Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Bài Tiểu Luận Các Vùng Văn Hóa Việt Nam.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 39 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG
KHOA: KINH TẾ
NGÀNH VIỆT NAM HỌC

BÀI TIỂU LUẬN
CÁC VÙNG VĂN HĨA VIỆT NAM

Bình Dương, ngày .. tháng .. năm 20..


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN.......................................................................................................................................5
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN...............................................................................................................6
Khái niệm văn hóa............................................................................................................................6
Chương 2: KHÁI QUÁT TỈNH KON TUM......................................................................................7
1. Điều kiện tự nhiên.........................................................................................................................7
1.1. Vị trí địa lý:.............................................................................................................................7
1.2. Địa hình:..................................................................................................................................7
1.3. Khí hậu:...................................................................................................................................8
1.4. Khoáng sản:............................................................................................................................8
1.5. Tài nguyên đất:.......................................................................................................................9
1.6. Tài nguyên nước:....................................................................................................................9
1.7. Rừng và tài nguyên rừng:....................................................................................................10
2. Lịch sử:........................................................................................................................................11
2.1. Tên gọi Kon Tum..................................................................................................................11
2.2. Địa giới Kon Tum qua các thời kỳ lịch sử..........................................................................12
3. Kinh tế..........................................................................................................................................17
4. Du lịch..........................................................................................................................................19
Chương 3: ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA TỈNH KON TUM...............................................................20
1. Nét đặc trưng văn hóa Kon Tum qua hình ảnh người dân.....................................................20
2. Nét đặc trưng Văn hóa Kon Tum thể hiện qua ẩm thực........................................................22


3. Những lễ hội đặc sắc...................................................................................................................26
Chương 4: ĐƯA DU LỊCH KON TUM TRỞ THÀNH NGÀNH KINH TẾ MŨI NHỌN..........34
Tài liệu tham khảo:............................................................................................................................38


LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế khơng có sự thành cơng nào mà không gắn liền với những sự hỗ trợ,
giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong suốt thời gian
từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học đến nay, chúng tôi đã nhận được rất nhiều
sự quan tâm, giúp đỡ của q Thầy cơ, gia đình và bạn bè.
Với lịng biết ơn sâu sắc nhất, xin gửi đến Cơ Đỗ Thị Ngọc Bích Tuyền Em ở
Trường Đại Học Bình Dương đã cùng với tri thức và tâm huyết của mình để truyền đạt
vốn kiến thức quý báu cho sinh viên trong suốt thời gian học tập tại trường. Và đặc
biệt, trong học kỳ này, Khoa đã tổ chức cho chúng tôi được tiếp cận với môn học mà
theo chúng tơi là rất hữu ích đối với sinh viên ngành Việt Nam Học. Đó là mơn học
“Các vùng văn hóa Việt Nam”.
Xin chân thành cảm ơn Cô Đỗ Thị Ngọc Bích Tuyền Em đã tận tâm hướng dẫn
qua từng buổi học trên lớp cũng như những buổi nói chuyện, thảo luận về những vấn
đề liên quan đến văn hóa các cộng đồng dân tộc việt nam. Nếu khơng có những lời
hướng dẫn, dạy bảo của cơ thì bài thu hoạch này rất khó có thể hồn thiện được. Một
lần nữa, xin chân thành cảm ơn Cô.
Bài tiểu luận được thực hiện trong khoảng thời gian gần 2 tuần. Bước đầu đi vào
tìm hiểu về Các vùng văn hóa việt nam, kiến thức của chúng tơi cịn hạn chế và cịn
nhiều bỡ ngỡ. Do vậy, khơng tránh khỏi những thiếu sót là điều chắc chắn, rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp q báu của cơ để kiến thức của chúng tơi trong lĩnh
vực này được hồn thiện hơn.


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
Khái niệm văn hóa

Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo UNESCO: ‘Văn hóa là
tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại.
Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá
trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi
dân tộc”1. Định nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo của các cộng
đồng người gắn liền với tiến trình phát triển có tính lịch sử của mỗi cộng đồng
trải qua một thời gian dài tạo nên những giá trị có tính nhân văn phổ qt, đồng
thời có tính đặc thù của mỗi cộng đồng, bản sắc riêng của từng dân tộc. Tuy
nhiên, nếu chỉ căn cứ vào định nghĩa có tính khái qt này, trong hoạt động
quản lý nhà nước về văn hóa, chúng ta dễ bị hiểu một cách sai lạc: Quản lý văn
hóa là quản lý các hoạt động sáng tạo và thu hẹp hơn nữa là quản lý sáng tác
văn học nghệ thuật. Thực tế quản lý văn hóa khơng phải như vậy, quản lý văn
hóa ở cấp xã lại càng khơng phải chỉ có thế.
Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về
mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh
đó tức là văn hóa”. Định nghĩa của Hồ Chí Minh giúp chúng ta hiểu văn hóa cụ
thể và đầy đủ hơn. Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người trước hết đều
“vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống”, những hoạt động sống đó
trải qua thực tiễn và thời gian được lặp đi, lặp lại thành những thói quen, tập
quán, chắt lọc thành những chuẩn mực, những giá trị vật chất và tinh thần được
tích lũy, lưu truyền từ đời này qua đời khác thành kho tàng quý giá mang bản
sắc riêng của mỗi cộng đồng, góp lại mà thành di sản văn hóa của tồn nhân
loại.
Ở một góc độ khác, người ta xem văn hóa như là một hệ thống các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy trong hoạt động thực tiễn qua
q trình tương tác giữa con người với tự nhiên, xã hội và bản thân. Văn hóa là
của con người, do con người sáng tạo và vì lợi ích của con người. Văn hóa
được con người giữ gìn, sử dụng để phục vụ đời sống con người và truyền từ

thế hệ này sang thế hệ khác.


CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT TỈNH KON TUM
1. Điều kiện tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý:
Kon Tum là tỉnh miền núi vùng cao, biên giới, nằm ở phía bắc Tây Nguyên
trong toạ độ địa lý từ 107020'15" đến 108032'30" kinh độ đơng và từ 13055'10"
đến 15027'15" vĩ độ bắc.

Kon Tum có diện tích tự nhiên 9.676,5 km2, chiếm 3,1% diện tích tồn quốc,
phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam (chiều dài ranh giới 142 km); phía nam giáp tỉnh
Gia Lai (203 km), phía đơng giáp Quảng Ngãi (74 km), phía tây giáp hai nước
Lào và Campuchia (có chung đường biên giới dài 280,7 km).

1.2. Địa hình:
Phần lớn tỉnh Kon Tum nằm ở phía tây dãy Trường Sơn, địa hình thấp dần từ
bắc xuống nam và từ đơng sang tây. Địa hình của tỉnh Kon Tum khá đa dạng:
đồi núi, cao nguyên và vùng trũng xen kẽ nhau. Trong đó:

(1) Địa hình đồi, núi: chiếm khoảng 2/5 diện tích tồn tỉnh, bao gồm những đồi
núi liền dải có độ dốc 150 trở lên. Các núi ở Kon Tum do cấu tạo bởi đá biến
chất cổ nên có dạng khối như khối Ngọc Linh (có đỉnh Ngọc Linh cao 2.598m)
- nơi bắt nguồn của nhiều con sông chảy về Quảng Nam, Đà Nẵng như sông
Thu Bồn và sông Vu Gia; chảy về Quảng Ngãi như sơng Trà Khúc. Địa hình
núi cao liền dải phân bố chủ yếu ở phía bắc - tây bắc chạy sang phía đơng tỉnh
Kon Tum. Ngồi ra, Kon Tum cịn có một số ngọn núi như: ngọn Bon San
(1.939 m); ngọn Ngọc Kring (2.066 m). Mặt địa hình bị phân cắt hiểm trở, tạo
thành các thung lũng hẹp, khe, suối. Địa hình đồi tập trung chủ yếu ở huyện Sa
Thầy có dạng nghiêng về phía tây và thấp dần về phía tây nam, xen giữa vùng

đồi là dãy núi Chưmomray.
5


(2) Địa hình thung lũng: nằm dọc theo sơng Pơ Kơ đi về phía nam của tỉnh, có
dạng lịng máng thấp dần về phía nam, theo thung lũng có những đồi lượn sóng
như Đăk Uy, Đăk Hà và có nhiều chỗ bề mặt bằng phẳng như vùng thành
phố Kon Tum. Thung lũng Sa Thầy được hình thành giữa các dãy núi kéo dài
về phía đơng chạy dọc biên giới Việt Nam - Campuchia.

(3) Địa hình cao nguyên: tỉnh Kon Tum có cao ngun Kon Plơng nằm giữa
dãy An Khê và dãy Ngọc Linh có độ cao 1.100 - 1.300 m, đây là cao nguyên
nhỏ, chạy theo hướng Tây Bắc - Đơng Nam.

1.3. Khí hậu:
Kon Tum thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cao ngun. Nhiệt độ trung
bình trong năm dao động trong khoảng 22 - 230C, biên độ nhiệt độ dao động
trong ngày 8 - 90C.

Kon Tum có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa chủ yếu bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11,
mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Hàng năm, lượng mưa trung bình
khoảng 2.121 mm, lượng mưa năm cao nhất 2.260 mm, năm thấp nhất 1.234
mm, tháng có lượng mưa cao nhất là tháng 8. Mùa khơ, gió chủ yếu theo hướng
đơng bắc; mùa mưa, gió chủ yếu theo hướng Tây Nam.

Độ ẩm trung bình hàng năm dao động trong khoảng 78 - 87%. Độ ẩm khơng
khí tháng cao nhất là tháng 8 - 9 (khoảng 90%), tháng thấp nhất là tháng 3
(khoảng 66%).

1.4. Khoáng sản:

Kon Tum nằm trên khối nâng Kon Tum, vì vậy rất đa dạng về cấu trúc địa chất
và khống sản. Trên địa bàn có 21 phân vị địa tầng và 19 phức hệ mắc ma đã
được các nhà địa chất nghiên cứu xác lập, hàng loạt các loại hình khống sản
6


như: sắt, crôm, vàng, nguyên liệu chịu lửa, đá quý, bán quý, kim loại phóng xạ,
đất hiếm, nguyên liệu phục vụ sản xuất vật liệu xây dựng,... đã được phát hiện.
Nhiều vùng có triển vọng khống sản đang được điều tra thành lập bản đồ địa
chất tỷ lệ 1/50.000, cùng với những cơng trình nghiên cứu chun đề khác,... sẽ
là cơ sở quan trọng trong công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. Qua khảo sát của các cơ quan chuyên môn, hiện nay, Kon Tum đang
chú trọng đến một số loại khoáng sản sau:

(1) Nhóm khống sản phục vụ sản xuất vật liệu xây dựng: nhóm này rất đa
dạng, bao gồm: sét (gạch ngói), cát xây dựng, cuội sỏi, đá hoa, đá vơi, đá
granít, puzơlan,....

(2) Nhóm khống sản vật liệu cách âm, cách nhiệt và xử lý môi trường, bao
gồm diatomit, bentonit, chủ yếu tập trung ở thành phố Kon Tum.

(3) Nhóm khống sản vật liệu chịu lửa: gồm có silimanit, dolomit, quazit tập
trung chủ yếu ở các huyện Đăk Glei, Đăk Hà, Ngọc Hồi.

(4) Nhóm khống sản cháy: gồm có than bùn, tập trung chủ yếu ở
thành phố Kon Tum, huyện Đăk Hà, huyện Đăk Tơ.

(5) Nhóm khống sản kim loại đen, kim loại màu, kim loại hiếm: gồm có
măngan ở Đăk Hà; thiếc, molipden, vonfram, uran, thori, tập trung chủ yếu ở
Đăk Tô, Đăk Glei, Ngọc Hồi, Konplong; bauxit tập trung chủ yếu ở Kon

Plơng.

(6) Nhóm khống sản đá q: gồm có rubi, saphia, opalcalcedon tập trung ở
Đăk Tô, Kon Plông.

7


1.5. Tài nguyên đất: được chia thành 5 nhóm với 17 loại đất chính:

(1) Nhóm đất phù sa: gồm ba loại đất chính là đất phù sa được bồi, đất phù sa
loang lổ, đất phù sa ngồi suối.

(2) Nhóm đất xám: gồm hai loại đất chính là đất xám trên mácma axít và đất
xám trên phù sa cổ.

(3) Nhóm đất vàng: gồm 6 loại chính là đất nâu vàng trên phù sa cổ, đất đỏ
vàng trên mácma axít, đất đỏ vàng trên đá sét và biến chất, đất nâu đỏ trên đá
bazan phong hoá, đất vàng nhạt trên đá cát và đất nâu tím trên đá bazan.

(4) Nhóm đất mùn vàng trên núi: gồm 5 loại đất chính là đất mùn vàng nhạt có
nơi Potzon hố, đất mùn vàng nhạt trên đá sét và biến chất, đất mùn nâu đỏ trên
mácma bazơ và trung tính, đất mùn vàng đỏ trên mácma axít.

(5) Nhóm đất thung lũng: chỉ có một loại đất chính là đất thung lũng có sản
phẩm dốc tụ.

1.6. Tài nguyên nước:

(1) Nguồn nước mặt: chủ yếu là sông, suối bắt nguồn từ phía bắc và đơng bắc

của tỉnh Kon Tum, thường có lịng dốc, thung lũng hẹp, nước chảy xiết, bao
gồm:

- Sơng Sê San: do 2 nhánh chính là Pô Kô và Đăkbla hợp thành. Nhánh Pô Kô
dài 121 km, bắt nguồn từ phía nam của khối núi Ngọc Linh, chảy theo hướng
8


bắc - nam. Nhánh này được cung cấp từ suối ĐăkPsy dài 73 km, bắt nguồn phía
nam núi Ngọc Linh từ các xã Ngọc Lây, Măng Ri, huyện Đăk Tô. Nhánh
Đăkbla dài 144 km bắt nguồn từ dãy núi Ngọc Krinh.

- Các sơng, suối khác: phía đơng bắc tỉnh là đầu nguồn của sông Trà Khúc đổ
về Quảng Ngãi và phía bắc của tỉnh là đầu nguồn của 2 con sông Thu Bồn và
Vu Gia chảy về Quảng Nam, Đà Nẵng. Ngồi ra cịn có sơng Sa Thầy bắt
nguồn từ đỉnh núi Ngọc Rinh Rua, chảy theo hướng bắc - nam, gần như song
song với biên giới Campuchia, đổ vào dịng Sê San.

Nhìn chung, chất lượng nước, thế năng,... của nguồn nước mặt thuận lợi cho
việc xây dựng các công trình thủy điện, thủy lợi.

(2) Nguồn nước ngầm: nguồn nước ngầm ở tỉnh Kon Tum có tiềm năng và trữ
lượng cơng nghiệp cấp C2: 100 nghìn m3/ngày, đặc biệt ở độ sâu 60 - 300 m có
trữ lượng tương đối lớn. Ngồi ra, huyện Đăk Tơ, Konplong cịn có 9 điểm có
nước khống nóng, có khả năng khai thác, sử dụng làm nước giải khát và chữa
bệnh.

1.7. Rừng và tài nguyên rừng:

(1) Rừng: đến năm 2008, diện tích đất lâm nghiệp của Kon Tum là 660.341 ha,

chiếm 68,14% diện tích tự nhiên. Kon Tum có các kiểu rừng chính sau:

- Rừng kín nhiệt đới hỗn hợp cây và lá rộng: đây là kiểu rừng điển hình của
rừng tỉnh Kon Tum, phân bố chủ yếu trên độ cao 500 m, có ở hầu hết huyện,
thị trong tỉnh.

- Rừng lá ẩm nhiệt đới: có hầu hết trong tỉnh và thường phân bố ở ven sông.
9


- Rừng kín á nhiệt đới: phân bố ở vùng núi cao.

- Rừng thưa khô cây họ dầu (rừng khộp): phân bố chủ yếu ở huyện Ngọc Hồi,
huyện Đăk Glei (dọc theo biên giới Việt Nam, Lào, Campuchia).

(2) Tài nguyên rừng:

- Thực vật: theo kết quả điều tra bước đầu, tỉnh Kon Tum có khoảng hơn 300
lồi, thuộc hơn 180 chi và 75 họ thực vật có hoa. Cây hạt trần có 12 lồi, 5 chi,
4 họ; cây hạt kín có 305 lồi, 175 chi, 71 họ; cây một lá mầm có 20 lồi, 19 chi,
6 họ; cây 2 lá có mầm 285 lồi, 156 chi, 65 họ. Trong đó, các họ nhiều nhất là
họ đậu, họ dầu, họ long não, họ thầu dầu, họ trinh nữ, họ đào lộn hột, họ xoan
và họ trám. Nhìn chung, thảm thực vật ở Kon Tum đa dạng, thể hiện nhiều loại
rừng khác nhau trong nền cảnh chung của đới rừng nhiệt đới gió mùa, có 3 đai
cao, thấp khác nhau: 600 m trở xuống, 600 - 1.600 m và trên 1.600 m. Hiện
nay, nổi trội nhất vẫn là rừng rậm, trong rừng rậm có quần hợp chủ đạo là
thơng hai lá, dẻ, re, pơmu, đỗ quyên, chua,... ở độ cao 1.500 - 1.800 m chủ yếu
là thông ba lá, chua, dẻ, re, kháo, chẹc,... Nhắc đến nguồn lợi rừng ở Kon Tum
phải kể đến vùng núi Ngọc Linh với những cây dược liệu quý như sâm Ngọc
Linh, đẳng sâm, hà thủ ô và quế. Trong những năm gần đây, diện tích rừng của

Kon Tum bị thu hẹp do chiến tranh, khai thác gỗ lậu và các sản phẩm khác của
rừng. Nhưng nhìn chung, Kon Tum vẫn là tỉnh có nhiều rừng gỗ quý và có giá
trị kinh tế cao.

- Động vật: rất phong phú, đa dạng, trong có nhiều lồi hiếm, bao gồm chim có
165 lồi, 40 họ, 13 bộ, đủ hầu hết các lồi chim; thú có 88 lồi, 26 họ, 10 bộ,
chiếm 88% loài thú ở Tây Nguyên. Đáng chú ý nhất là động vật ăn cỏ như: voi,
bò rừng, bị tót, trâu rừng, nai, hoẵng,... Trong đó, voi có nhiều ở vùng tây nam
Kon Tum (huyện Sa Thầy). Bò rừng có: bị tót (hay con min) tên khoa học
Bosgaurus thường xuất hiện ở các khu rừng thuộc huyện Sa Thầy và Đăk Tơ;
bị Đen Teng tên khoa học Bosjavanicus. Trong những năm gần đây, ở Sa
Thầy, Đăk Tô, Kon Plông đã xuất hiện hổ, đây là dấu hiệu đáng mừng về sự
10


tồn tại của loài thú quý này. Ngoài ra, rừng Kon Tum cịn có gấu chó, gấu
ngựa, chó sói.

Bên cạnh các lồi thú, Kon Tum cịn có nhiều loại chim quý cần được bảo vệ
như công, trĩ sao, gà lôi lơng tía và gà lơi vằn. Trong điều kiện rừng bị xâm hại,
việc săn bắt trái phép ngày một gia tăng, môi sinh luôn biến động đã ảnh hưởng
đến sự sinh tồn của các loài động vật, đặc biệt là các loài động vật quý hiếm.
Tỉnh Kon Tum đã quy hoạch xây dựng các khu rừng nguyên sinh và đưa vào
xếp hạng quốc gia để có kế hoạch khai thác, nghiên cứu và bảo vệ, đồng thời
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức bảo vệ động, thực
vật nói riêng, mơi trường sinh thái nói chung.

2. Lịch sử:
2.1. Tên gọi Kon Tum
Theo truyền thuyết của dân tộc Bana, Kon Tum ban đầu chỉ là một làng của

người Bana. Thuở ấy, vùng đồng bào dân tộc Bana (nay thuộc thành phố Kon
Tum) có làng người địa phương ở gần bên dịng sơng Đăkbla với tên gọi Kon
Trang - OR. Lúc ấy, làng Kon Trang - OR rất thịnh vượng với dân số khá đông.
Bấy giờ, giữa các làng luôn gây chiến với nhau để chiếm đoạt của cải và bắt
người về làm nô lệ. Hai con trai của Ja Xi - một trong số những người đứng
đầu làng Kon Trang - OR tên là Jơ Rông và ng khơng thích cảnh chiến tranh
đã làm nhà ở riêng gần chỗ có hồ nước, cạnh dịng Đăkbla. Vùng đất này rất
thuận lợi cho phương thức sống định cư, nên dần dần có nhiều người đến ở,
mỗi ngày một phát triển thêm đơng, lập thành làng mới có tên gọi là Kon Tum.
Từ đó, Kon Tum trở thành tên gọi chính thức cho một làng mới lập của người
Bana, cạnh dịng Đăkbla, nơi có nhiều hồ nước trũng. Theo tiếng Kinh, Kon
Tum có nghĩa là Làng Hồ (Kon là làng, Tum là hồ, ao, bàu nước, …).

Do vị trí đặc biệt, Kon Tum là vùng đất bằng, được dòng Đăkbla uốn quanh bồi
đắp phù sa màu mỡ. Trải qua những biến động, thăng trầm của lịch sử, vùng
đất này có nhiều biến đổi, đồng bào các dân tộc tụ hội về đây ngày một đông.
Người Kinh khi đến Tây Nguyên cũng chọn vùng đất Kon Tum làm nơi định
cư. Từ đó, Kon Tum trở thành vùng đất cộng cư của nhiều dân tộc.

11


Phát huy những thuận lợi về điều kiện tự nhiên với sự cần cù lao động của con
người, vùng đất Kon Tum ngày càng phát triển thịnh vượng, không chỉ một
làng mà nhiều làng, bao quát cả vùng đất đai rộng lớn. Vùng đất này khi thành
lập thị xã cũng mang tên gọi chính thức là Kon Tum. Khi đơn vị hành chính
cấp tỉnh được thành lập, Kon Tum vẫn chính thức được dùng làm tên gọi của
tỉnh. Đây là vùng địa lý hành chính được hình thành sớm nhất ở Tây Nguyên.

2.2. Địa giới Kon Tum qua các thời kỳ lịch sử


Kon Tum thuở xưa còn rất hoang vắng, người thưa, đất rộng. Các dân tộc bản
địa gồm Xơ Đăng, Bana, Gia Rai, Jẻ - Triêng, Brâu, Rơ Măm. Mỗi dân tộc gắn
với một vùng cư trú khác nhau. Nét đặc biệt trong thiết chế xã hội cổ truyền
của các dân tộc ở tỉnh Kon Tum là tổ chức xã hội duy nhất chỉ có làng. Làng
được xem như đơn vị hành chính mang tính bao quát và cụ thể, chi phối mọi
hoạt động trong đời sống xã hội. Mỗi làng mang tính độc lập riêng biệt, do một
chủ làng là người có uy tín nhất trong làng đứng đầu.

Trong giai đoạn khởi nghĩa Tây Sơn (1771 - 1786), ba anh em Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đã xây dựng mối quan hệ đoàn kết với các dân tộc
vùng này.

Năm 1840, dưới thời vua Thiệu Trị, triều đình Huế lập Bok Seam - một người
Bana làm quan cai trị các bộ tộc Tây Nguyên, đồng thời cho phép người Kinh
và người các dân tộc được phép tự do quan hệ mua bán, trao đổi. Từ đây,
những lái buôn người Kinh bắt đầu đến với Tây Nguyên để mua bán, trao đổi
hàng hóa.

Trong thời gian này, người Pháp cũng tìm đường đến Kon Tum để truyền đạo.
Trong giai đoạn 1841 - 1850, thực dân Pháp đã đặt được cơ sở Thiên chúa giáo
đầu tiên ở Kon Tum.
12


Năm 1867, thực dân Pháp bắt đầu tấn công xâm lược Kon Tum - Tây Nguyên.
Bằng những thủ đoạn thâm độc nhằm chia rẽ các dân tộc trong vùng, thực dân
Pháp đã thơn tính Kon Tum và Tây Ngun.

Năm 1892, thực dân Pháp đặt tại Kon Tum một tòa đại lý hành chính đầu tiên

do một cố đạo người Pháp là Vialleton, còn gọi là cha Truyền cai quản.

Ngày 4-7-1904, thực dân Pháp thành lập tỉnh Plei Ku Der, bao gồm hai tịa đại
lý hành chính: một tịa ở Kon Tum (trước đó thuộc tỉnh Bình Định) và một tịa
ở Cheo Reo (trước đó thuộc tỉnh Phú Yên).

Ngày 25-4-1907, thực dân Pháp chính thức bãi bỏ tỉnh Plei Ku Der. Toàn bộ
đất đai của tỉnh Plei Ku Der gồm hai tịa đại lý hành chính Kon Tum và Cheo
Reo được sáp nhập trở lại hai tỉnh Bình Định và Phú n như trước đó.

Ngày 9-2-1913, thực dân Pháp chính thức thành lập tỉnh Kon Tum, bao gồm
đại lý hành chính Kon Tum tách ra từ Bình Định, đại lý hành chính Cheo Reo
tách ra từ Phú Yên, đại lý hành chính Bn Ma Thuột (Bn Ma Thuột trước
đó là một tỉnh riêng, nhưng đến năm 1913 giảm từ tỉnh xuống thành đại lý hành
chính, sáp nhập vào tỉnh Kon Tum).

Năm 1917, thực dân Pháp thành lập tòa đại lý hành chính An Khê, gồm huyện
Tân An và khu vực người dân tộc thiểu số đặt dưới quyền cai trị của công sứ
tỉnh Kon Tum.

Ngày 2-7-1923, đại lý Buôn Ma Thuột được tách khỏi tỉnh Kon Tum để thành
lập tỉnh Đắk Lắk.

13


Ngày 3-12-1929, thành lập thành phố Kon Tum (thực tế lúc đó chỉ là thị trấn,
gồm tổng Tân Hương và một số làng dân tộc thiểu số phụ cận).

Ngày 25-5-1932, tách đại lý Pleiku ra khỏi tỉnh Kon Tum, thành lập tỉnh Pleiku

(nay thuộc tỉnh Gia Lai). Đến ngày 9-8-1943, đại lý hành chính An Khê được
tách khỏi tỉnh Kon Tum, sáp nhập vào tỉnh Pleiku. Tỉnh Kon Tum lúc bấy giờ
chỉ cịn lại tổng Tân Hương và tồn bộ đất đai vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Tổng Tân Hương là tên gọi tiền thân của thành phố Kon Tum hiện nay. Tổng
Tân Hương là nơi hội tụ của các làng người Kinh lên lập nghiệp tại Kon Tum.
Theo thứ tự, các làng của tổng Tân Hương được thành lập theo thời gian và tên
gọi như sau: Tân Hương (năm 1874); Phương Nghĩa (năm 1882); Phương Quý
(năm 1887); Phương Hòa (năm 1892); Trung Lương (năm 1914); Phụng Sơn
(năm 1924); Ngô Thạnh (năm 1925); Ngô Trang (năm 1925); Phước Cần (năm
1927); Lương Khế (năm 1927).

Ngày 3-2-1929, theo nghị định của Khâm sứ Trung Kỳ, tổng Tân Hương được
lập thành thị trấn Kon Tum, từ đó thị trấn Kon Tum trở thành trung tâm chính
trị - kinh tế - xã hội của tỉnh Kon Tum. Theo thời gian, mảnh đất nơi đây khơng
ngừng được mở rộng và phát triển. Ngồi các làng của người Kinh lập nên, về
sau có thêm nhiều làng của người dân tộc thiểu số vùng ven như các làng Kon
Rbàng, KonM'nai, ChưHreng, cũng nằm trong phạm vi quản lý hành chính của
thị trấn Kon Tum.

Tháng 8-1945, cùng với cả nước, ngày 25-8-1945, nhân dân Kon Tum đã nổi
dậy giành chính quyền. Chính quyền cách mạng tổ chức lại tỉnh Kon Tum
thành 4 đơn vị hành chính gồm các huyện Đăk Glei, Đăk Tô, Konplong và
thành phố Kon Tum. Chính quyền cách mạng lâm thời tỉnh Kon Tum được
thành lập đóng trụ sở tại thành phố Kon Tum để lãnh đạo nhân dân bắt tay vào
xây dựng cuộc sống mới.

14



Ngày 26-6-1946, thực dân Pháp tấn công và chiếm lại Kon Tum, thiết lập trở
lại bộ máy cai trị vùng này. So với trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bộ
máy thống trị và chính sách cai trị của Pháp từ tỉnh tới làng không mấy thay
đổi. Đứng đầu bộ máy hành chính cấp tỉnh là một cơng sứ người Pháp, bên
dưới có các huyện thường do tên đồn trưởng người Pháp nắm giữ rồi đến làng.
Thực dân Pháp đã tập hợp bọn tay sai người địa phương, đặc biệt là dụ dỗ, mua
chuộc, lôi kéo các chủ làng để nắm giữ bộ máy quyền lực ở cơ sở.

Về phía cách mạng, sau khi thực dân Pháp tái chiếm Kon Tum, chính quyền
cách mạng lâm thời tan rã, tổ chức Đảng bị phân tán, thất lạc. Trong thời gian
này, tỉnh Kon Tum chịu sự quản lý chỉ đạo về hành chính của xứ ủy Trung Kỳ
và Phân ban vận động quốc dân thiểu số Nam Trung Bộ.

Tháng 1-1947, thành lập Phân khu 15, trong đó nịng cốt là tỉnh Kon Tum và
các huyện miền Tây của hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi. Trên thực tế, tổ
chức hành chính của Kon Tum vẫn giữ nguyên, nhưng chịu sự quản lý và chi
phối của Phân khu 15 về hoạt động quân sự. Tháng 8-1947, Khu 15 Tây
Nguyên được thành lập, tỉnh Kon Tum là một trong những đơn vị hành chính
trực thuộc Khu 15. Tháng 3-1950, theo chủ trương của Liên Khu ủy V, tỉnh
Kon Tum và tỉnh Gia Lai được sáp nhập thành tỉnh Gia - Kon. Ban cán sự Gia Kon ra quyết định thành lập 7 khu (huyện). Địa bàn tỉnh Kon Tum tổ chức
thành 3 khu: khu 1 (Đăk Glei); khu 2 (Đăk Tô); khu 3 (Konplong).

Tháng 10-1951, theo quyết định của Liên Khu uỷ V, tỉnh Kon Tum và các
huyện phía tây Quảng Ngãi hợp nhất thành Mặt trận miền Tây.

Tháng 2-1954, Kon Tum là tỉnh đầu tiên và duy nhất ở Tây Nguyên được hoàn
toàn giải phóng. Một thời gian sau, Mặt trận miền Tây cũng được giải thể.
Theo tinh thần Hiệp định Giơnevơ ký ngày 20-7-1954, tỉnh Kon Tum bước vào
thời kỳ lịch sử mới.


15


Về phía địch, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ - ngụy tiếp quản
Kon Tum. Năm 1958, chúng chia bộ máy hành chính tỉnh Kon Tum thành tịa
hành chính Kon Tum - bộ máy hành chính cấp tỉnh, bên dưới gồm các quận
Kon Tum, Đăk Tô, Konplong và Đăk Sút.

Năm 1958, nguỵ quyền thành lập quận Toumơrông. Năm 1959, nguỵ quyền
thành lập thêm quận Chương Nghĩa. Năm 1960, quận Konplong bị xóa bỏ. Như
vậy, thực tế quận Toumơrơng và quận Chương Nghĩa chiếm gần trọn diện tích
của quận Konplong trước đó. Một phần đất cịn lại của quận Konplong không
thuộc phạm vi của hai quận mới này được sáp nhập về quận Kon Tum.

Năm 1961, quận Chương Nghĩa bao gồm phần đất phía đơng sơng Đăk Nghé,
giáp với Ba Tơ (Quảng Ngãi) được cắt về tỉnh Quảng Ngãi. Tỉnh Kon Tum cịn
lại 4 đơn vị hành chính cấp quận: Kon Tum, Đăk Tô, Đăk Sút, Toumơrông.

Sau năm 1965, phân cấp hành chính của Nguỵ quyền Sài Gịn tại Kon Tum có
sự thay đổi. Đối với khu vực thị xã, thị trấn đông dân, chúng vẫn giữ nguyên
cấp quận; những nơi xa xơi, ít dân cư hơn, chúng giảm quận đặt thành phái
viên hành chính.

Năm 1970, bộ máy hành chính của địch ngồi tịa hành chính và các ty, sở ở
tỉnh, bên dưới có các cấp sau: quận Kon Tum, quận Đăk Tơ, phái viên hành
chính Đăk Sút, phái viên hành chính Măng Buk, phái viên hành chính Chương
Nghĩa (quận Chương Nghĩa chuyển về Quảng Ngãi một thời gian sau đó được
nhập trở lại tỉnh Kon Tum).

Năm 1972, nguỵ quyền cải danh chi khu Đăk Pét thành quận Đăk Sút để mở

rộng chức năng về hành chính.

Sau chiến dịch xuân - hè năm 1972, quân cách mạng giải phóng Đăk Tô - Tân
Cảnh và đại bộ phận các vùng nơng thơn, vùng kiểm sốt của địch bị thu hẹp
16


đáng kể; quận lỵ Đăk Tô của địch phải lưu vong về đèo Sao Mai (đông nam
thành phố Kon Tum); các chi khu Đăk Pét, Măng Đen, Măng Buk bị cơ lập
giữa vùng giải phóng của ta. Địch chỉ cịn co cụm phần lớn tại khu vực thành
phố Kon Tum.

Năm 1974, qn ta tấn cơng tiêu diệt hồn tồn các chi khu Đăk Pét, Măng
Đen, Măng Buk. Tận dụng thời cơ thắng lớn ở Buôn Ma Thuột, ngày 17-31975, quân và dân trong tỉnh đã nổi dậy tấn công vào đầu não của địch ở nội
thị, giải phóng thành phố và tồn tỉnh Kon Tum.

Về phía ta, đầu năm 1955, tồn tỉnh đuợc chia thành 6 khu nơng thơn (tương
đương huyện) và một thành phố.

Khu 1: lúc đầu là vùng đông và bắc thành phố Kon Tum, từ bờ sông Pơ Kơ
(phía tây) đến bờ sơng Đăk Nghé (phía đơng).

Khu 2: bao gồm toàn huyện Konplong ngày nay.

Khu 3: gồm một số vùng thuộc huyện Đăk Glei và một số vùng của Đăk Tô
(nay thuộc huyện Đăk Hà) giáp với khu 6 và giáp với huyện Konplong ngày
nay.

Khu 4: vùng tây huyện Đăk Glei từ giáp Quảng Nam đến Đăk Nây Pui, phía
tây giáp biên giới Lào.


Khu 5: được hình thành và giải thể trước khi có hiệp định Giơnevơ nên khơng
cịn. Một phần khu 5 nhập vào khu 4, phần còn lại nhập vào khu 6.

17


Khu 6: từ Vơmơna, phía đơng giáp Măng Buk đến vùng Kayong giáp biên giới
Lào, phía bắc giáp vùng Đăk Hà, phía nam đến Konplong.
Khu 7: thuộc huyện Sa Thầy ngày nay.

Cuối năm 1956, đầu năm 1957, các khu vực được sắp xếp lại và chuyển đổi
thành huyện: cắt một phần khu 3 giáp khu 6 thành khu 8; cắt một phần nam
khu 2 thành khu 9; giải thể khu 6. Hình thành nên các huyện: khu 1 và một
phần khu 6 sáp nhập thành huyện H16; khu 2 và khu 9 sáp nhập thành huyện
H29; khu 3 chuyển thành huyện H30; khu 8 và một phần khu 6 sáp nhập thành
huyện H80; khu 4 thành huyện H40; khu 7 và một phần khu 6 sáp nhập thành
huyện H67.

Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, các huyện trong tỉnh Kon Tum
đều được gọi theo tên mật danh như: H16, H29, H30, H40, H67, H80. Riêng
thành phố Kon Tum lúc đó mang mật danh là H5. Vùng KonHring (nay thuộc
huyện Đăk Hà) mang mật danh H9.

Ứng với mỗi mật danh có tên gọi cụ thể là: H16 (Konpraih); H29 (Konplong);
H80 (Đăk Tơ); H5 (thành phố Kon Tum); H30 (phía đơng Đăk Glei); H40
(phía tây Đăk Glei); H67 (Sa Thầy); H9 (Kon Hring).

Sau khi tỉnh Kon Tum được giải phóng (17-3-1975), tồn tỉnh có thành
phố Kon Tum và 6 huyện là H30, H40, H16, H29, H80, H67.


Tháng 10-1975, tỉnh Kon Tum sáp nhập với tỉnh Gia Lai thành tỉnh Gia Lai Kon Tum, trên địa bàn tỉnh có các huyện: huyện Konplong (H16 + H29), huyện
Đăk Glei (H30 + H40), thành phố Kon Tum (H5 + H9), huyện Đăk Tô (H80).
Năm 1979, thành lập huyện Sa Thầy trên cơ sở phần đất của H67 cũ.

18


Tháng 10-1991, tỉnh Kon Tum được tái lập trên cơ sở chia tách tỉnh Gia Lai Kon Tum. Theo đó, một số huyện mới được thành lập như Ngọc Hồi (năm
1992); Đăk Hà (năm 1994), huyện Kon Rẫy (năm 2002), huyện Tu Mơ Rông
(năm 2005).

Đến năm 2015, tỉnh Kon Tum có 01 thành phố và 9 huyện. Trong đó, thành
phố Kon Tum là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh.

3. Kinh tế
Kon Tum có điều kiện hình thành các cửa khẩu, mở rộng hợp tác quốc
tế về phía Tây. Kon Tum có đường Quốc lộ 14 nối với các tỉnh Tây
Nguyên và Quảng Nam, đường 40 đi Atôpư (Lào).
Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010, cơ cấu kinh tế chuyển đổi cơ bản tiến
bộ, công nghiệp xây dựng đạt 32%, nông, lâm nghiệp 25%, dịch vụ 43%, GDP
bình quân đầu người đạt 507 USD, nhu cầu vốn đầu tư cả thời kỳ 476,6 triệu
USD. Tình hình xuất nhập khẩu đến năm 2010 đạt 70 triệu USD. Đồng thời
năm 2010 có 50.000 lượt khách du lịch, trong đó có 10.000 khách nước ngồi.
Năm 2012, năm thứ hai triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
Kon Tum lần thứ XIV. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 13,77% so với cả nước.
Trong đó, các ngành nơng - lâm - thủy sản tăng 7,3%, ngành công nghiệp - xây
dựng tăng 17,49%, ngành dịch vụ tăng 18,34% và chỉ số giá tiêu dùng tăng
9,88%. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 1.632,2 tỷ đồng, vượt 0,5% so với kế
hoạch. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 38,2%, đồng thời giải quyết việc làm cho

khoảng 6.200 lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới 5%. Thu
nhập bình quân đầu người đạt 22,12 triệu đồng, và tỷ lệ hộ nghèo giảm còn
22,77%.
Ước tính đến cuối năm 2012, tồn tỉnh có 13.794 hợp tác xã, tăng 504 so với
năm 2011. Danh thu bình quân của Hợp tác xã năm 2012 ước đạt 1,74 tỷ đồng/
HTX/Năm, Lợi nhuận bình quân của hợp tác xã đạt 370,87 triệu
đồng/HTX/Năm. Thu nhập bình quân của các xã viên hợp tác xã ước đạt 18,26
triệu đồng/xã viên/năm. Thu nhập của lao động thường xuyên trong các hợp tác
xã, Liên hiệp hợp tác xã ước đạt 17,83 triệu đồng/lao động/năm.
Tỉnh Kon Tum đã thực hiện đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn và
sản phẩm chủ lực của tỉnh như Sâm Ngọc Linh, rau hoa xứ lạnh, ni cá tầm,
cá hồi... gắn với tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Tỉnh phấn đấu trong năm 2013,
19


thu ngân sách nhà nước tại địa bàn đạt trên 1.830 tỷ đồng và kim ngạch xuất
khẩu đạt trên 100 triệu USD.
Giáo dục
Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn tồn tỉnh Kon Tum
có 259 trường học ở cấp phổ trong đó có Trung học phổ thơng có 14
trường, Trung học cơ sở có 94 trường, Tiểu học có 131 trường, trung học có 10
trường, có 10 trường phổ thơng cơ sở, bên cạnh đó cịn có 108 trường mẫu
giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Kon
Tum cũng tương đối hồn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa
bàn tỉnh.
Y tế
Theo thống kê về y tế năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Kon Tum có 121 cơ sở
khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 4 Bệnh viện, 13 Phịng khám
đa khoa khu vực, 97 Trạm Y tế phường xã, và 1 Bệnh viện Điều dưỡng - Phục
hồi chức năng. Toàn tỉnh có 1770 giường bệnh và 354 bác sĩ, 350 y sĩ, 694 y tá.

Nổi bật là Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kom Tum, với nỗ lực không ngừng của Y Bác sĩ tại bệnh viện, đã hạn chế được tình trạng bệnh nhân phải chuyến tuyến
đến các bệnh viện tuyến trên như: Bệnh viện Chợ Rẫy (Hồ Chí Minh), Bệnh
viện Đà Nẵng (Đà Nẵng), Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội).

Dân cư
Theo kết quả điều tra ngày 1 tháng 4 năm 1999, tỉnh Kon Tum có 316.600
người. Tồn tỉnh có 25 dân tộc, trong đó đơng nhất là dân tộc Kinh có 145.681
người chiếm 46,36%. Các dân tộc thiểu số gồm dân tộc Xơ Ðăng có 78.741
người, chiếm 25,05%. dân tộc Ba Na có 37.519 người, chiếm 11,94%. dân tộc
Giẻ- Triêng có 25.463 người, chiếm 8,1%. dân tộc Gia Rai có 15.887 người,
chiếm 5,05%. các dân tộc khác chiếm 3,5 %.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Kon Tum đạt 540.438
người, mật độ dân số đạt 55 người/km² Trong đó dân số sống tại thành thị đạt
gần 172.712 người, chiếm 32% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt
367.726 người, chiếm 68% dân số. Dân số nam đạt 271.619 người, trong khi đó
nữ đạt 268.819 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng
2,28% Đây cũng là tỉnh ít dân nhất vùng Tây Nguyên với hơn 540.000 dân.
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng
4 năm 2009, toàn tỉnh Kon Tum có 42 dân tộc cùng người nước ngồi sinh
20



×