Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Nghiên Cứu Về Lao Động Trong Du Lịch Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.51 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG
KHOA: KINH TẾ



BÀI THI CUỐI KỲ

MƠN: KINH TẾ DU LỊCH

Đề tài: Nghiên cứu về lao động trong du lịch Việt Nam

Bình Dương, ngày .. tháng .. năm 20..


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................
1
NỘI DUNG..........................................................................................................................
2
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH VIỆT NAM ..................
2
1.1. Số lượng và cơ cấu lao động .................................................................................. 2
1.1.1.

Số lượng lao động ........................................................................................ 2

1.1.2.

Cơ cấu lao động ........................................................................................... 2

1.2. Chất lượng nguồn nhân lực du lịch ........................................................................ 3


1.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ........................................................ 5
1.3.1.

Đào tạo tại hệ thống đào tạo quốc gia.......................................................... 5

1.3.2.

Đào tạo theo dự án và bồi dưỡng ngắn hạn ................................................. 6

1.3.3.

Đào tạo tại các doanh nghiệp du lịch ........................................................... 6

1.3.4.

Công tác hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch ............... 7

CHƯƠNG 2: DỰ BÁO NHU CẦU LAO ĐỘNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH VIỆT NAM ......................................................
8
2.1. Dự báo nhu cầu lao động trong những năm tới ..................................................... 8
2.2. Đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam................. 9
2.2.1.

Tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động đào tạo, bồi dưỡng

nguồn nhân lực du lịch ................................................................................................
9
2.2.2.


Xây dựng các tiêu chuẩn nghề trong từng lĩnh vực ngành nghề ............... 10

2.2.3.

Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi dưỡng du lịch .............................. 10

2.2.4.

Nâng cao điều kiện đào tạo, bồi dưỡng du lịch ......................................... 11

2.2.5.

Tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài

nước phục vụ đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch ...................................................
12
2.2.6.
Đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến trong công tác
đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch ..........................................................................
13
2.2.7.

Tạo môi trường thuận lợi cho đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch .......... 13

2.2.8.

Tăng cường liên kết, hợp tác trong hoạt động đào tạo nhân lực ............... 14

KẾT LUẬN .......................................................................................................................
16



TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................
17


MỞ ĐẦU
Du lịch là một ngành kinh tế mang tính xã hội sâu sắc, nó chịu sự tác động rất lớn của
nhiều mặt trong đời sống xã hội, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết và tác động trở
lại đời sống xã hội. Du lịch càng phát triển càng có những ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống xã hội. Do đó việc xuất hiện một khoa học mới - khoa học du lịch (du lịch học),
nghiên cứu chuyên sâu về du lịch là một tất yếu.
Du lịch học hiện đại không chỉ nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận mà cịn cả
những vấn đề thực tiễn trong hoạt động du lịch. Những vấn đề của du lịch học được thể
hiện qua chủ đề của từng năm mà Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) phát động. Đó đều
là những vấn đề cấp thiết của du lịch học đại, liên quan mật thiết và có ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động du lịch. Một trong những vấn đề cũng rất được quan tâm của du lịch học
hiện đại là vấn đề về nguồn nhân lực trong du lịch.
Nguồn nhân lực du lịch là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu mang tính quyết
định trong tiến trình phát triển du lịch, bởi con người chính là chủ thể của hoạt động lao
động. Sở dĩ nguồn nhân lực du lịch trở thành một trong những vấn đề cấp thiết của du
lịch học hiện đại là vì khi du lịch ngày càng phát triển thì nhu cầu về nguồn nhân lực
ngày càng cao cả về số lượng và chất lượng. Trong khi đó, hiện nay nguồn nhân lực du
lịch đang còn thiếu, sự phân bố và chất lượng nguồn nhân lực giữa các khu vực, quốc gia
trên thế giới không đồng đều. Du lịch muốn phát triển để trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn địi hỏi phải có nguồn nhân lực với chất lượng cao, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập
như hiện nay.
Việt Nam cũng không nằm ngồi quỹ đạo chung đó, mặc dù ở Việt Nam du lịch là một
ngành mới và chỉ thực sự bắt đầu phát triển mạnh vào những năm cuối thế kỷ 20.
Đề tài “Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam” khảo sát tình hình thực trạng nguồn nhân lực

du lịch ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp để phát triển nguồn
nhân lực du lịch đáp ứng được nhu cầu của tình hình mới.

Trang | 1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH VIỆT NAM
1.1.

Số lượng và cơ cấu lao động

1.1.1. Số lượng lao động
Năm 2003, tồn ngành cơng nghiệp (bao gồm cả các doanh nghiệp tư nhân) sử dụng hơn
830.000 người, trong đó khoảng 230.000 lao động trực tiếp. Theo báo cáo của Hội thảo
quốc gia “Đào tạo nguồn nhân lực du lịch theo nhu cầu xã hội” tổ chức tại TP.HCM ngày
7/3/2008, đến nay cả nước có hơn 1 triệu người hoạt động trong lĩnh vực du lịch. Trong
đó, có khoảng 285.000 lao động trực tiếp và 750.000 lao động gián tiếp, chiếm gần 3%
tổng số lao động của cả nước, tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 4,3%. Theo đánh
giá chung của ngành du lịch Việt Nam, lượng nhân lực nói trên khơng đáp ứng được nhu
cầu hiện tại, đặc biệt là ở các doanh nghiệp mới xây dựng hoặc mở rộng ở các tỉnh đồng
bằng hoặc khu vực. Trong nhiều lĩnh vực du lịch hoặc lĩnh vực thương mại - lĩnh vực du
lịch, lực lượng cán bộ quản lý du lịch quốc gia còn rất yếu nên hiệu quả quản lý còn rất
hạn chế.
1.1.2. Cơ cấu lao động
a) Cơ cấu theo ngành nghề
Hiện nay, trong nguồn nhân lực du lịch Việt Nam, lao động quản lý chiếm tỷ trọng
khá cao trong tổng số lao động của ngành (25%); lao động phục vụ trực tiếp các ngành
nghề chuyên sâu chiếm 75%, trong đó lễ tân chiếm 9%, phục vụ buồng là 14,8%, phục vụ
bàn và bar (ăn uống) là 15%, nhân viên nấu ăn là 10,6%; nhân viên lữ hành và hướng dẫn

viên là 4,9%; nhân viên lái xe du lịch là 10,6%; còn lại là các lao động làm ngành nghề
khác 36,5%. Giữa các lĩnh vực chuyên môn lại diễn ra tình trạng cơ cấu lao động trong du
lịch có tỷ lệ khơng đồng đều (lễ tân, buồng, bàn, lữ hành, hướng dẫn viên,…) và thấp so
với tỷ lệ chung của lao động trực tiếp. Điều dễ nhận thấy là nhân lực trong du lịch hiện
nay được hình thành và đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau do vậy chất lượng không đồng
Trang | 2


đều, chưa phù hợp với yêu cầu chuyên môn. Trên cơ sở tổng hợp báo cáo và dự báo của
các Sở quản lý du lịch, Tổng cục Du lịch dự báo cơ cấu lao động trong những năm tới:
lĩnh vực khách sạn - nhà hàng cần đông lao động nhất, chiếm 50,5%; kế đến là dịch vụ
giải trí, dịch vụ khác chiếm 35,4%; lữ hành, vận chuyển du lịch chiếm 13,7%.
b) Cơ cấu theo trình độ
Theo thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam, tính đến năm 2005, trong tổng số
lao động ngành du lịch có khoảng 0,21% cán bộ đạt trình độ sau đại học; 12,75% cán bộ
đạt trình độ đại học và cao đẳng; đa số lao động trong ngành du lịch được đào tạo ở trình
độ trung cấp, dạy nghề hoặc được đào tạo bồi dưỡng tại chỗ. Cụ thể là khoảng 25,8% cán
bộ đạt trình độ trung cấp, 18,1% cán bộ đạt trình độ sơ cấp và 43,14% cán bộ được đào
tạo bồi dưỡng tại chỗ. Trong số lao động trực tiếp, có 32% lao động biết tiếng Anh; 3,2%
biết tiếng Pháp; 3,6% biết tiếng Trung Quốc ở các mức độ khác nhau. Số lao động sử
dụng thông thạo các ngoại ngữ khác không nhiều.
c) Cơ cấu theo vùng, miền
Cả nước hiện có hơn một triệu lao động, trong đó chỉ khoảng gần 1/3 trong số đó
là lao động trực tiếp, cịn lại là lao động gián tiếp. Tình trạng phân bố lao động giữa các
vùng miền cũng không đồng đều, khoảng 40% tập trung tại miền Bắc, 50% tại miền Nam
và 10% tại miền Trung. Điều này cũng lý giải vì sao ở khu vực miền Trung tốc độ phát
triển du lịch chưa cao.
d) Cơ cấu theo độ tuổi
Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, tính đến 2005, khoảng 40% lao động du lịch
có độ tuổi dưới 30 tuổi; 36% lao động du lịch nằm trong độ tuổi từ 30 đến 40; 21% lao

động du lịch nằm trong độ tuổi từ 41 đến 50; 3% lao động du lịch nằm trong độ tuổi trên
50. Như vậy về cơ bản, lao động trong ngành du lịch của nước ta nằm trong độ tuổi khá
trẻ. Điều đó chứng tỏ chúng ta có nhiều thuận lợi trong công tác đào tạo, bồi dưỡng bởi
lớp trẻ thường có khả năng tiếp thu nhanh việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

Trang | 3


1.2.

Chất lượng nguồn nhân lực du lịch
Nhìn chung chất lượng nguồn nhân lực du lịch của Việt Nam đang dần dần được

nâng cao. Trong những năm qua, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho nguồn nhân lực du
lịch luôn được quan tâm chú trọng. Tuy nhiên, vấn đề bức xúc nhất hiện nay của đội ngũ
lao động trong du lịch là “vừa thiếu, vừa yếu”. Ngoại trừ một số doanh nghiệp liên doanh
với nước ngoài, đội ngũ lao động được đào tạo tại chỗ, hoặc gửi đi đào tạo ở nước ngồi
nên chất lượng có tốt hơn, đáp ứng được yêu cầu và được đánh giá khá cao, còn lại về cơ
bản chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, số lượng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của
du lịch để trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và còn có khoảng cách khá xa so với trình độ
của các nước trong khu vực cũng như thế giới.
Chất lượng của nguồn nhân lực du lịch được đánh giá từ trình độ văn hóa đến trình
độ chun mơn, nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ.
Về trình độ văn hóa: Hiện nay số lao động chưa tốt nghiệp phổ thông trung học
chiếm 30% trong tổng số lao động ngành du lịch, chủ yếu ở các bộ phận phục vụ trực tiếp
như nhân viên phục vụ bàn, buồng, nhân viên tạp vụ hay bảo vệ tại các cơ quan, doanh
nghiệp… Tỷ lệ này có thể cịn tồn tại trong một thời gian dài, đặc biệt là ở khu vực đồng
bằng sông Cửu Long, nơi mà phần lớn người dân sống nhờ vào nguồn du lịch sông nước
nên hầu như “người người làm du lịch, nhà nhà làm du lịch”.
Về chuyên môn, nghiệp vụ: Tỷ lệ lao động có chun mơn, nghiệp vụ về du lịch

còn thấp, chỉ chiếm khoảng 43% tổng số lao động du lịch. Còn phần lớn số lao động còn
lại là từ các ngành nghề khác chuyển sang hoặc lao động chưa qua đào tạo, bồi dưỡng.
Qua số liệu trên có thể thấy rằng hơn một nửa số lao động trong du lịch là khơng có
chun mơn, nghiệp vụ. Thậm chí, ở một số tỉnh đồng bằng sơng Cửu Long 80% lao
động chưa qua đào tạo, bồi dưỡng về du lịch.
Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước cũng như các doanh nghiệp còn chưa theo kịp
với sự phát triển và hội nhập, năng lực quản lý cũng như trình độ chun mơn cịn nhiều
hạn chế. Tại một số cơ quan quản lý nhà nước cũng như một số doanh nghiệp có đội ngũ
quản lý với trình độ chun mơn cao. Bên cạnh đó ở nhiều cơ quan quản lý nhà nước và
doanh nghiệp khác, đội ngũ quản lý còn thiếu kiến thức về quản trị kinh doanh du lịch,
thậm chí khơng có chun mơn, nghiệp vụ về du lịch. Điều này khá phổ biến ở các doanh
Trang | 4


nghiệp du lịch thuộc sở hữu Nhà nước và đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân ở nhiều
địa phương. Chính vì vậy, tính chun nghiệp trong doanh nghiệp đó thường bị hạn chế
và hầu như bị áp đặt theo tư duy của người lãnh đạo.
Trình độ, tay nghề của một bộ phận lớn lực lượng lao động trực tiếp cịn hạn chế,
phục vụ du lịch cịn theo thói quen, theo kinh nghiệm và chủ yếu theo bản năng tự nhiên.
Đội ngũ hướng dẫn viên khơng chỉ yếu về trình độ ngoại ngữ, khơng tinh thơng về nghiệp
vụ mà cịn thiếu những hiểu biết về truyền thống văn hoá, lịch sử cũng như những giá trị
của các danh lam thắng cảnh, tính chun nghiệp chưa cao, và đơi khi có thái độ không
đúng đối với du khách. Phần lớn nguồn nhân lực trong ngành du lịch hiện nay được đào
tạo trong trường Đại học ngoại ngữ mà không được đào tạo trong các khoa du lịch của
các đại học khác. Có một thực tế, hiện hầu hết các khách sạn cao cấp đều vấp phải khó
khăn trong việc tìm kiếm nhân viên đã qua đào tạo một cách bài bản, giỏi ngoại ngữ.
Chính vì thế hầu hết các sinh viên chuyên ngành du lịch khi được nhận vào làm việc tại
các khách sạn này đều phải qua lớp đào tạo lại ngắn hạn.
Về trình độ ngoại ngữ: Hiện nay, hơn một nửa lao động làm việc trong du lịch
không biết ngoại ngữ, đây là một hạn chế rất lớn của du lịch Việt Nam. Trình độ ngoại

ngữ có thể nói là công cụ tối cần thiết để người làm du lịch tiếp cận với du khách quốc tế.
Số lao động biết ít nhất một ngoại ngữ chiếm 45% tổng số lao động (trong đó chủ yếu
biết tiếng Anh). Ngay cả số lao động biết tiếng Anh cũng chỉ có 15% ở trình độ đại học,
cịn lại là ở trình độ A, B, C. Số lao động biết 2 ngoại ngữ trở lên khoảng 28%.
Theo một khảo sát ngẫu nhiên do TOEIC Việt Nam (đơn vị năm 2006 đã được
Tổng cục Du lịch chọn làm đối tác xây dựng thang chuẩn tiếng Anh cho 6 nghề trong
ngành du lịch) tiến hành tại khoảng 200 doanh nghiệp khách sạn và lữ hành trên tồn
quốc, cho thấy đại bộ phận nhân viên có trình độ tiếng Anh rất thấp so với vị trí đảm
nhiệm. Cá biệt, một số lượng không nhỏ nhân viên thuộc hạng khách sạn 5 sao chỉ đạt
mức điểm 10/990 của bài thi TOIEC.
Như vậy có thể thấy rằng, chất lượng nguồn nhân lực du lịch Việt Nam hiện nay
cũng đang là một vấn đề đáng phải quan tâm. Vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta cần phải
có một chiến lược để phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu
cầu về mặt số lượng mà phải đảm bảo chất lượng, với một cơ cấu hợp lý.
Trang | 5


1.3.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc rất lớn vào công tác đào tạo, bồi dưỡng

nguồn nhân lực. Để có nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực này phải được đào
tạo bài bản, đúng tiêu chuẩn. Việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch của Việt
Nam hiện đang được thực hiện song song giữa hệ thống đào tạo quốc gia và các doanh
nghiệp du lịch. Hệ thống đào tạo quốc gia bao gồm các trường đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề. Kinh doanh du lịch bao gồm khách sạn, nhà hàng và đại
lý du lịch. Ngồi ra, cịn có các dự án đào tạo, bồi dưỡng dưới hình thức liên kết hoặc do
nước ngồi, tổ chức, dự án tài trợ.
1.3.1. Đào tạo tại hệ thống đào tạo quốc gia

Cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và thời gian thực tập cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng đào tạo. Do đặc thù của nhân lực trong ngành du lịch là có tính định
hướng nghề nghiệp rất cao nên một trong những yêu cầu khơng thể thiếu trong q trình
đào tạo là sinh viên phải được thực hành, thực tập để gắn lý thuyết đã được học với thực
tế. Nhiều trường đại học và cao đẳng chưa trang bị được phòng thực hành, xưởng thực
tập ngành nghề, nghiệp vụ cho sinh viên, sinh viên phải học lý thuyết q nhiều, ít có cơ
hội thực hành để vận dụng lý thuyết đã được học trên lớp. Một số trường chưa có định
hướng thực tập cuối khóa và thực tập mơn học cho sinh viên một cách cụ thể, rõ ràng và
chưa xác định được thời gian cần thiết cho cơng việc này.
Chương trình đào tạo của các trường hầu hết còn nặng về lý thuyết và xa rời thực
tế. Nhu cầu về nhân lực của ngành du lịch rất lớn, nhưng học sinh, sinh viên ra trường tìm
được việc làm khơng dễ mà ngun nhân chính vẫn là do kiến thức được trang bị trong
thời gian đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu công việc. Sở dĩ có tình trạng trên là do các cơ sở
đào tạo, đặc biệt là các trường đại học đều chú trọng đào tạo sinh viên theo diện rộng, để
sinh viên sau khi ra trường dễ thích ứng với hồn cảnh, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay,
khi ngành du lịch đang là ngành mang tính cạnh tranh cao hơn so với các ngành dịch vụ
khác.

Trang | 6


1.3.2. Đào tạo theo dự án và bồi dưỡng ngắn hạn
Mục tiêu tổng thể của dự án là “Nâng cao tiêu chuẩn và chất lượng nguồn nhân lực
trong ngành du lịch Việt Nam” giúp Chính phủ và các doanh nghiệp du lịch có khả năng
duy trì bền vững chất lượng và số lượng nguồn nhân lực đào tạo sau khi dự án kết thúc.
Do đó, trọng tâm của dự án là tập huấn nâng cao kỹ năng đào tạo để có thể triển khai đào
tạo các tiêu chuẩn kỹ năng nghề đã được công nhận cho đội ngũ nhân viên tại nơi làm
việc. Kết quả của hoạt động này là một đội ngũ đào tạo viên tại chỗ có trình độ chuyên
môn cao cùng với tài liệu hướng dẫn tiêu chuẩn kỹ năng nghề trình độ cơ bản, tài liệu
hướng dẫn cho đào tạo viên và chương trình video hỗ trợ đào tạo. Các đào tạo viên tại

chỗ này sẽ trở thành những nhà đào tạo chính cho lao động tại doanh nghiệp mình để
chuẩn hố các thao tác kỹ năng nghề cho toàn bộ nhân lực trong doanh nghiệp mình để từ
đó góp phần chuẩn hố trên tồn quốc.
1.3.3. Đào tạo tại các doanh nghiệp du lịch
Ngành du lịch của Việt Nam là một ngành tương đối trẻ, được thành lập từ năm
1960 và chỉ mới thực sự phát triển mạnh từ những năm cuối thế kỷ 20. Do lịch sử phát
triển ngành du lịch, nên hiện nay ở nước ta vẫn cịn hàng chục nghìn cán bộ trong ngành
du lịch, nhất là ở các doanh nghiệp Nhà nước được luân chuyển từ các lĩnh vực khác sang
mà chưa được đào tạo và đào tạo lại một cách cơ bản về du lịch. Đáng chú ý là đối với
các doanh nghiệp ngồi quốc doanh thì hầu hết chủ sở hữu là lao động quản lý chưa được
đào tạo một cách cơ bản. Vì vậy đây là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng lớn
đến chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch và hạn chế tốc độ phát triển du lịch, hạn chế
việc thu hẹp khoảng cách trình độ phát triển của nước ta so với các nước khác trong khu
vực và trên thế giới. Trong những năm qua, một số khóa bồi dưỡng, nâng cao trình độ
chun môn nghiệp vụ cho các đối tượng trên đã được các doanh nghiệp chú trọng tổ
chức, nhưng cịn q ít về số lượng và hạn chế về chất lượng; chương trình, nội dung bồi
dưỡng chưa phù hợp về thời gian và nhu cầu của từng đối tượng và của thực tiễn; kế
hoạch mở lớp thường thông qua ngay từ đầu năm nên các cơ sở thường bị động và gặp
khó khăn trong việc bố trí học viên tham gia.

Trang | 7


Ngồi đào tạo chính thức, các doanh nghiệp du lịch còn tổ chức đào tạo cho đội
ngũ nhân viên của mình ngay tại nơi làm việc. Một số doanh nghiệp chỉ thực hiện hình
thức đào tạo như kèm cặp, người đi trước hướng dẫn người đi sau hoặc chủ động liên kết
với các trường để đào tạo và thường là các doanh nghiệp nhà nước. Trong khi đó, một số
doanh nghiệp lại sử dụng hình thức gửi đào tạo tập trung, mời chuyên gia, giáo viên đến
bồi dưỡng cho đội ngũ nhân viên hoặc hỗ trợ một phần kinh phí cho nhân viên đi học.
Đặc biệt là những doanh nghiệp mới, những công ty liên doanh đã tập trung đào tạo lại và

bồi dưỡng cho đội ngũ chủ chốt và nhân viên nghiệp vụ ngay từ khi còn xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật. Một số doanh nghiệp đã xây dựng được chiến lược phát triển nguồn
nhân lực, ngay từ đầu đã tập trung đầu tư đào tạo bộ máy khung thơng qua hình thức gửi
đi nước ngồi hoặc mời chuyên gia trong chuỗi khách sạn quốc tế lớn đến huấn luyện.
Nhìn chung, các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp
100% vốn nước ngồi có các chương trình đào tạo tại chỗ hiệu quả, cịn các doanh nghiệp
nhỏ thường khơng có đủ khả năng đào tạo như vậy.
1.3.4. Công tác hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch
Đến nay, Tổng cục Du lịch đã ký kết 26 hiệp định song phương hợp tác du lịch với
các nước, tham gia Hiệp định du lịch ASEAN, tham gia các tổ chức quốc tế liên quan đến
du lịch, các chương trình và dự án hợp tác khu vực, liên khu vực, trong đó hợp tác phát
triển nguồn nhân lực du lịch luôn là nội dung được ưu tiên. Việc huy động nguồn lực
quốc tế cho phát triển nguồn nhân lực du lịch trong những năm qua đã thu được những
kết quả đáng kể. Dự án đào tạo du lịch - khách sạn của Chính phủ Luxembourg tài trợ và
Dự án phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam do Cộng đồng Châu Âu (EU) tài trợ là
hai dự án lớn với mục tiêu phát triển toàn diện nguồn nhân lực du lịch Việt Nam. Bên
cạnh đó cịn có các dự án hỗ trợ kỹ thuật của Tây Ban Nha, Singapore, Bỉ, Tổ chức Du
lịch thế giới
(WTO), Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA),...; đã có nhiều chương trình nghiên
cứu, khảo sát, tư vấn, và các khóa đào tạo về phát triển nguồn nhân lực du lịch với sự hợp
tác của các chuyên gia nước ngoài được tổ chức. Đến nay, tổng vốn ODA toàn ngành du
lịch đã thu hút được để phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch ước
khoảng 40 triệu USD. Nhờ thế, đã có thêm nguồn lực tài chính, hiện vật và kinh nghiệm
Trang | 8


cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành du lịch.
Hoạt động liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo du lịch nước ngoài cũng được đẩy
mạnh trong khn khổ hợp tác đa phương (đã có 19 cơ sở đào tạo du lịch của nước ta
tham gia mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch châu Á - Thái Bình Dương APETIT, 06 cơ sở

tham gia mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch ASEAN) hoặc song phương (chủ yếu với các
trường trong khu vực ASEAN). Nhiều cơ sở đào tạo trong nước đã liên kết với các cơ sở
đào tạo du lịch nước ngoài đào tạo các chuyên ngành du lịch dưới nhiều hình thức như
kết hợp đào tạo trong nước và học chuyển tiếp tại nước ngoài, đào tạo qua mạng..., mời
chuyên gia nước ngoài vào giảng dạy tại các cơ sở đào tạo du lịch của Việt Nam.
CHƯƠNG 2: DỰ BÁO NHU CẦU LAO ĐỘNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH VIỆT NAM
1.4.

Dự báo nhu cầu lao động trong những năm tới
Theo "Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 - 2010", dự kiến đến năm 2010

Việt Nam sẽ đón và phục vụ 5,5 - 6 triệu lượt khách quốc tế, 25 triệu lượt khách nội địa
và đạt mức thu nhập từ 4 - 4,5 tỷ USD. Ngành du lịch sẽ cần đến 1,4 triệu lao động, trong
đó lao động trực tiếp trong du lịch là hơn 333.000 người. Như vậy, trong 3 - 4 năm tới
cần phải thu hút và đào tạo mới cho khoảng 100.000 lao động du lịch, chưa kể hơn 50%
số lao động hiện có chưa được đào tạo và một bộ phận lớn lao động cần phải đào tạo lại.
Đó là con số không nhỏ và cũng là một nhiệm vụ không hề nhẹ nhàng và đơn giản đối với
công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch Việt Nam.
Tổng cục Du lịch đã xây dựng "Chương trình Phát triển nguồn nhân lực du lịch du
lịch " để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn,
đảm bảo phát triển bền vững trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Đây là chương trình hành động có tính chất tổng thể, được xây dựng trên cơ sở tổng kết
quá trình quản lý và đánh giá, dự báo yêu cầu về nhân lực du lịch của các sở quản lý du
lịch ở 64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Tổng cục Du lịch với sự hỗ trợ của
chuyên gia tư vấn quốc tế (Tổ chức Du lịch Thế giới và Cộng đồng Châu Âu).

Trang | 9



1.5.

Đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam



Để phát triển ngn nhân lực du lịch Việt Nam thì một trong những cơng tác cần

quan tâm nhất là vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực.


Để phát triển nguồn nhân lực du lịch, chúng ta phải có hàng loạt các giải pháp

mang tính đồng bộ và sự phối kết hợp từ Trung ương đến địa phương.


Dưới đây là một số đề xuất giải pháp cần thiết nhằm phát triển nguồn nhân lực du

lịch Việt Nam:
1.5.1. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực du lịch
Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm vừa để dịnh hướng đúng, tằng cường
năng lực hoạch định chính sách, vừa để hình thành khung pháp lý và cơ chế trong đào
tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực du lịch. Một thực tế dễ nhận thấy hiện nay là
hàng loạt các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch ra đời, trong đó có cả những cơ
sở hoạt động mà không được cấp phép. Mỗi cơ sở lại có cách thức hoạt động riêng, hoạt
động đào tạo một cách tràn lan không theo quy hoạch, chuẩn mực dẫn đến chất lượng đào
tạo không đảm bảo, làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp phát triển du lịch. Chính vì
vậy việc xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các
hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch; xây dựng cơ chế chính sách và quy chế

quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch là việc làm hết sức cần thiết vào
lúc này. Cần nhanh chóng hình thành đội ngũ cán bộ chun trách công tác đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực du lịch ở các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch. Tăng cường sự
phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương và địa phương
trong đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra liên
ngành và chuyên ngành đối với các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân
lực du lịch trong toàn quốc, có hình thức xử lý thích đáng đối với các cơ sở vi phạm quy
định.

Trang | 10


1.5.2. Xây dựng các tiêu chuẩn nghề trong từng lĩnh vực ngành nghề
Tiêu chuẩn hóa một bước nguồn nhân lực du lịch ở các lĩnh vực, ngành nghề theo
yêu cầu thực tế trong nước, phù hợp với các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế tạo điều kiện cho
hội nhập quốc tế về lao động trong du lịch là việc làm quan trọng. Các Bộ, ban ngành liên
quan cần phải xây dựng được hệ thống tiêu chuẩn đối với các chức danh và cấp bậc
ngành nghề trong du lịch. Đây là nhiệm vụ mang tính quy chuẩn, tạo hệ thống chuẩn mực
đánh giá trình độ tay nghề một cách thống nhất trong cả nước, là cơ sở để các cơ sở đào
tạo,
người sử dụng lao động và người lao động phấn đấu, hoàn thiện.
Trong những năm qua, Dự án phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam do EU
tài trợ đã mang lại hiệu quả cao trong công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch và đã xây
dựng được 13 tiêu chuẩn nghề du lịch. Chứng chỉ Nghiệp vụ Du lịch Việt Nam (VTCB)
do dự án này cấp đã được quốc tế cơng nhận. Vì vậy cần tiếp tục thúc đẩy và mở rộng
phạm vi hoạt động của mô hình này; phối hợp với cơ quan hữu quan và Dự án EU về
phát triển nguồn nhân lực du lịch để hoà nhập hệ thống chứng chỉ VTCB trong hệ thống
đào tạo quốc gia; lồng ghép hoạt động này với Chương trình hành động quốc gia về du
lịch.
Phối hợp các ngành liên quan và các cơ sở đào tạo tổ chức thực hiện chương trình

khung các chuyên ngành du lịch bậc trung học chuyên nghiệp; phối hợp xây dựng, ban
hành và tổ chức thực hiện chương trình khung đào tạo du lịch bậc cao đẳng và đại học để
thống nhất quản lý trong cả nước và nâng cao chất lượng đào tạo. Trong quá trình xây
dựng chương trình, giáo trình môn học, chú trọng tham khảo, học tập kinh nghiệm quốc
tế nhằm đạt tới những tiêu chuẩn chung trong khu vực và quốc tế, tạo tiền đề phát huy
tính tích cực và năng động của thị trường lao động không biên giới, khơng rào cản trong
q trình hội nhập.
1.5.3. Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi dưỡng du lịch
Một trong những vấn đề của nguồn nhân lực du lịch Việt Nam là tình trạng mất
cân đối trong cơ cấu đào tạo giữa các trình độ cũng như trong sự phân bố lao động của
các vùng miền. Do vậy việc phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi dưỡng du lịch trên
Trang | 11


toàn quốc cần phải tập trung giải quyết triệt để vấn đề trên. Cần nâng cấp cơ sở đào tạo
hiện có; tập trung đầu tư một số cơ sở đào tạo trọng điểm đạt tiêu chuẩn tiên tiến của
quốc tế ở các địa phương là trọng điểm du lịch và nơi có xu hướng phát triển mạnh du
lịch như Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Nha Trang, Lâm Đồng, Cần Thơ, Thái
Nguyên... tiến tới thành lập trường Đại học du lịch của cả nước. Bên cạnh đó cần đầu tư
xây dựng các cơ sở đào tạo và hình thành bộ phận đào tạo du lịch ở các trường nghề của
các địa phương khác, đặc biệt ở các khu vực miền Trung, Tây Nguyên và Tây Bắc.
Khuyến khích việc mở các cơ sở đào tạo du lịch ở các doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo
ngồi cơng lập và các cơ sở có vốn đầu tư của nước ngồi theo quy định của pháp luật
Việt Nam. Cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo, chú trọng đào tạo bậc co đẳng và trung
học nghề. Cần phải tạo ra sự liên thơng giữa các chương trình đào tạo và giữa các cơ sở
đào tạo, do đó tạo ra tính liên tục và kết hợp trong quá trình đào tạo, từ đào tạo trung học,
cao đảng đến đại học và sau đại học, kết hợp giữa đào tạo và đào tạo lại, bồi dưỡng ngắn
hạn và đào tạo dài hạn, đào tạo chính quy và đào tạo tại chức, đào tạo trong nước và đào
tạo ở nước ngoài.
1.5.4. Nâng cao điều kiện đào tạo, bồi dưỡng du lịch

Việc nâng cao điều kiện đào tạo, bồi dưỡng du lịch địi hỏi phải có sự đồng bộ cả
về cơ sở vật chất; đội ngũ giáo viên, giảng viên; chương trình và giáo trình đào tạo.
Về cơ sở vật chất: Xuất phát từ thực tế hầu hết các trường, các cơ sở đào tạo hiện
nay cịn thiếu hoặc chưa có đầy đủ hệ thống trang thiết bị phục vụ đào tạo, chưa có các
phịng, xưởng thực tập, thực hành cho học sinh, sinh viên, hệ thống thư viện xuống cấp...
vì vậy việc tập trung đầu tư cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhằm mở
rộng quy mô và nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo du lịch là
việc làm cần thiết. Cần phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo với cơ quan quản lý nhà
nước về du lịch và doanh nghiệp du lịch để tạo cơ sở kiến tập, thực tập cho học sinh và
sinh viên.
Về đội ngũ giáo viên, giảng viên: Chất lượng nguồn nhân lực du lịch phụ thuộc rất
nhiều vào đội ngũ giáo viên, giảng viên có chất lượng hay không. Hiện nay, số lượng
giáo viên, giảng viên của các cơ sở đào tạo vừa thiếu, vừa yếu và hầu hết là các giáo viên
trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm giảng dạy. Vì vậy, cần phát triển đội ngũ giáo viên, giảng
Trang | 12


viên và đào tạo viên đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đạt tiêu chuẩn về chất
lượng đáp ứng nhu cầu vừa tăng quy mô vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo,
bồi dưỡng nhân lực du lịch. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên và giáo viên cho các
cơ sở đào tạo du lịch bằng nhiều hình thức, cả ở trong và ngoài nước; thu hút giảng viên
từ các cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp bao gồm công chức, viên chức, các
nhà quản lý, các nhà khoa học có trình độ, các doanh nhân, nghệ nhân, các cơng nhân kỹ
thuật tay nghề bậc cao; nâng cao trình độ tin học và ngoại ngữ cho giảng viên, giáo viên,
nhằm ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy và tạo điều kiện cho giảng viên, giáo
viên tự nghiên cứu, trao đổi trực tiếp các lĩnh vực chuyên môn với các chuyên gia nước
ngoài và đủ khả năng tham gia các hội nghị, hội thảo, diễn đàn quốc tế và học tập, tu
nghiệp ở nước ngoài. Cần mở các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo
viên, giảng viên, đặc biệt là cho đội ngũ giáo viên, giảng viên trẻ.
Về chương trình đào tạo: Khơng ngừng đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình

đào tạo du lịch từ dạy nghề, trung học, cao đẳng đến đại học theo hướng chuẩn hoá, hiện
đại hoá, phù hợp với nhu cầu của xã hội và thị trường. Cần tiếp cận nhu cầu thực tế về
năng lực làm việc trong các lĩnh vực của ngành, trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới,
mang nét đặc trưng của Việt Nam, đảm bảo tính liên thơng giữa các bậc đào tạo trong hệ
thống giáo dục quốc dân. Từng bước chuyển đổi việc xây dựng chương trình mơn học
theo niên chế, truyền thống hiện nay sang chương trình theo tín chỉ. Cần tăng cường đào
tạo ngoại ngữ và tin học, nhất là ngoại ngữ và tin học chuyên ngành cho học sinh, sinh
viên bởi đây là công cụ cần thiết khi bước vào thời kỳ hội nhập. Tăng cường việc sử dụng
ngoại ngữ trong việc giảng dạy của giảng viên và học tập của sinh viên.
Về giáo trình đào tạo và tài liệu tham khảo: Hiện nay, giáo trình và tài liệu học tập
cho sinh viên ngành du lịch của nước ta đang thiếu trầm trọng hoặc đang dần bị lạc hậu
so với thời đại. Vì vậy, cần sớm biên soạn và hồn thiện giáo trình, tài liệu học tập cho
sinh viên phù hợp với các tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Các cơ sở đào tạo cần hợp tác
với nhau để biên soạn các giáo trình cơ bản hoặc biên dịch các tài liệu của nước ngoài; áp
dụng bộ đề chuẩn của Dự án phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong kiểm tra, đánh giá
chất lượng học sinh, sinh viên. Các trường đào tạo tay nghề cần tiến tới xây dựng bộ giáo
trình chuẩn để sử dụng thống nhất trong cả nước.
Trang | 13


Cùng với biên soạn giáo trình, việc biên soạn tài liệu tham khảo, tài liệu học tập
cũng hết sức cần thiết. Các trường nên phân công đội ngũ cán bộ giảng dạy, chuẩn bị các
điều kiện cơ sở vật chất và triển khai thực hiện.
1.5.5. Tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước
phục vụ đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch
Các cơ quan chức năng, mà cụ thể là Tổng cục du lịch cần nghiên cứu, ban hành
các chính sách để thực hiện xã hội hố cơng tác đào tạo du lịch và tạo điều kiện cho
những người có nhu cầu học tập về du lịch có thể tiếp cận và hưởng thụ được những dịch
vụ mà hệ thống đào tạo, bồi dưỡng du lịch cung cấp. Cần sử dụng một cách có hiệu quả
nguồn ngân sách nhà nước cho đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch. Khuyến khích các

trường, cơ sở đào tạo lập các cơ sở sản xuất, cơ sở dịch vụ phù hợp ngành nghề đào tạo
để học sinh, sinh viên có điều kiện thực hành.
Tiếp tục đẩy mạnh việc đa dạng hố các loại hình đào tạo, bồi dưỡng. Tập trung và
sử dụng có hiệu quả kiến thức và kinh nghiệm của các nhà khoa học đầu ngành trong
nước, của người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngồi để phục vụ cơng tác phát
triển nguồn nhân lực du lịch. Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế để thu hút vốn đầu tư và
công nghệ tiên tiến của nước ngoài phục vụ cho phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt
Nam. Nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực du lịch nhằm huy động
sự hỗ trợ phát triển chính thức nước ngoài (ODA), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và
các hình thức đầu tư khác phục vụ phát triển nguồn nhân lực du lịch. Tiếp tục khai thác
và sử dụng có hiệu quả dự án Luxembourg, dự án EU và các dự án khác phục vụ phát
triển nguồn nhân lực du lịch. Cần khuyến khích và tạo điều kiện cho cơ sở đào tạo liên
kết, hợp tác với các cơ sở đào tạo trong khu vự và trên thế giới...
1.5.6. Đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến trong công tác đào
tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch
Trong thời đại ngày nay, khoa học - công nghệ được ứng dụng rộng khắp trong tất
cả các lĩnh vực. Khoa học - công nghệ mang lại nhiều lợi ích và thuận lợi trong cuộc
sống. Việc tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ trong đào tạo phát
triển nhân lực du lịch là cần thiết, nhất là khi chúng ta đã bước vào thời kỳ hội nhập
Trang | 14


WTO. Do đó cần phải đầu tư nhiều hơn nữa về cơ sở vật chất, trang thiết bị để từng bước
ứng dụng, khai thác hiệu quả của công nghệ thông tin để phát triển nguồn nhân lực du
lịch như công tác quản lý đào tạo; xây dựng giáo trình điện tử trong đào tạo du lịch; sử
dụng Internet để thiết lập hệ thống thông tin qua mạng giữa các đầu mối đào tạo, bồi
dưỡng nhân lực du lịch; mở rộng các hình thức đào tạo mới như đào tạo từ xa, đào tạo
qua mạng...
1.5.7. Tạo môi trường thuận lợi cho đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch



Cần thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền rộng rãi trong cộng đồng bằng

nhiều hình thức về vai trị, vị trí và hiệu quả của du lịch, về trách nhiệm phát triển du lịch,
cách ứng xử trong du lịch..., tạo môi trường tốt cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhân
lực du lịch, đặc biệt chú ý đến đối tượng cán bộ quản lý thuộc các lĩnh vực liên quan đến
du lịch, đội ngũ giáo viên các bậc đào tạo, cán bộ chính quyền địa phương và những
người tiếp xúc trực tiếp với khách du lịch.


Lồng ghép chương trình giáo dục du lịch trong giảng dạy tại cơ sở đào tạo trong hệ

thống giáo dục phổ thơng, trong các trường chính trị của các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, các trường đảng, đồn thể và hành chính trung ương phù hợp với tính chất
của mỗi cơ sở đào tạo.


Mở rộng và tăng cường liên kết giữa cơ sở đào tạo với các ngành, địa phương, các

điểm, khu du lịch, các doanh nghiệp du lịch.


Tạo điều kiện để các thành phần xã hội có thể tham gia, đóng góp xây dựng cơ sở

vật chất, trang thiết bị dạy và học, góp ý kiến cho các chủ trương, chính sách, chương
trình, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực du lịch, các tiêu chuẩn kỹ năng, nội dung
chương trình đào tạo, cơ cấu trình độ đào tạo; hỗ trợ kinh phí cho người học, tiếp nhận
sinh viên đến thực tập và tiếp nhận học sinh tốt nghiệp vào làm việc.



Nâng cao hình ảnh nghề nghiệp du lịch thông qua đẩy mạnh tuyên truyền trên các

phương tiện truyền thơng; xây dựng chương trình quảng bá nhằm mục đích khuyến học
và định hướng nghề nghiệp du lịch.

Trang | 15


1.5.8. Tăng cường liên kết, hợp tác trong hoạt động đào tạo nhân lực
Việc tăng cường liên kết, hợp tác nhằm tranh thủ sự giúp đỡ và tiếp thu những
kinh nghiệm, kỹ thuật tiên tiến của các nước, các tổ chức, các doanh nghiệp. Các cơ sở
đào tạo nên tăng cường liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp bởi các doanh nghiệp
thường có nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ nhân viên rất lớn. Tuy nhiên không
phải doanh nghiệp nào cũng có thể tổ chức được hoạt động bồi dưỡng cho nhân viên của
mình. Do đó, các cơ sở đào tạo nên liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp để tổ chức các
hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho doanh nghiệp. Đây là hình thức đào tạo, bồi dưỡng
đem lại hiệu quả cao, đáp ứng được yêu cầu đặt ra của doanh nghiệp và hạn chế được chi
phí cho doanh nghiệp. Đồng thời việc các cơ sở đào tạo nên liên kết, hợp tác với các
doanh nghiệp cũng là cơ sở tạo đầu ra cho học viên, sinh viên sau khi ra trường, tạo ra
các cơ sở thực tập tin cậy nhằm nâng cao chất lượng trong quá trình đào tạo. Các doanh
nghiệp cũng cần tăng cường liên kết, hợp tác với các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp
khác trong công tác đào tạo.Việc tăng cường liên kết, hợp tác với các cơ sở đào tạo giúp
doanh nghiệp có thể phát triển được mơ hình đào tạo tại chỗ theo đơn đặt hàng, vừa tiết
kiệm chi phí, vừa mang lại hiệu quả cao, đáp ứng được nhu cầu sử dụng của các doanh
nghiệp. Đồng thời, qua đó doanh nghiệp cũng sẽ lựa chọn, tuyển dụng được nhân lực có
chất lượng đáp ứng được yêu cầu của mình. Các doanh nghiệp có thể có các chương trình
tài trợ trong việc biên soạn và in ấn giáo trình, trao học bổng cho sinh viên, tiếp nhận,
hướng dẫn tạo điều kiện cho sinh viên thực tập... Việc liên kết, hợp tác giữa các doanh
nghiệp với nhau trong cơng tác đào tạo, bồi dưỡng sẽ có tính khả thi và hiệu quả cao, đặc
biệt các doanh nghiệp trên cùng một địa bàn, trong cùng một địa phương và có sự hỗ trợ

của cơ quan quản lý du lịch tại địa phương hoặc của các hiệp hội ngành nghề.

Trang | 16


KẾT LUẬN
Nguồn nhân lực đóng vai trị quan trọng đối với sự phát triển của ngành du lịch.
Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam đang thiếu hụt về số lượng và chất lượng; trình độ và
cơ cấu phân bổ giữa các doanh nghiệp và các vùng chưa cân đối; ngoại ngữ, tin học còn
thấp.
Đây thực sự là một vấn đề nan giải của ngành du lịch Việt Nam, đặc biệt là sau
Việt Nam chính thức gia nhập WTO Sau khi tổ chức. Vấn đề nhân lực du lịch Việt Nam
đang gặp phải hiện nay là cần đào tạo nguồn nhân lực; tận dụng mọi sự hợp tác, hỗ trợ
của nước ngoài; huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, phát triển nguồn nhân lực
theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, đưa ngành du lịch Việt Nam trở thành ngành trụ cột
được xác định do Đảng và nhà Nước đóng góp.

Trang | 17



×