáng tạo, khiếu
thẩm mỹ, thêm vào đó là sự cần cù của các nghệ nhân và thợ thủ công.
Với những ảnh hưởng về mặt xã hội, tâm lý, tập quán và điều kiện tự nhiên,
ở nơng thơn Việt Nam đã hình thành và tồn tại những làng nghề truyền thống với bề
dày lịch sử hàng trăm năm, nơi đây đã cho ra đời nhiều loại sản phẩm nổi tiếng bởi
tính độc đáo và độ tinh xảo cao. Trong số những nghề thủ công truyền thống ấy, sơn
mài từ lâu đã được xem là một trong những nghề truyền thống tiêu biểu mang đậm
dấu ấn văn hóa Việt Nam được giới mỹ thuật trong nước và thế giới biết đến.
Có thể khẳng định rằng trong hàng trăm ngàn di vật do cha ông ta sáng tạo ra
từ bao đời nay còn được lưu giữ, dưới góc độ thẩm mỹ, sơn mài có một nét độc đáo
nhất định. Bởi vì sơn khơng phải là chất liệu để tạo nên đồ vật như gỗ, tre, nứa, đất,
đá, đồng... mà sơn là chất liệu góp phần làm tăng giá trị thẩm mỹ cho đồ vật.
Thủ Dầu Một – Bình Dương là vùng đất lâu đời với nhiều điều kiện ưu đãi
của thiên nhiên để phát triển các nghề truyền thống. Và đặc biệt đây là vùng đất duy

nhất ở phía Nam (và cả nước) chứa đựng đầy đủ 3 loại hình của sơn mài truyền
thống đó là: sơn mài trang trí, sơn mài ứng dụng và tranh sơn mài nghệ thuật trong
một không gian thống nhất nhưng lại rất riêng biệt về ngơn ngữ tạo hình và nghệ
thuật thể hiện thông qua các đặc điểm nghệ thuật và kỹ thuật mà các nghệ nhân, họa
sĩ đã khéo kết hợp giữa truyền thống và cách tân, giữa các vùng và địa phương để
tạo nên một địa danh nghệ thuật, để tạo nên một thương hiệu nổi tiếng: Sơn mài
Bình Dương. Và tiêu biểu hơn cả là làng sơn mài Tương Bình Hiệp, bắt nguồn, phát
triển và bảo lưu tinh hoa văn hóa của nghề thủ cơng sơn mài, nền móng của thương
hiệu sơn mài đất Thủ.
Theo Quyết định số 1328/QĐ-BVHTTDL ngày 6/04/2016 của Bộ Văn hóa,


2

Thể thao và Du lịch chính thức cơng bố đưa Nghề sơn mài ở Tương Bình Hiệp vào
Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Để bảo tồn và phát triển làng nghề sơn mài truyền thống Tương Bình Hiệp,
Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã ban hành Quyết định số 2497/QĐ-UBND
ngày 29/9/2015 phê duyệt dự án “Bảo tồn và phát triển làng nghề sơn mài truyền
thống”. Đề án này được giao cho Chi cục phát triển nông thôn - Sở Nông nghiệp
phát triển nông thôn triển khai thực hiện. Theo đề án này thì sẽ có nhiều chương
trình đào tạo, tập huấn kỹ thuật cho các công nhân làng nghề, tập huấn kỹ năng
phục vụ du lịch cho các hộ sản xuất; hỗ trợ thiết bị và các cơ sở vật chất, các cơng
trình phục vụ sản xuất cho các cơ sở trong làng nghề.
Tuy nhiên cũng giống như hầu hết các làng nghề truyền thống khác, nghề
sơn mài Bình Dương nói chung và sơn mài Tương Bình Hiệp nói riêng đang đứng
trước những cơ hội cũng như thử thách của công cuộc hội nhập.
Sinh ra và lớn lên tại Làng sơn mài truyền thống Tương Bình Hiệp, được tận
mắt nhìn thấy quá trình phát triển của làng nghề trong giai đoạn vàng son và cả
những khó khăn, thử thách trong giai đoạn hiện tại. Với mong muốn góp một phần

nhỏ cơng sức của mình vào việc bảo tồn và phát triển một trong những làng nghề
thủ công truyền thống trên quê hương đất Thủ, nên tơi chọn đề tài “Làng nghề sơn
mài Tương Bình Hiệp - Bình Dương trong phát triển du lịch” để làm luận văn
tốt nghiệp cao học ngành Quản lý văn hóa.

2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng của làng nghề, thực trạng khả năng đáp ứng hoạt động
du lịch của làng nghề. Từ đó xác định vai trị quan trọng và cần thiết của việc bảo
tồn và phát triển giá trị làng nghề sơn mài truyền thống Tương Bình Hiệp trong giai
đoạn hiện nay, trong đó việc kết hợp với việc phát triển du lịch tỉnh Bình Dương để
làng nghề giữ vững giá trị truyền thống mà vẫn đáp ứng được nhu cầu hội nhập và
được nhiều du khách biết đến bằng con đường phát triển du lịch làng nghề là hướng
phát triển bền vững.


3

Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài luận văn sẽ hướng đến
những nội dung cơ bản sau:
Khảo sát thực trạng hoạt động sản xuất, thực trạng hoạt động có khả năng
đáp ứng nhu cầu du lịch của làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp - Bình Dương
trong giai đoạn hiện nay.
Chỉ ra nguyên nhân, những yếu tố tác động đến hoạt động sản xuất và hoạt
động phát triển du lịch đó.
Đề xuất, định hướng những giải pháp để bảo tồn, phát huy, quảng bá văn hóa
làng nghề sơn mài truyền thống Tương Bình Hiệp gắn với phát triển kinh tế, du lịch.

3. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ngoài những tài liệu nghiên cứu về lịch sử văn hóa của Bình Dương làm căn
bản để nghiên cứu đề tài, các tài liệu dưới đây đã nghiên cứu về văn hóa làng nghề

nói chung và làng nghề sơn mài truyền thống Tương Bình Hiệp dưới các góc độ
khác nhau, cung cấp cho người viết những nội dung vô cùng cần thiết và quan
trọng, có thể được chia thành hai nhóm tài liệu như sau:
 Nhóm tác phẩm viết về ngành nghề thủ công truyền thống ở Việt Nam
Tác phẩm “Các khía cạnh văn hóa Việt Nam” [4] của tác giả Nguyễn Thị
Thanh Bình, 2002, Nxb Thế Giới. Trong chương nói về các ngành nghề, tác giả có
đề cập đến lịch sử ra đời nghề sơn mài cũng như một số đặc điểm của sơn mài.
Tác phẩm “Làng nghề truyền thống Việt Nam” [33] của tác giả Phạm Côn
Sơn, 2004, Nxb Văn hóa dân tộc. Tác phẩm này đề cập đến những nghề thủ công
truyền thống tiêu biểu ở cả ba vùng miền Bắc, Trung, Nam. Trong đó có giới thiệu
sơ lược về làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp ở Bình Dương.
Cơng trình “Làng nghề thủ cơng truyền thống Việt Nam” [41] của tác giả
Bùi Văn Vượng, 2002, Nxb Văn hóa thơng tin đã đưa ra một số khái niệm nghề thủ
công, làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, cung cấp thông tin cho độc giả về
16 làng nghề nổi tiếng trải dài ba miền Bắc, Trung, Nam.
Trong tác phẩm “Nghề cổ nước Việt Nam” [37], Vũ Từ Trang, 2001, Nxb
Văn hóa dân tộc, tác giả đã nêu một cách khái quát về lịch sử hình thành nghề thủ


4

công Việt Nam, đồng thời đưa ra một số khái niệm làng nghề, phường nghề và công
nghệ của làng nghề.
Trong tác phẩm “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa” [21] của các tác giả Mai Thế Hởn, Hồng Ngọc Hịa, Vũ
Văn Phúc, 2003, Nxb Chính trị Quốc gia đã nghiên cứu, làm rõ phạm trù làng nghề
truyền thống, đặc điểm hình thành và vị trí, vai trị của làng nghề truyền thống đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội qua các thời kỳ lịch sử. Bên cạnh đó, tác phẩm cịn
phân tích, đánh giá tiềm năng, thực trạng của việc phát triển làng nghề truyền thống
trong những năm đổi mới bên cạnh những tồn tại cần khắc phục. Đồng thời vạch ra

những phương hướng và đề xuất những giải pháp đồng bộ có tính xác thực nhằm
phát triển làng nghề truyền thống.
Tiếp theo, có tác phẩm “Văn hóa Việt Nam đỉnh cao Đại Việt” [11] của tác
giả Nguyễn Đăng Duy, 2004, Nxb Hà Nội. Tác phẩm là cơng trình nghiên cứu
những biểu hiện đặc trưng văn hóa Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử ở nhiều khía
cạnh từ kinh tế, chính trị đến đời sống văn hóa xã hội. Chương IX của tác phẩm là
phần nghiên cứu về văn hóa nghệ thuật, trong đó có đề cập đến nghệ thuật sơn mài.
Tác phẩm “Kỹ thuật sơn mài” [8] của tác giả Phạm Đức Cường, 2005, Nxb
Văn hóa - Thơng Tin Hà Nội. Đây được xem là cơng trình nghiên cứu tiêu biểu nhất
về lịch sử ra đời cũng như những kỹ thuật, công đoạn, cách thức sử dụng trong nghệ
thuật sơn mài, do họa sĩ Phạm Đức Cường đã đúc kết qua hơn 30 năm sáng tác và
giảng dạy của mình.
Tác giả Vũ Ngọc Khánh (2006) với tác phẩm “Lược truyện thần tổ các
ngành nghề” [23], Nxb Thanh Niên. Bằng phương pháp nghiên cứu folkloke, tác
giả đã thu thập, nghiên cứu những sự tích, những câu chuyện với mục đích lý giải
sự ra đời phát triển các ngành nghề, tìm ra vị tổ nghề. Trong tác phẩm này tác giả có
trích thuật gia phả của ơng tổ nghề sơn.
 Nhóm tác phẩm viết về nghề sơn mài, du lịch làng nghề Bình Dương.
Cơng trình nghiên cứu “Mỹ thuật Bình Dương xưa và nay” [19], do Hội văn
học nghệ thuật Bình Dương tổ chức thực hiện và xuất bản năm 1999 là cơng trình


5

nghiên cứu về kỹ thuật chuyên môn của nghệ thuật sơn mài. Nhưng do có sự giới
hạn về mặt đề tài nên chưa có sự nghiên cứu tồn diện, và tuy có nhắc đến nhưng
chưa giới thiệu nhiều về làng sơn mài Tương Bình Hiệp.
Năm 2007 Hiệp hội sơn mài điêu khắc tỉnh Bình Dương cũng cho xuất bản
tập kỷ yếu với nhiều bài tham luận viết về nghề sơn mài ở Bình Dương, cũng như
nói về q trình hình thành và phát triển làng nghề sơn mài truyền thống xã Tương

Bình Hiệp, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Nghệ nhân Thái Kim Điền (2007) có bài viết trên Tạp chí Hội Khoa học lịch
sử tỉnh Bình Dương, số 5 (01/2007) [11] đề cập đến Truyền thống sơn mài Bình
Dương và định hướng hội nhập. Ơng khẳng định: “Nghề sơn mài ở đất Bình Dương
là vốn quý về mỹ thuật, thể hiện bản sắc văn hóa địa phương....”.
Bài viết đăng trên Thông tin Hội Khoa học lịch sử tỉnh Bình Dương số 24
(10/2011) của Thạc sĩ Nguyễn Văn Quý “Xu hướng phát triển của nghệ thuật sơn
mài Bình Dương” [31] đã đề cập đến nghề sơn mài Bình Dương cần “Bảo tồn và
phát triển những cái nổi tiếng, chứ không phải cái tai tiếng”. Và tin tưởng rằng
tương lai không xa nghề và nghệ thuật sơn mài truyền thống Bình Dương sẽ quay
về và phát triển trở lại bởi cái hay, cái đẹp vừa lung linh, huyền ảo vừa sâu thẩm,
mượt mà làm say mê lịng người vốn có của nó.
Tác phẩm “Nghệ thuật sơn mài ứng dụng Bình Dương” [28] của tác giả
Nguyễn Văn Minh, 2015, Nxb Mỹ thuật. Đây là cơng trình nghiên cứu về tiến trình
hình thành, phát triển và giá trị của sơn mài ứng dụng Bình Dương. Đặc biệt trong
chương VI tác giả đề cập đến việc phát huy các giá trị sơn mài ứng dụng Bình
Dương trong xu thế hội nhập hiện nay.
Luận văn “Bảo tồn và phát triển văn hóa làng nghề truyền thống sơn mài
Tương Bình Hiệp - Bình Dương” [15] của Trần Thanh Hiếu, 2016, nghiên cứu về
thực tiễn hình thành và phát triển văn hóa đặc trưng của làng nghề truyền thống
Tương Bình Hiệp. Đồng thời tác giả đánh giá những thành tựu và hạn chế của văn
hóa làng nghề và hoạt động quản lý văn hóa tại làng nghề.


6

Bài viết “Du lịch làng nghề ở Đông Nam Bộ - thực trạng và một số giải
pháp phát triển” [3] của tác giả Nguyễn Như Bình đã đề cập đến thực trạng phát
triển làng nghề gắn với du lịch ở một số làng nghề trên địa bàn Đông Nam Bộ;
trong đó có một số làng nghề ở Bình Dương như làng nghề gốm, làng nghề sơn mài.

Những thực hạn chế, yếu kém của du lịch làng nghề ở Đông Nam Bộ phản ánh
trong bài viết có những nét chung và tương đồng với những hạn chế, yếu kém của
du lịch làng nghề Bình Dương.
Bài viết của Kim Oanh về “Độc đáo làng nghề truyền thống ở Bình Dương”
[47] đăng trên trang web Tạp chí du lịch điện tử có nhắc đến việc “Phát huy du lịch
làng nghề” là phối hợp với các địa phương, cơ sở sản xuất tại các làng nghề xây
dựng du lịch làng nghề mang đặc trưng của Bình Dương. Theo đó, triển khai các
tour kết hợp tham quan làng nghề; đầu tư phát triển các sản phẩm thủ công độc đáo,
mẫu mã đa dạng và phong phú; xây dựng tour trải nghiệm cho du khách tham gia
vào quy trình sản xuất các sản phẩm truyền thống…
Đề cập trực tiếp và có những nhận định khá xác đáng về tiềm năng cũng
những hạn chế của du lịch làng nghề Bình Dương, du lịch làng nghề sơn mài Tương
Bình Hiệp là một số bài viết trong Kỷ yếu hội thảo khoa học Du lịch Bình Dương:
Nâng cao sức cạnh tranh, hướng đến phát triển bền vững do Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch tỉnh Bình Dương tổ chức vào tháng 12/2018. Đó là bài viết “Tổ chức,
phát triển làng nghề truyền thống kết hợp du lịch (nghiên cứu làng sơn mài Tương
Bình Hiệp và làng gốm Tân Phước Khánh” [6] của tác giả Lương Thy Cân; “Nâng
cao tính liên kết để thúc đẩy phát triển du lịch làng nghề sơn mài tỉnh Bình Dương”
[16] của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hoa.
Ngồi ra, cịn có nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp và
các phóng viên trên cả nước nói về nghề sơn mài và làng nghề Tương Bình Hiệp, đã
được đăng trên các báo như: Bình Dương, Thanh Niên, các tạp chí Xưa và
Nay…Và cũng có nhiều trang web cập nhật thường xuyên những tin tức về ngành
thủ công mỹ nghệ này.


7

Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu viết về làng nghề sơn mài Tương
Bình Hiệp nêu trên, được thực hiện trước năm 2016, tập trung chủ yếu tìm hiểu về

lịch sử hình thành, khai thác về mặt kỹ thuật, chất liệu và tính ứng dụng của sơn mài
truyền thống. Bên cạnh đó, các cơng trình cũng đã phân tích, đánh giá về tình hình
hoạt động, nêu ra những định hướng nhằm bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa
làng nghề sơn mài truyền thống tuy nhiên chỉ mang tính chất khái qt tương đối.
Chưa có một cơng trình nghiên cứu nào về việc phát triển du lịch làng nghề Bình
Dương nói chung và nghề sơn mài nói riêng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng
Nghiên cứu thực trạng phát triển du lịch của làng nghề gắn với các vấn đề
liên quan đến việc duy trì hoạt động sản xuất, nhu cầu mua bán sản phẩm tại làng
nghề, việc bảo tồn và phát triển làng nghề trong giai đoạn hiện nay.

4.2 Phạm vi
Không gian
Nghiên cứu tại làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp, TP. Thủ Dầu Một tỉnh
Bình Dương.
Thời gian
Đề tài luận văn được nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2016 đến nay. Đây
là giai đoạn sau khi làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp được ghi danh vào Danh
mục di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.

5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả tập trung áp dụng chủ yếu phương pháp nghiên cứu định tính, cụ thể:
- Thu thập tài liệu: luận văn tập hợp các cơng trình nghiên cứu trước đây
cùng với những tài liệu thu thập qua khảo sát thực tế, mục đích để nắm được thực
trạng của làng nghề trong giai đoạn hiện nay; đồng thời nêu lên những giải pháp
nhằm phát triển du lịch làng nghề trong điều kiện hội nhập.



8

- Phân tích tài liệu: trên cơ sở nguồn tài liệu thu thập được từ các nguồn tác
giả tiến hành tổng hợp, thống kê, xử lý thông tin các tài liệu để phân tích và đánh
giá chính xác đối tượng nghiên cứu của luận văn.
- Phỏng vấn sâu: Thu thập ý kiến của nhà quản lý, chủ doanh nghiệp, nghệ
nhân, thợ sơn mài, khách du lịch để nắm bắt tình hình, thực trạng của việc sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm từ dịch vụ du lịch và thị hiếu của khách tham quan, từ đó tìm
ra giải pháp phát triển phù hợp.
- Quan sát tham dự: Khảo sát thực tế tại các cơ sở, hộ gia đình sản xuất sơn
mài (tại Phường Tương Bình Hiệp) và các cửa hàng trưng bày, mua bán sản phẩm
tại làng nghề.

6. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
Để đáp ứng nội dung nghiên cứu, tác giả đặt ra các câu hỏi sau để làm sáng
tỏ nội dung nghiên cứu của luận văn:
- Làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp - Bình Dương trong phát triển du
lịch của tỉnh Bình Dương hiện nay như thế nào?
- Làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp đã làm gì để hồi sinh và phát triển
trong bối cảnh hiện nay?
- Để phát triển làng nghề theo hướng bền vững thì cần phải thực hiện như
thế nào để vừa đảm bảo giữ được giá trị văn hóa làng nghề truyền thống, vừa bắt
kịp xu hướng phát triển hội nhập?
Trên cơ sở các câu hỏi nghiên cứu thì tác giả đặt ra các giả thuyết là:
- Từ sau khi được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể, sản phẩm
sơn mài Tương Bình Hiệp vốn đã nổi tiếng lại càng khẳng định được vị trí và giá trị
trên thị trường, tuy nhiên các hộ gia đình và doanh nghiệp cần phải giải quyết nhiều
vấn đề liên quan đến kỹ thuật, nhân công, việc quảng bá sản phẩm để đáp ứng nhu
cầu địi hỏi của thị trường.
- Chính sách phát triển làng nghề truyền thống hiện nay cần được thay đổi

cho phù hợp với điều kiện và tình hình phát triển du lịch tại địa phương.


9

- Cần có những giải pháp để bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống
bằng con đường phát triển du lịch phù hợp.

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
7.1 Khoa học
Làm rõ sự tương tác giữa việc phát triển văn hóa và vấn đề kinh tế xã hội tại
làng nghề truyền thống.
Bổ sung vào nguồn tài liệu tham khảo cho các cơng trình nghiên cứu về văn
hóa làng nghề tại địa phương.

7.2 Thực tiễn
Dựa vào các dữ kiện và số liệu phân tích khoa học để từ đó nắm được tình
hình thực tế về việc phát triển du lịch tại làng nghề trong giai đoạn hiện nay, tìm ra
những thuận lợi và khó khăn để có thể đưa ra các hướng phát triển sau này.
Đưa ra một số ý kiến, giải pháp và phương hướng để phát triển làng nghề
bằng con đường quảng bá du lịch.
Góp phần giới thiệu về một làng nghề truyền thống độc đáo của Bình Dương
đối với khách du lịch trong và ngồi nước.

8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia
làm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương này chủ yếu trình bày các khái niệm làm cơ sở lý luận nghiên cứu đề
tài; Tổng quan về làng sơn mài truyền thống Tương Bình Hiệp.

Chương 2: Thực trạng bảo tồn làng nghề truyền thống sơn mài Tương
Bình Hiệp trong định hướng phát triển du lịch ở Bình Dương
Chương này trình bày thực trạng hoạt động, những thành tựu cũng như hạn
chế của việc bảo tồn và phát triển làng nghề gắn với phát triển du lịch trong thời
gian vừa qua. Phân tích SWOT để đánh giá được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ
hội và thách thức của làng nghề trong bối cảnh hiện nay. Từ đó, có những khuyến
nghị và giải pháp trong chương 3.


10

Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển du lịch làng nghề sơn
mài Tương Bình Hiệp - Bình Dương
Chương này dựa trên cơ sở chủ trương quan điểm của Đảng - Nhà nước và
điều kiện thực tiễn thông qua phân tích SWOT, luận văn đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý; đồng thời gợi mở một hướng đi mới
cho việc phát triển văn hóa làng nghề truyền thống trong giai đoạn hiện nay.


11

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN
VỀ LÀNG SƠN MÀI TƯƠNG BÌNH HIỆP
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số khái niệm liên quan đề tài
 Làng
Ở Việt Nam làng xã đã hình thành từ thời các vua Hùng dựng nước, đầu tiên
những xóm làng định canh đã hình thành dựa trên cơ sở những công xã nông thôn.
Mỗi công xã gồm một gia đình sống quây quần trong một khu địa giới nhất định.

Và cũng từ rất lâu đời ba thực thể xã hội gồm: nhà – làng – nước với ba cấp
độ khác nhau về không gian kinh tế, xã hội, nhưng lại có mối quan hệ liên kết chặt
chẽ với nhau tạo nên sức mạnh của làng, của nước. Những thành viên trong làng
gắn bó với nhau bằng những khế ước sinh hoạt mang tính cộng đồng, những lễ hội,
tín ngưỡng và luật lệ, hương ước riêng nhằm liên kết với nhau trong cuộc sống hàng
ngày và trong lao động sản xuất.
“Làng là sự liên kết chặt chẽ dịng họ, xóm ngõ, phe giáp, phường hội mà
mỗi gia đình là thành viên của những thành tố ấy” [9, tr.25].
Làng xã Việt Nam từ bao đời nay thường gắn liền với nông nghiệp và nền
kinh tế tiểu nông. Bởi nước ta là một quốc gia sống bằng nghề nơng nghiệp lúa
nước là chính. Ngay từ những buổi đầu, phần lớn người dân trong làng đều làm
nông nghiệp, về sau có những bộ phận dân cư sống bằng nghề khác, những lúc nông
nhàn người dân làm thêm một vài sản phẩm thủ công phục vụ cho nhu cầu cuộc
sống hàng ngày như dệt vải, đan lát,… theo thời gian họ liên kết chặt chẽ với nhau,
lập ra những tổ chức theo nghề nghiệp, tạo thành các phường hội như: phường dệt
vải, phường làm gốm, phường điêu khắc gỗ… Cũng từ đó, các nghề được lan
truyền và phát triển thành làng nghề.
Bên cạnh những người chuyên làm nghề, thì đa phần người dân vừa sản xuất
nơng nghiệp làm hình thức kinh tế chính vừa làm nghề như hoạt động kinh tế phụ.


12

Nhưng do nhu cầu trao đổi hàng hóa ngày càng tăng, các nghề mang tính chun
mơn ban đầu chỉ giới hạn trong quy mô nhỏ “làng” dần dần tách khỏi nông nghiệp
để chuyển hẳn sang thành nghề thủ công. Cũng từ đây bên cạnh nông nghiệp, nghề
thủ công cũng giữ một vai trò quan trọng, trở thành hoạt động kinh tế chính của một
bộ phận cư dân. Càng về sau xu thế người lao động tách khỏi đồng ruộng, chuyên
làm nghề thủ cơng và sống bằng chính nghề đó ngày một tăng. Từ đó tạo cơ sở cho
những làng nghề phát triển mạnh và tồn tại lâu dài.

“Làng là một đơn vị hành chính từ cổ xưa, mà cũng có nghĩa là một nơi quần
cư đơng người, sinh hoạt có tổ chức, kỷ cương, tập quán riêng theo nghĩa rộng.
Làng nghề không những là một làng sống chuyên nghề mà cũng hàm ý là những
người cùng nghề sống hợp quần để phát triển công ăn việc làm” [33, tr.10].
 Làng nghề
Theo Phạm Côn Sơn trong cuốn Làng nghề truyền thống Việt
Nam, làng nghề được định nghĩa như sau: “Làng nghề là một đơn vị hành
chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là nơi quần cư đơng người, sinh hoạt có tổ chức, kỉ
cương tập quán riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là làng sống chuyên
nghề mà cũng hàm ý là những người cùng nghề sống hợp quần để phát triển công
ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự vừa làm ăn tập thể, vừa phát
triển kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và các cá biệt của địa phương”.
Cùng với trồng trọt và chăn nuôi, hầu hết dân cư sống ở vùng nơng thơn đều
có hoạt động thêm một số nghề thủ cơng với mục đích ban đầu sản xuất ra một số
hàng gia dụng phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống của hộ gia đình mang tính
chất tự cung tự cấp trên cơ sở sử dụng nguồn ngun liệu sẵn có.
Nhưng qua một q trình dài phát triển do có sự khác nhau về tay nghề và
kinh nghiệm tích lũy được ở từng địa phương nhất định đã có sự chun mơn hố
và các sản phẩm làm ra bắt đầu đưa ra thị trường trao đổi như những loại hàng hố.
Đó là q trình chun mơn hố lâu đời và các sản phẩm của địa phương đó khơng
những bền đẹp mà có giá thành rẻ nên được xã hội chấp nhận. Chẳng hạn như làng
gốm Bát Tràng, hoặc nghề rèn ở Đa Sỹ…Hầu hết các địa phương trên cả nước ở


13

làng q nào ngồi sản xuất nơng nghiệp đều có làm thêm một vài nghề phụ. Song
vấn đề quan tâm ở đây là những hoạt động ngành nghề nào được gọi là nghề.
Theo quan điểm chung, các hoạt động sản xuất tiểu thủ cơng nghiệp ở địa
phương nào đó được gọi là nghề khi tạo ra được một khối lượng sản phẩm chiếm

lĩnh thị trường thường xuyên và những người sản xuất, hoặc hộ sản xuất đó lấy
nghề đang hành làm nguồn thu chủ yếu thì mới được xem là có nghề như cha ơng
thường nói “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”.
Từ khái niệm làng và nghề trình bày trên đây, chúng ta sẽ đi vào việc nhận
dạng khái niệm làng nghề. Khái niệm này có từ lâu đời nó nhằm phân biệt với khái
niệm phường hội ở khu vực đơ thị mà đặc điểm nổi bật nhất là trình độ và công
nghệ làng nghề ở khu vực nông thôn vẫn mang nặng hoạt động thủ công và gắn với
sản xuất nơng nghiệp. Tuy nhiên, để có một khái niệm đầy đủ về làng nghề cần
thống nhất một số quan điểm sau:
Một làng được gọi là làng nghề khi hội tụ 2 điều kiện sau:
- Có một số lượng tương đối các hộ cùng sản xuất một nghề.
- Thu nhập do sản xuất nghề mang lại chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu
nhập của làng. Như vậy, không phải bất kỳ làng nào có hoạt động ngành nghề cũng
gọi là làng nghề mà cần có qui định một số tiêu chuẩn nhất định.
Có quan điểm cho rằng “Làng nghề, phường nghề là nơi giữ nghề thủ công
lâu đời. Nghề thủ cơng đó, đã thu hút hầu hết mọi lao động chính ở vùng đó tham
gia và tạo ra giá trị kinh tế chính cho khu vực nơi đó” [37, tr.11].
Theo một cách tiếp cận khác, trong cơng trình nghiên cứu“Phát triển làng
nghề truyền thống trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”, tiến sĩ Mai Thế
Hởn đã đưa ra các tiêu chí để xác định làng nghề như sau:
Tiêu chí thứ nhất: Làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người trong làng đều
hoạt động cho nghề ấy và lấy đó làm nghề sống chủ yếu.
Tiêu chí thứ hai: Làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ công, ở đây
không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công,
nhiều khi cũng là người làm nghề nông, nhưng do nhu cầu chun mơn hóa cao đã


14

tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng thủ công truyền thống ngay tại làng

nghề hay phố nghề ở nơi khác.
Tiêu chí thứ ba: Làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các
nghệ nhân và hộ gia đình chuyên tâm làm nghề truyền thống lâu đời, có sự liên kết
hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ và
có cùng tổ nghề.
Có thể khẳng định rằng khi nói đến làng nghề là gắn liền với các nghề thủ
công cụ thể. Tên gọi của làng nghề gắn liền với tên gọi của các nghề thủ công như:
dệt, gốm sứ, điêu khắc gỗ…
Sự hình thành các làng nghề là biểu hiện của trình độ phân cơng lao động xã
hội, nó được hình thành khi thủ cơng nghiệp từng bước tách rời nông nghiệp. Đồng
thời ngay trong những làng trên lại xuất hiện lớp người buôn bán những sản phẩm
do gia đình hay phường hội của họ sản xuất, được coi là một hình thức kinh tế theo
lối tự sản tự tiêu.
Theo quy định của Nhà nước hiện nay thì một làng chỉ được công nhận là
làng nghề khi đạt 4 tiêu chí sau:
- Có tối thiểu 50% tổng số lao động hoặc 30% số hộ của các làng tham gia
các hoạt động sản xuất, kinh doanh liên quan đến ngành nghề nơng thơn.
- Có tỷ trọng giá trị sản xuất ngành nghề nông thôn chiếm tối thiểu 50%
tổng giá trị sản xuất của làng trong năm (tính theo giá sản xuất).
- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm liên tục tính đến
thời điểm đề nghị công nhận.
- Chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, các quy định của chính quyền địa phương.
 Làng nghề truyền thống
Để hiểu thế nào là làng nghề truyền thống, trước hết cần phải nắm rõ khái
niệm về nghề truyền thống: Nghề truyền thống là nghề được hình thành từ lâu đời,
tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến
ngày nay hoặc đang có nguy cơ bị mai một, thất truyền.



15

Nghề truyền thống phải đạt 3 tiêu chí sau1:
- Thứ nhất đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm.
- Thứ hai tạo ra sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc.
- Thứ ba phải gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của
làng nghề.
Dựa vào quá trình hình thành các làng nghề truyền thống trước đây tại miền
Bắc, miền Trung, các nhà nghiên cứu cho rằng các làng nghề truyền thống phải hội
đủ yếu tố sau đây: Đã hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời; Sản xuất tập trung,
tạo thành các làng nghề, xóm nghề, phố nghề; Có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và
đội ngũ thợ lành nghề; Có kỹ thuật và cơng nghệ ổn định; Sử dụng nguyên vật liệu
tại chỗ hoặc là chủ yếu nhất; Là nghề nghiệp nuôi sống một bộ phận cư dân của
cộng đồng và có đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước; Sản phẩm làm ra tiêu
biểu và độc đáo của Việt Nam có giá trị và chất lượng cao, vừa là hàng hóa vừa là
sản phẩm văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật, thậm chí có thể trở thành tác phẩm nghệ
thuật giá trị của địa phương.
Như vậy có thể khẳng định rằng: Làng nghề truyền thống là những thôn làng
có một hay nhiều nghề thủ cơng truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản
xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chiếm phần chủ yếu trong năm. Những
nghề thủ cơng đó được truyền từ đời này qua đời khác, thường là nhiều thế hệ.
Cùng với thử thách của thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở thành nghề nổi
trội, một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp nghề thủ công chuyên nghiệp
hay bán chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất, có quy trình cơng đoạn nhất định và
sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ và đã trở thành hàng
hóa trên thị trường.
Và theo quy định của Nhà nước để được công nhận làng nghề truyền thống
thì làng ấy phải: Là làng nghề phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề
truyền thống.


1

Nghị định số 52/2018/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn, ngày 14/8/2014.


16

 Bảo tồn
Theo Từ điển Tiếng Việt: bảo tồn là hoạt động bảo vệ, gìn giữ khơng để bị
mất, tổn thất.
Theo Nguyễn Kim Loan: bảo vệ là hoạt động nhằm gìn giữ khơng để các di
sản bị thất thốt, hư hỏng; cịn bảo tồn là hoạt động nhằm gìn giữ và tôn tạo di sản
cho giữ được nguyên bản ban đầu của chúng… Tổ chức khai thác và phát huy các
giá trị của di sản văn hóa, chính là hoạt động biến các giá trị của di sản văn hóa
thành nguồn lực phát triển kinh tế xã hội [26, tr.347].
Trong bài viết “Bảo tồn di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay” của tác giả
Quản Hoàng Linh cho rằng: Bảo quản mang nghĩa sử dụng những biện pháp kỹ
thuật để gìn giữ, chăm sóc đối tượng được ngun vẹn, tồn tại lâu dài. Bảo vệ chứa
đựng nội dung thực hành các hoạt động mang tính chất pháp lý hay nói cách khác là
giữ khơng để cho bị xâm phạm. Bảo tồn mang nghĩa rộng hơn, là hoạt động giữ gìn
một cách an tồn khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá hoại, nói cách khác là bảo
quản kết cấu một địa điểm ở hiện trạng và hãm sự xuống cấp của kết cấu đó. Phát
huy được hiểu là những tác động làm cho cái hay, cái đẹp, cái tốt tỏa tác dụng và
tiếp tục nảy nở từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ cao đến thấp, từ đơn giản đến
phức tạp [25, tr.337].
 Phát huy
Phát huy và phát triển, là hai khái niệm thuật ngữ khác biệt nhau. Phát huy,
một thuật ngữ chỉ những thay đổi bên ngoài các hiện tượng sự vật. Phát triển, là
thuật ngữ nói đến sự biến đổi nội dung bên trong các hiện tượng sự vật. Phát huy là
làm cho cái hay, cái tốt lan rộng có tác dụng và tiếp tục phát triển hơn. Hai khái

niệm phát huy, phát triển bổ trợ nhau cùng tồn tại bền vững một hiện tượng, sự vật
trong đời sống tự nhiên – xã hội.
Điểm lại một số Nghị quyết gần đây của Đảng về văn hóa, văn nghệ thường
sử dụng khái niệm phát huy, phát triển nhưng cụ thể trong từng khái niệm mang ý
nghĩa riêng.


17

Tại Nghị quyết TW khóa 8, phần II nói về “Xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết TW khóa 9, tiêu đề là:
“Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam”. Tại phần II, mục 2 viết:
“Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong
đa dạng với đặc trưng: Dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Tiếp theo mục 3
nói: “ Phát triển văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa”. Phần III, mục 2 nêu: “ Phát huy giá trị truyền thống
tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh”. Mục 6, viết: Chủ
động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát triển tài
năng tâm huyết của trí thức văn nghệ sỹ Việt Nam ở nước ngoài tham gia phát
triển văn hóa đất nước trở thành cầu nối quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, con
người Việt Nam”.
Trong các văn bản, nghị quyết của TW thường sử dụng các khái niệm: Phát
triển đi với cụm từ xây dựng, còn khái niệm phát huy đi với các giá trị truyền thống
tốt đẹp. Thực hiện Nghị quyết Trung ương, là các Nghị định của Thủ tướng Chính
phủ: Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, nêu: Phát huy các giá trị văn hóa truyền thống,
hỗ trợ việc đầu tư, giữ gìn bảo tồn các di tích lịch sử, văn hóa được nhà nước xếp
hạng”. Nói về chính sách bảo tồn, phát huy các lễ hội truyền thống tốt đẹp của đồng
bào dân tộc thiểu số”. Quyết định 1270/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Bảo tồn, phát
triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020, nêu: “ Bảo tồn phát
huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số phù hợp với tình hình

thực tế, đặc biệt chú trọng địa bàn các dân tộc có nguy cơ bị biến dạng văn hóa
cao”… “Ưu tiên đầu tư cho việc giữ gìn và phát huy các loại hình nghệ thuật biểu
diễn truyền thống các dân tộc thiểu số, sưu tầm phục hồi và phát triển một số loại
hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ thất truyền”.
Luật Di sản tại chương I, điều 2 quy định: Các hoạt động bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa, xác định quyền và nghĩa vụ của tổ chức cá nhân đối các di
sản văn hóa.” Điều 12 viết: “1. Phát huy giá trị di sản văn hóa vì lợi ích của toàn xã
hội”. 2: “Phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng đồng Việt Nam”. Điều 24 ghi:


18

“Nhà nước khuyến khích việc duy trì, phục hồi và phát triển các nghề thủ cơng
truyền thống có giá trị tiêu biểu”…
Khái niệm phát huy luôn đi với truyền thống, nghĩa là cụm từ phát huy sử
dụng trong quan niệm bảo tồn vốn cổ, thường là những di sản văn hóa vật thể, cả
văn hóa phi vật thể. Suy đến cùng thì khái niệm phát huy, là làm cho những giá trị
văn hóa, nghệ thuật truyền thống lan tỏa trong cộng đồng xã hội. Phát huy, là giữ
nguyên các giá trị lịch sử truyền thống giới thiệu đến nhiều người hiểu biết quan
tâm, yêu quý chân trọng học tập theo gương tốt.
 Di sản văn hóa
Điều 1, Luật Di sản văn hoá năm 2013 quy định: “Di sản văn hoá bao gồm
di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất
có giá trị lịch sử, văn hố, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác
ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Luật cũng khẳng định: “Di sản văn
hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ
phận của di sản văn hố nhân loại, có vai trị to lớn trong sự nghiệp dựng nước và
giữ nước của nhân dân ta”.[48]
Trong Luật di sản văn hố, làng nghề và bí quyết làng nghề được xác định là
di sản văn hoá phi vật thể. Điều 4 của Luật định nghĩa khái niệm di sản văn hoá phi

vật thể như sau: “Di sản văn hố phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử,
văn hoá, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng
miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm
tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng,
diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết nghề thủ công truyền
thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hoá ẩm thực, về trang phục truyền
thống dân tộc và những tri thức dân gian khác”. [48]
Khi nghiên cứu bảo tồn, phát huy di sản văn hố phi vật thể, cần có quan
điểm bảo tồn động và hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa là
một q trình lâu dài, bền vững chính vì thế vai trị của người dân rất quan trọng.
Họ chính là chủ thể văn hóa, họ hưởng thụ những giá trị văn hóa lịch sử của các di


19

tích lịch sử văn hóa đó. Thơng qua việc tun truyền giáo dục ý thức tự giác của
người dân và cơng tác bảo tồn và phát huy di tích lịch sử văn hóa. Từ đó, khơi dậy
lịng tự hào của người dân đối với di tích mà họ đang hưởng thụ.
 Khái niệm về du lịch
Tổ chức du lịch thế giới (WTO) năm 1995 đưa ra thuật ngữ: “Du lịch là
các hoạt động của con người liên quan đến việc dịch chuyển tạm thời của con
người đến một điểm đến nào đó bên ngồi nơi mà họ sống và làm việc thường
xuyên cho mục đích giải trí và các mục đích khác”.
Luật Du lịch của Việt Nam (2005) định nghĩa: “Du lịch là các hoạt động có
liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình
nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng
thời gian nhất định”.
Qua hai khái niệm cơ bản trên có thể hiểu, con người có nhu cầu đi du lịch là
để khám phá, tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng… tại các điểm đến du lịch ngoài nơi
cư trú của khách du lịch. Và trong luận văn, tác giả sử dụng định nghĩa về “Du

lịch” theo Luật Du lịch của Việt Nam (2005) để phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Ngày nay du lịch trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến. Hiệp hội
lữ hành quốc tế đã công nhận du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới vượt lên
cả ngành sản xuất ô tô, thép điện tử và nơng nghiệp. Vì vậy, du lịch đã trở thành
một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới. Thuật ngữ du lịch đã
trở nên khá thông dụng, nó bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là đi một vòng.
Du lịch gắn liền với nghỉ ngơi, giải trí, tuy nhiên do hồn cảnh, thời gian và khu vực
khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau nên khái niệm du lịch cũng
không giống nhau. Luật Du lịch Việt Nam (2005) đã đưa ra khái niệm như sau: “Du
lịch là các hoạt động liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú
thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ
dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. Theo Liên hiệp Quốc tế các tổ chức
lữ hành chính thức (International Union of Official Travel Oragnization: IUOTO):
Du lịch được hiểu là hành động du hành đến một nơi khác với địa điểm cư trú


20

thường xun của mình nhằm mục đích khơng phải để làm ăn, tức không phải để
làm một nghề hay một việc kiếm tiền sinh sống... Tại hội nghị Liên hiệp Quốc về du
lịch họp tại Roma - Italia (21/8 - 5/9/1963), các chuyên gia đưa ra định nghĩa về du
lịch: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt
nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở
thường xuyên của họ hay ngồi nước họ với mục đích hịa bình. Nơi họ đến lưu trú
không phải là nơi làm việc của họ. Theo các nhà du lịch Trung Quốc: hoạt động du
lịch là tổng hòa hàng loạt quan hệ và hiện tượng lấy sự tồn tại và phát triển kinh tế,
xã hội nhất định làm 7 cơ sở, lấy chủ thể du lịch, khách thể du lịch và trung gian du
lịch làm điều kiện.
Theo I.I pirôgionic, 1985: Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong
thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú

thường xuyên nhằm nghĩ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao
trình độ nhận thức văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự
nhiên, kinh tế và văn hoá. Theo nhà kinh tế học người Áo Josep Stander nhìn từ góc
độ du khách: khách du lịch là loại khách đi theo ý thích ngồi nơi cư trú thường
xuyên để thoả mãn sinh hoạt cao cấp mà khơng theo đuổi mục đích kinh tế. Nhìn từ
góc độ thay đổi về không gian của du khách: du lịch là một trong những hình thức
di chuyển tạm thời từ một vùng này sang một vùng khác, từ một nước này sang một
nước khác mà không thay đổi nơi cư trú hay nơi làm việc. Nhìn từ góc độ kinh tế:
Du lịch là một ngành kinh tế, dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ cho nhu cầu tham quan
giải trí nghỉ ngơi, có hoặc khơng kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao,
nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác. Theo bản chất du lịch, nhìn từ góc độ
nhu cầu của du khách: Du lịch là một sản phẩm tất yếu của sự phát triển kinh tế - xã
hội của loài người đến một giai đoạn phát triển nhất định. Chỉ trong hoàn cảnh kinh
tế thị trường phát triển, gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng thời gian rỗi do
tiến bộ của khoa học - công nghệ, phương tiện giao thông và thông tin ngày càng
phát triển, làm phát sinh nhu cầu nghỉ ngơi, tham quan du lịch của con người. Bản


×