Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.96 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 2
NỘI DUNG....................................................................................................................... 2
I. Quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế.........................2
1. Một số khái niệm liên quan.....................................................................................2
2. Quy định về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế..................................................3
3. Quy định về biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế...................3
II. Thực tiễn thực hiện quy định bình đẳng giới trong kinh tế..................................8
1. Thành tựu, kết quả đạt được trong việc thực hiện quy định bình đẳng giới trong
kinh tế.......................................................................................................................... 8
2. Hạn chế trong việc thực hiện quy định pháp luật về bình đẳng giới........................9
III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật về
bình đẳng giới về lĩnh vực kinh tế..............................................................................11
KẾT LUẬN.....................................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................17

1


MỞ ĐẦU
Nói đến bình đẳng giới về cơ bản là nói đến sự bình đẳng về quyền của phụ nữ với
nam giới. Trong đó vấn đề quyền con người của phụ nữ chính là sự bình đẳng về vị thế,
cơ hội và các quyền của phụ nữ với nam giới. Đấu tranh cho bình đẳng giới chinh là đấu
tranh cho các quyền của con người của phụ nữ và ngược lại. Hoà vào xu hướng chung
của thế giới, Việt Nam đã và đang cam kết rất mạnh mẽ trong việc bảo đảm bình đẳng
giới của phụ nữ và nam giới về mọi mặt. Một trong số đó chính là bình đẳng giới trong
lĩnh vực kinh tế. Lĩnh vực kinh tế có thể nói là một trong những yếu tố quan trọng khơng
chỉ đối với quốc gia mà cịn là lĩnh vực đặc biệt quan trọng đối với bình đẳng giới. Như
vậy, thực tiễn pháp luật hiện nay đang quy định như thế nào? Thực tiễn thực hiện pháp
luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế được thể hiện ra sao? Để làm sáng tỏ những
câu hỏi trên, nhóm chúng em xin lựa chọn đề tài: “Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện.” là chủ đề của bài tập nhóm.


NỘI DUNG
I. Quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
1. Một số khái niệm liên quan
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật Bình đẳng giới:
“Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội.”
Theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới:
“Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ
hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ
hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.”
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế là biện pháp bảo đảm bình
đẳng giới thực chất, theo đó khi áp dụng biện pháp này sẽ rút ngắn khoảng cách giới
trong lĩnh vực kinh tế, góp phần bảo đảm bình đẳng giới trên thực tế.1
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới - Vấn đề lý luận và thực tiễn :đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Trường Đại học
Luật Hà Nội
1

2


2. Quy định về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật bình đẳng giới quy định về bình đẳng giới
trong lĩnh vực kinh tế:
“Nam, nữ bình đẳng trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất,
kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, bình đẳng trong việc tiếp cận thơng tin, nguồn vốn,
thị trường và nguồn lao động”.
Trên cơ sở đó, vấn đề giải quyết việc làm, tạo điều kiện phát triển kinh tế cho lao động
nữ đã được quan tâm triển khai thực hiện. Bình đẳng giới nói chung, bình đẳng giới trong
lĩnh vực kinh tế nói riêng thể hiện ở việc đều phải có sự tham gia của cả nam và nữ vào
cơ quan quản lý, lãnh đạo trong hoạt động kinh tế, trong các ngành nghề kinh doanh. Quy
định trên còn thể hiện ở việc tạo điều kiện, hỗ trợ cho cả nam và nữ, nhất là phụ nữ nghèo

có cơ hội tiếp cận trực tiếp với nguồn vốn vay một cách thuận lợi, giúp nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn, tăng thu nhập, cải thiện đời sống; tạo ra vị thế để người phụ nữ được tương
xứng, có khả năng tiếp cận, kiểm sốt các nguồn lực; tạo điều kiện trong việc xây dựng
các doanh nghiệp của nữ chủ, do nữ quản lý… Như vậy, pháp luật Việt Nam nói chung
và pháp luật liên quan đến kinh tế nói riêng khơng có quy định nào hạn chế việc nam, nữ
tham gia vào quá trình thành lập; tiến hành, quản lý hoạt động kinh doanh.
3. Quy định về biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được hiểu là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng
giới thực chất, do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ ban hành trong
trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trị, điều kiện, cơ hội phát
huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như
nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này. 2 Biện pháp thúc đẩy bình
đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục đích bình
đẳng giới đã đạt được. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 12 Luật Bình đẳng giới 2006 quy định
các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế bao gồm:
“2. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế bao gồm:
2

Khoản 1 Điều 14 Nghị định 48/2009/NĐ – CP biện pháp bảo đảm bình đẳng giới

3


a) Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy
định của pháp luật;
b) Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nơng, khuyến lâm,
khuyến ngư theo quy định của pháp luật.”
3.1. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy
định của pháp luật
Theo quy định tại Điều 74 Nghị định 145/2020/NĐ – CP, doanh nghiệp sử dụng nhiều

lao động nữ là doanh nghiệp thuộc một trong các trường hợp sau:
- Sử dụng từ 10 lao động nữ đến dưới 100 lao động nữ, trong đó số lao động nữ chiếm
50% trở lên so với tổng số lao động.
- Sử dụng từ 100 lao động nữ đến dưới 1000 lao động nữ, trong đó số lao động nữ
chiếm 30% trở lên so với tổng số lao động.
- Sử dụng từ 1000 lao động nữ trở lên.
Nếu doanh nghiệp thuộc trong các trường hợp thoả mãn các điều kiện trên thì doanh
nghiệp sẽ được hưởng các ưu đãi về thuế và tài chính. Cụ thể theo quy định tại Khoản 1
Điều 15 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ được giảm thuế thu nhập
doanh nghiệp. Theo đó số chi thêm cho lao động nữ sẽ được tính vào khoản giảm trừ để
tính thuế thu nhập doanh nghiệp3.
Trong đó số chi thêm được tính vào khoản giảm trừ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
gồm:
- Chi cho cơng tác đào tạo lại nghề cho lao động nữ trong trường hợp nghề cũ khơng
cịn phù hợp phải chuyển đổi sang nghề khác theo quy hoạch phát triển của doanh nghiệp.
- Chi phí tiền lương và phụ cấp (nếu có) cho giáo viên dạy ở nhà trẻ, mẫu giáo do
doanh nghiệp tổ chức và quản lý.
- Chi phí tổ chức khám sức khoẻ thêm trong năm như khám bệnh nghề nghiệp, mãn
tính hoặc phụ khoa cho nữ cơng nhân viên.
3

Thơng tư 96/2015/TT – BTC ngày 22/06/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn về Thuế thu nhập doanh nghiệp.

4


- Chi bồi dưỡng cho lao động nữ sau khi sinh con lần thứ nhất hoặc lần thứ hai.
- Phụ cấp làm thêm giờ cho lao động nữ vì lý do khách quan người lao động nữ không
nghỉ sau khi sinh con, nghỉ cho con bú mà ở lại làm việc cho doanh nghiệp được trả theo
chế độ hiện hành; kể cả trường hợp trả lương theo sản phầm mà lao động nữ vẫn làm việc

trong thời gian không nghỉ theo chế độ.
Ngồi ra biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế cũng tạo điều kiện
để phụ nữ tham gia khởi nghiệp, thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là đối
việc thành lập, tiến hành hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ
nữ làm chủ. Theo đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ là doanh nghiệp nhỏ
và vừa có một hoặc nhiều phụ nữ sở hữu từ 51% vốn điều lệ trở lên, trong đó có ít nhất
một người quản lý điều hành doanh nghiệp đó. 4 Thêm vào đó, quy định tại khoản 5 Điều
5 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017:
“Trường hợp nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa cùng đáp ứng điều kiện hỗ trợ theo quy
định của Luật này thì ưu tiên lựa chọn doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ,
doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nhiều lao động nữ hơn.”
Như vậy, pháp luật đã có sự ưu tiên rõ ràng hơn đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa
do phụ nữ là chủ và doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nhiều lao động nữ hơn. Theo đó
doanh nghiệp nhỏ và vừa phải đồng thời đáp ứng các điều kiện để được hỗ trợ và đảm
bảo điều kiện do phụ nữ làm chủ hoặc sử dụng nhiều lao động nữ hơn thì sẽ được ưu tiên
hỗ trợ về tài chính. Điều này sẽ thúc đẩy phụ nữ thực hiện việc khởi nghiệp, đứng đầu
làm chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh vì họ sẽ nhận được nhiều ưu đãi về tài
chính. Hơn nữa các doanh nghiệp này còn được hỗ trợ tư vấn pháp lý, hỗ trợ đào tạo, hỗ
trợ vay vốn để phát triển kinh doanh. Việc này sẽ giúp các doanh nghiệp do lao động nữ
đứng đầu hạn chế được nhiều rủi ro hơn làm toàn diện hơn việc hỗ trợ cho doanh nghiệp
do phụ nữ làm chủ.

4

Khoản 1 Điều 3 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017

5


3.2. Biện pháp hỗ trợ tín dụng, khuyến nơng, khuyến lâm, khuyến ngư đối với phụ nữ

nông thôn
Cho đến nay chúng ta vẫn không thể phủ nhận được ưu thế của lao động nữ ở nông
thôn. Tuy nhà nước đã có rất nhiều chính sách để cải thiện chất lượng cuộc sống ở nông
thôn nhưng phụ nữ nông thông vẫn phải chịu nhiều thiệt thịi. Hơn nữa tại nơng thơng
vấn đề bình đẳng giới lại là vấn đề khó tháo gỡ vì một số phong tục tập quán khiến những
định kiến giới ở nơng thơn trở nên sâu sắc. Ngồi ra, đời sống kinh tế tại nông thôn chủ
yếu phụ thuộc và nông nghiệp nên bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tính thời vụ làm gia tăng tỷ
lệ thiếu việc làm và hiệu quả lao động chưa cao. 5 Dẫn đến thu nhập của người nông dân
là không cao, việc này dẫn đến nguồn lực về tài chính của chính người nông dân là không
đủ để phát triển mạnh mẽ và đa dạng hơn theo chủ trương Nhà nước đưa ra. Để thúc đẩy
và giải quyết vấn đề trên Nhà nước đã đưa ra các biện pháp hỗ trợ tín dụng, khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư đối với phụ nữ nơng thơn nói riêng và tồn bộ lao động nơng
thơn nói chung.
Về biện pháp hỗ trợ tín dụng cho phụ nữ nơng thơn có thể thấy Nhà nước đã có những
nỗ lực đặc biệt trong việc giúp phụ nữ nông thơn có cơ hội tiếp cận với nguồn lực về tài
chính. Nguồn lực tài chính là vấn đề quan trọng đối với tất cả mọi người trong mọi thành
phần kinh tế. Do đó người lao động ở nơng thơn khơng riêng gì phụ nữ cần có nguồn lực
tài chính để thúc đẩy họ tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho
thật hiệu quả. Cụ thể các chính sách nhà nước đưa ra là việc tăng mức vay đối với việc
cho vay khơng có tài sản bản đảm đối với các đối tượng là cá nhân, hộ gia đình, hộ kinh
doanh, hợp tác xã, chủ trang trại. Ngồi ra cịn có các chính sách ưu đãi về mức vốn
nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp theo mơ hình liên kết chuỗi giá trị, ứng dụng cơng
nghệ cao trong nơng nghiệp. Ngồi ra các quy định về khoanh nợ, ân hạn, giảm thủ tục
hành chính cũng được chú trọng thực hiện theo hướng mở rộng và đơn giản hoá thủ tục.
Nhằm tạo điều kiện cho một phần lớn lực lượng lao động tại nông thôn là phụ nữ nói
riêng và lực lượng lao động tại nơng thơn nói chúng có điều kiện tiếp cận nguồn lực về
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới - Vấn đề lý luận và thực tiễn :đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Trường Đại học
Luật Hà Nội
5


6


tài chính đế đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và khởi nghiệp. Nhìn rộng hơn chúng
ta có thể thấy Nhà nước đã thực hiện được cùng một lúc hai mục tiêu lớn. Chính là việc
vừa thúc đẩy được bình đẳng giới và vừa khơi thơng được dịng vốn tín dụng chảy về
nơng thơn tạo điều kiện cho việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô, điều tiết thị trường tại Việt
Nam.
Các biện pháp về khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cũng được Nhà nước chú
trọng hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý để thực hiện việc thúc đẩy bình đẳng giới trong kinh
tế. Khuyến nơng là hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, thông tin, truyền bá kiến thức
và đào tạo tay nghề cho nông dân nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả sản xuất, kinh
doanh nông nghiệp, bảo vệ môi trường và xây dựng nông thôn mới. 6 Như vậy, các biện
pháp về khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc
hiện đại hố, cơng nghiệp hố kinh tế tại nơng thơn và đóng góp vào việc xây dựng, phát
triển nông nghiệp theo chuỗi liên kết, ứng dụng công nghiệp hiện đại vào sản xuất. Một
trong các nguyên tắc cơ bản của chính sách khuyến nơng được quy định tại khoản 9 Điều
4 Nghị định 83/2018/NĐ – CP là việc ưu tiên phụ nữ, người dân tộc thiểu số, tổ chức có
tỷ lệ cao về nữ hoặc người dân tộc thiểu số tham gia hoạt động khuyến nông. Điều này
cho thấy Nhà nước đã có nỗ lực rất lớn trong việc tạo ra cơ sở pháp lý ưu tiên cho phụ nữ
thụ hưởng các biện pháp, chính sách khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư.
II. Thực tiễn thực hiện quy định bình đẳng giới trong kinh tế
1. Thành tựu, kết quả đạt được trong việc thực hiện quy định bình đẳng giới trong
kinh tế
Thực tiễn hiện nay cho thấy, việc xây dựng phát triển chiến lược kinh tế cần phải đi
đơi với các chính sách về nhân lực cũng như mơi trường,...trong đó BĐG là một vấn đề
đang rất nóng và được quan tâm rất nhiều. Nay ta khơng khó để thấy các doanh nghiệp
đứng đầu là phụ nữ, và đó được coi là một trong số những đầu tư thông minh, ổn định
được cạnh tranh về kinh tế và phát triển bền vững. 7 Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước
ta đã có những chính sách cũng như đưa ra cho các Bộ những ý kiến để xây dựng về phát

triển doanh nghiệp những năm 2021-2025 đặc biệt trong đó phải lồng ghép tinh thần của
6

Nghị định 83/2018/NĐ – CP ngày 24/05/2018 của Chính phủ về khuyến nơng.

7

Một số vấn đề lý luận về biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế.

7


bình đẳng giới. Kết quả điều tra doanh nghiệp của Phịng Thương mại và Cơng nghiệp
Việt Nam (VCI) tính từ năm 2011 – 2019, tỷ lệ các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ có
xu hướng tăng. Số liệu này thể hiện ở năm 2017 là 22,4% đến năm 2018 là 25,8%. 8 Hiện
nay những nguyên tắc trao quyền cho phụ nữ là một sáng kiến chung của UN Women và
Cơ quan hiệp ước toàn cầu của Liên Hợp Quốc (UN Global Compact) cung cấp các
hướng dẫn thực hiện thúc đẩy bình đẳng giới trong doanh nghiệp từ năm 2014 được
VCCI, Hội đồng Doanh nhân nữ Việt Nam (dưới sự hỗ trợ của UN Women) đã xây dựng
Bộ tài liệu hướng dẫn vận dụng các nguyên tắc trao quyền cho phụ nữ trong thực hiện
BĐG của DN hoàn thiện và đưa vào áp dụng đại trà trong khu vực doanh nghiệp tại Việt
Nam. Như vậy, với các nguyên tắc này, các doanh nghiệp khởi nghiệp có thể tham chiếu
từ lúc bắt đầu xây dựng chiến lược phát triển công ty từ đó giúp họ có thêm thơng tin,
kiến thức về vấn đề này. Hay năm 2018, với tài trợ của Bộ Ngoại giao và Thương mại
Australia (DFAT) thông qua Dự án Investing in Women, Nhóm chuyên gia của
Economica đã thực hiện Báo cáo đánh giá tác động của chính sách bảo đảm, thúc đẩy
BĐG của người lao động để tham vấn về vấn đề này trong sửa đổi Bộ luật Lao động của
Việt Nam với 5 giải pháp cụ thể. 9 Để đẩy mạnh hoạt động về truyền thông dinh dưỡng
cũng như xây dựng mơ hình phụ nữ làm chủ kinh tế, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và
Nestlé Việt Nam phối hợp tổ chức chương trình “Nestle đồng hành cùng phụ nữ”. Giai

đoạn đầu của chương trình diễn ra trong 3 năm (2020-2022) và sau đó sẽ tiếp tục mở rộng
mơ hình trên tất cả các tỉnh trong cả nước nhằm hướng tới tăng cường chất lượng cuộc
sống và quyền năng cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ tại khu vực nơng thơn giúp nhiều mơ
hình khởi nghiệp cho chị em phụ nữ phát triển. Ngoài ra với sự hỗ trợ từ các chính sách
khuyến nơng, khuyến lâm, khuyến ngư được triển khai rộng rãi đã hỗ trợ hiệu quả cho
phụ nữ tham gia vào tổ chức sản xuất, kinh doanh, đầu tư phát triển hiệu quả. Đặc biệt có

Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới - Vấn đề lý luận và thực tiễn: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Trường Đại
học Luật Hà Nội
8

9

Hoàn thiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay, Lê Thị Vân Huyền, Học viện hành chính
quốc gia

8


thể thấy ở những vùng nơng thơn, chính sách này đã phần nào thúc đẩy và giải quyết việc
thoát nghèo và vượt qua khó khăn của cuộc sống.
2. Hạn chế trong việc thực hiện quy định pháp luật về bình đẳng giới
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong
lĩnh vực kinh tế còn tồn tại nhiều bất cập.
Thứ nhất, còn tồn tại sự chênh lệch lớn về tỷ lệ nam nữ khi tham gia hoạt động kinh tế.
Tỷ lệ phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế nói chung hay hoạt động quản lý, lãnh đạo ở các
cấp kinh tế nói riêng chưa bằng ⅓ nam giới. Ở những nhóm ngành như cơng nhân, cơng
việc có chun mơn và kỹ thuật cao và lực lượng vũ trang tỷ lệ nam giới thường chiếm
phần trăm cao hơn, bởi tỷ lệ phụ nữ được đào tạo cịn thấp. Ngồi ra số lượng doanh
nghiệp do phụ nữ làm chủ chiếm phần lớn ở lĩnh vực thương mại dịch vụ và có một số

ngành doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ thường rất thấp như trong lĩnh vực xây dựng,
cơng nghiệp. Tính trên bình diện chung, lương phụ nữ chỉ bằng 85% lương nam giới. 10
Hơn nữa, lao động nữ đang ở vị thế thấp hơn nam, phụ nữ chỉ chiếm 26,1% các vị trí lãnh
đạo, nhưng lại đóng góp tới 52,1% nhóm lao động giản đơn và 66,6% lao động gia đình. 11
Như vậy, cơ hội cho phụ nữ tiếp cận việc làm có thu nhập cao và các nguồn lực kinh tế
vẫn còn thấp hơn so với nam giới
Thứ hai, việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã hội về bình đẳng giới, xóa bỏ
định kiến giới trong hoạt động kinh tế cịn kém. Vì vậy, xã hội vẫn cho rằng nam giới là
trụ cột chính ni gia đình, cịn việc nội trợ là của phụ nữ. Đây là một trong những trở
ngại khi tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế, qua đó vơ tình tạo ra gánh
nặng kép cho người phụ nữ vừa phải tham gia phát triển kinh tế vừa chăm sóc gia đình.
Vì vậy, tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp hiện nay có xu hướng giảm. Đặc biệt là trong hai
năm dịch bệnh trở lại đây, các doanh nghiệp do nữ giới làm chủ có kế hoạch kinh doanh
kém lạc quan hơn. Tính riêng trong năm 2020, số lượng doanh nghiệp thành lập mới do
Trần Thị Thu Hà, “Thực hiện pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội”, luận văn
thạc sĩ luật học
11
Ngân Anh, Việc làm cho nữ giới: Chưa hết những rào cản, />10

9


phụ nữ làm chủ chiếm 29,56% trong tổng số doanh nghiệp thành lập mới trên toàn quốc,
nhưng số lượng doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ bị giải thể lên tới 33,33%.12
Thứ ba, việc thực hiện pháp luật còn chưa thực sự nghiêm túc. Theo Nghị định số
145/2020/NĐ-CP thì “Người lao động nữ trong thời gian bị hành kinh được nghỉ mỗi
ngày 30 phút; trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60 phút
trong thời gian làm việc, mà vẫn hưởng đủ lương”. Tuy nhiên, theo Kết quả khảo sát ở 34
doanh nghiệp trong 10 tỉnh, thành phố ở 3 miền Bắc – Trung – Nam của Ban nữ cơng –
Tổng Liên đồn lao động Việt Nam cho thấy phần lớn lao động nữ phản hồi rằng khơng

được hưởng những quyền trên. Cùng với đó, nhiều doanh nghiệp có hình thức tính lương
theo sản phẩm nên việc lao động nữ được nghỉ theo quy định trên cũng không được thể
hiện trong tiền lương. Vậy tại sao còn tồn tại nhiều hành vi vi phạm pháp luật về bình
đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế như vậy? Có thể nhận thấy chính sách đối với lao động
nữ vẫn chưa phù hợp với thực tiễn. Trong thực tiễn, việc lao động nữ có kinh được nghỉ
30 phút/ngày là không khả thi. Bởi đối với những doanh nghiệp hoạt động theo dây
chuyền sản xuất nếu một vị trí nghỉ thì cả dây chuyền sẽ phải dừng lại khiến sản xuất
đình trệ và gây thiệt hại về kinh tế.
Thứ tư, lợi ích các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được cịn hạn hẹp. Tuy
các chính sách dành cho doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ có rất nhiều nhưng có
rất ít doanh nghiệp làm các thủ tục xin đăng ký là doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động
nữ và tiến hành các thủ tục xin miễn giảm thuế. Bởi nếu xảy ra tình trạng có số lượng lớn
lao động nữ nghỉ sinh con cùng lúc thì doanh nghiệp rất khó khăn trong việc tìm lao động
thay thế. Chính vì vậy, số tiền ưu tiên này khơng đủ để doanh nghiệp chi tiêu vào các
khoản chế độ cho lao động nữ. Thực tiễn thực hiện biện pháp thúc đẩy ưu đãi thuế và tài
chính cho doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ cho thấy việc quy định của pháp luật
với việc thực hiện những quy định đó trong thực tế là khác xa nhau. Tưởng chừng việc
luật hóa các biện pháp thúc đẩy sẽ tạo điều kiện cho lao động nữ khắc phục được những
hạn chế để nâng cao vai trò, vị thế xã hội của mình cũng như đảm bảo quyền lợi cho lao
Phịng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), 2021, Báo cáo mơi trường kinh doanh tại Việt Nam - góc
nhìn của các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ
12

10


động nữ thì thực tế lại trở thành trở ngại lớn mà doanh nghiệp cũng như người lao động
phải tự đối mặt.
Thứ năm, hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cho phụ nữ ở nơng thơn
vẫn cịn những tồn tại nhất định như: Những hoạt động khuyến nông hay phát triển kinh

tế của phụ nữ nông thôn thường được thực hiện theo tập quán và kinh nghiệm truyền
thống, chưa chú trọng đào tạo kỹ năng nghề nông. Mặc dù phụ nữ đảm nhận đa phần các
công việc liên quan đến sản xuất nơng nghiệp, nhưng lại ít có cơ hội tham gia các lớp tập
huấn, nâng cao và bị hạn chế tiếp cận việc chuyển giao kiến thức khoa học kỹ thuật.
Chính những điều trên đã làm giảm năng suất lao động trong lĩnh vực nơng nghiệp từ đó
ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân.
III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật về bình
đẳng giới về lĩnh vực kinh tế.
Bên cạnh những thành cơng trong bình đẳng giới về lĩnh vực kinh tế ở nước ta thời
gian qua, vẫn còn tồn tại những định kiến giới, gây nên sự bất bình đẳng về giới, làm cho
người phụ nữ vẫn trở thành nhóm yếu thế trong xã hội và vẫn chưa thể đạt được bình
đẳng giới thực chất trong lĩnh vực kinh tế. Do đó, nhằm đảm bảo thực hiện quy định pháp
luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế cũng như đảm bảo cho những quy định đó
được thực hiện một cách có hiệu quả trong thực tiễn giúp cho nước ta có thể đạt được
bình đẳng giới thực chất về kinh tế, nhóm em xin đưa ra một số kiến nghị sau:
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế.
Qua việc phân tích thực tiễn thi hành quy định pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh
vực kinh tế ở trên, chúng ta có thể thấy rằng bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được
thì vẫn cịn tồn tại rất nhiều bất cập, mà một trong những nguyên nhân là do quy định
pháp luật còn lỏng lẻo, thiếu chính xác, thiếu tính khả thi, dẫn tới việc thi hành trên thực
tế gặp nhiều khó khăn, bất cập. Do đó, cần rà sốt và hệ thống hóa văn bản pháp luật.
Những văn bản, quy phạm nào cần hợp nhất hoặc cần nâng cấp ban hành; những sơ hở
nào cần được khắc phục, cần điều chỉnh lại, những văn bản nào đã ban hành mà hiệu quả
không cao, không cịn phù hợp thì phải có biện pháp khắc phục ngay nhằm hoàn thiện
11


các quy định pháp luật phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới
trong lĩnh vực kinh tế nói riêng.
Cùng với việc hồn thiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh

tế thì các chế tài pháp luật nói chung và chế tài pháp luật bình đẳng giới trong lĩnh vực
kinh tế nói riêng cần phải được bổ sung theo hướng nghiêm khắc, đa dạng với nhiều loại
chủ thể vi phạm như hiện nay. Do đó, nhóm em xin đề nghị sửa đổi theo hướng sau:
Thứ nhất, bổ sung trách nhiệm dân sự liên quan đến hành vi xâm phạm quyền bình
đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, nên có quy định riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại, đồng thời tăng mức bồi thường thiệt hại cho phù hợp với điều kiện kinh tế phát triển,
chi phí khắc phục hậu quả, liên quan đến hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới và các
hành vi khác có liên quan.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung trách nhiệm hành chính liên quan đến hành vi xâm phạm
quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, được quy định trong các điều khoản về hành
vi xâm phạm và mức xử phạt cụ thể, nếu chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự
thì bị xử phạt hành chính. Tuy nhiên với hình thức phạt tiền hiện nay so với điều kiện
kinh tế hiện thời vật giá leo thang, lạm phát thì khơng cịn đủ khả năng răn đe, trừng phạt
những hành vi vi phạm.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung chế tài hình sự đối với tội xâm phạm quyền bình đẳng giới
trong lĩnh vực kinh tế. Chế tài hình sự áp dụng cho những người có hành vi vi phạm được
quy định trong Bộ luật Hình sự. Tội phạm là những biểu hiện nghiêm trọng nhất của sự
phân biệt đối xử với phụ nữ nên chế tài hình sự là biện pháp chế tài nghiêm khắc nhất
trong các biện pháp chế tài của pháp luật Việt Nam, với những hậu quả nặng nề nhất mà
người phạm tội phải gánh chịu thông qua việc chấp hành hình phạt quy định tại Bộ luật
Hình sự.
2. Tăng cường cơng tác tun truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật về
bình đằng giới trong lĩnh vực kinh tế.

12


Ở Việt Nam, vị trí, vai trị của phụ nữ nói chung trong gia đình và xã hội đã được nâng
lên so với trước. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhiều chuyên ngành khoa học ra đời,
trong đó có khoa học giới và các khoa học có liên quan như tâm lý học, xã hội học, dân

số học… nghiên cứu tiếp cận các vấn đề giới dưới nhiều góc độ khác nhau, đánh dấu
bước phát triển quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về giới trong sự phát triển của
xã hội. Tuy nhiên, những định kiến về giới, tư tưởng trọng nam khinh nữ cũng như quan
điểm định kiến giới đã ăn sâu vào ý thức của cả nam giới và nữ giới, đã in đậm trong
cách sống hàng ngày, trong phong tục của người dân hiện vẫn còn đang tồn tại trong đại
đa số bộ phận nhân dân, trong đó có cả nam giới và nữ giới. Vì vậy, ngay một lúc khơng
thể làm thay đổi tư tưởng cũng như những phong tục truyền thống đối xử bất bình đẳng
với phụ nữ và trẻ em, do đó việc thơng tin, giáo dục, truyền thơng về giới và bình đẳng
giới là vơ cùng quan trọng.
Để thực hiện tốt bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, trước hết cần tăng cường tuyên
truyền giáo dục các vấn đề giới, bình đẳng giới trong kinh tế đã được quy định trong các
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra. Từ cơ sở đó, mỗi
người ý thức tốt về vấn đề bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, là cơ sở quan trọng để
những quy định đó được thực hiện hiệu quả trong thực tiễn. Đồng thời, đẩy mạnh giáo
dục giới trong hệ thống nhà trường, giúp cho thanh niên, thiếu niên nhận thức được
những vấn đề giới và bình đẳng giới một cách cơ bản, có hệ thống. Kèm theo đó, nâng
cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện quy định pháp
luật về bình đằng giới trong lĩnh vực kinh tế, để từ đó mỗi người đều có ý thức trách
nhiệm trong thực hiện bình đằng giới trong lĩnh vực kinh tế.
Tuyên truyền pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế giúp cho mọi công
dân, nam, nữ hiểu được quyền của mình và cách thực hiện để đạt được bình đẳng giới
thực chất cũng như biết bảo vệ mình khi bị vi phạm. Việc tuyên truyền phải được thực
hiện qua nhiều kênh thơng tin: Qua báo, đài,.. bằng các hình thức truyền thơng phong
phú, đa dạng về hình thức: Sách, báo, băng rơn, khẩu hiệu, sân khấu hố,... phù hợp với
phong tục tập quán và đối tượng tham gia. Để tuyên truyền Luật bình đẳng giới có hiệu
13


quả cần có sự tham gia tích cực của đơng đảo các cơ quan truyền thơng như: Đài tiếng
nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Thơng tấn xã Việt Nam và nhiều các cơ quan

đại chúng khác. Cũng cần có thêm hình thức tun truyền pháp luật bình đẳng giới như
có thể dịch ra tiếng dân tộc thiểu số. Thêm vào đó, cần có sự tham gia tích cực của Trung
ương Đoàn thanh niên, Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, đây là những tổ chức
có số lượng hội viên lớn vì vậy việc tuyên truyền pháp luật bình đẳng giới tới những tổ
chức này sẽ đem lại hiệu quả to lớn. Việc tuyên truyền pháp luật bình đẳng giới phải có
kế hoạch thực hiện, phải được làm thường xuyên, liên tục tránh việc làm hình thức theo
kiểu "đánh trống bỏ dùi".
3. Nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong thực hiện pháp
luật về bình đẳng giới nói chung, pháp luật về quyền bình đằng giới trong lĩnh vực kinh
tế nói riêng.
Hiện nay, chúng ta đã có một hệ thống các cơ quan, tổ chức từ trung ương đến địa
phương để thúc đẩy bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế nói
riêng, đây có thể coi là một cơ sở vững chắc để triển khai chính sách. Đó là: Vụ Bình
đẳng giới thuộc Bộ lao động, Thương binh và xã hội; Ban vì sự tiến bộ của Phụ nữ đặt ở
tất cả các ngành, Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ với ban thư ký đặt tại Vụ Bình
đẳng giới... Tuy nhiên, theo báo cáo của Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ Bộ Lao động
thương binh và xã hội thì số lượng cán bộ làm cơng tác bình đẳng giới cịn thiếu. Số cán
bộ làm cơng tác bình đẳng giới cũng cịn rất ít, cả nước hiện có 98 cán bộ làm cơng tác
bình đẳng giới, trung bình mỗi sở có 1.5 cán bộ làm cơng tác bình đẳng giới. Trong số
cán bộ làm cơng tác bình đẳng giới thì tỷ lệ nam nhiều hơn (chiếm 58%). Như vậy, với
đội ngũ cán bộ làm cơng tác bình đẳng giới cịn mỏng và yếu như hiện nay là một khó
khăn, rào cản cho việc triển khai thực hiện pháp luật bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh
tế. Để thực hiện pháp luật bình đẳng giới, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế có hiệu quả hơn
nữa thì cần hồn thiện tổ chức bộ máy nhà nước và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ
làm cơng tác bình đẳng giới từ Trung ương đến địa phương.

14


4. Tăng cường bảo đảm kinh phí cho việc tổ chức thực hiện pháp luật về quyền bình

đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế.
Một trong những nguyên nhân dẫn tới pháp luật bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
cịn chưa được thực hiện tốt là do kinh phí dành cho nội dung hoạt động này cịn ít, có thể
bị tùy tiện cắt giảm do đó các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới bị hạn chế phần nào. Để
có thể thực hiện được các chính sách của Đảng, của Nhà nước, các quy định của pháp
luật về bình đẳng giới cần phải có nguồn tài chính nhất định. Vấn đề bình đẳng giới là
vấn đề quan trọng phải được Nhà nước thực hiện, vì vậy nguồn tài chính cho hoạt động
bình đẳng giới trước hết phải được trích từ ngân sách Nhà nước. Nhà nước cần có chính
sách ưu tiên lập ngân sách giới. Việc lập ngân sách giới có thể làm giảm những bất bình
đẳng giới vì sẽ thể hiện kinh phí được sử dụng vào việc gì, cho ai, trong các giai đoạn
phân tích, lập kế hoạch, phân bổ, chi tiêu và rà soát ngân sách. Trong ngân sách giới sẽ
thể hiện: Chi tiêu chung và chi tiêu chuyên biệt về giới. Chi tiêu chung là ngân sách
chung để chỉ tiêu cho tồn bộ người dân, ví dụ: ngân sách cho sức khỏe, giáo dục, giao
thông và việc làm. Loại chi tiêu này là đối tượng chủ yếu của ngân sách giới. Chi tiêu
chuyên biệt bao gồm các ngân sách tập trung hướng tới đối tượng cụ thể nào đó (nam
giới/phụ nữ, trẻ em trai hay trẻ em gái) nhằm giải quyết các nhu cầu về giới của họ. Loại
chi tiêu này nhằm giải quyết các vấn đề về bất bình đẳng giới.
5. Tăng cường hợp tác quốc tế về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế.
Bình đẳng giới khơng chỉ là vấn đề quốc gia mà là vấn đề mang tính tồn cầu, do đó,
Việt Nam cần có những tham gia có hiệu quả và đóng góp tích cực trên các diễn đàn quốc
tế, chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế trong thực hiện các mục tiêu BĐG, tranh thủ sự
hỗ trợ kỹ thuật, tài chính, chun mơn của các nước, tổ chức, cá nhân nước ngồi trong
lĩnh vực BĐG.
6. Tích cực thu hẹp khoảng cách về giới tại nơi làm việc.
Tuy pháp luật đã có quy định cụ thể về nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử dựa
trên giới tính, nhưng trên thực tế cần bảo đảm cơ chế triển khai thực hiện các quy định
15


này trên thực tế. Cần nâng cao nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động

về lợi ích kinh tế và xã hội của bình đẳng giới và nhất là thay đổi tư duy của người sử
dụng lao động nhằm xoá bỏ những định kiến và rào cản đối với cả nam và nữ. Bên cạnh
đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có cơ chế giám sát các cơ sở lao động trong
việc thực hiện chế độ thai sản, cung cấp và xã hội hóa các dịch vụ hỗ trợ chăm sóc trẻ em
để tạo điều kiện tốt nhất cho cả lao động nam và nữ; đảm bảo phụ nữ và nam giới được
tạo cơ hội bình đẳng trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chun
mơn, nghiệp vụ, nâng cao tay nghề; trong lương hay thậm chí là trong thi đua, khen
thưởng…
KẾT LUẬN
Trong phạm vi có hạn của bài tập nhóm này, nhóm chúng em đã phân tích, làm rõ
những vấn đề cơ bản và thực tiễn thực hiện pháp luật của các quy định pháp luật về bình
đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế. Có thể thấy pháp luật chúng ta đã có hành lang pháp lý
vững chắc để thực hiện bình đẳng giới. Từ đó những thành tựu của chúng ta đạt được là
vô cùng to lớn và đã làm thu hẹp khoảng cách giới một cách đáng kể. Tuy nhiên, chúng
ta vẫn còn những bất cập hạn chế cần phải khắc phục nhằm tạo ra những bước đột phá
trong vấn đề này. Cảm ơn quý thầy, cô đã theo dõi bài làm. Chúng em xin chân thành
cảm ơn!

16



×