Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Phương pháp giảng dạy pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.14 KB, 3 trang )

Phương pháp giảng
dạy





Tương tác:
Là phương pháp gi
ảng dạy chủ động, hiện đại,
tăng sự hợp tác giữa thầy và trò trong học tập. Thầy cô
không là người áp đặt học sinh nhưng h
ọc sinh cũng không
thụ động học theo lối thầy giảng –
trò nghe. Chúng tôi giúp
học sinh nhận thức rất rõ việc học là quyền lợi và trách
nhiệm của các em, học tập đem lại tương lai tươi đẹp cho
chính các em. Vì lý do đó, các em luôn chủ động tìm tòi
học hỏi - thầy cô gợi mở, định hướng để các em tự mình
tìm câu trả lời, tự hoàn thiện kiến thức.
Các em được khuyến khích phát biểu ý kiến, tự do tranh
luận trước tập thể -thầy cô, bạn bè lắng nghe, chia sẻ càng
giúp các em thêm tự tin, hăng hái. Thầy cô tôn trọng và
đánh giá cao những hoạt động, tư duy sáng tạo của học
sinh – các em càng được thúc đẩy, kích thích niềm say mê
học tập. Thầy cô luôn tạo mối quan hệ gần gũi, thân thiện
với các em nên dễ dàng phát hiện những tố chất riêng ở
mỗi em, từ đó, có thể giúp các em định hướng, khắc phục
điểm yếu và phát huy điểm mạnh của mình.
 Học và hành: VSTAR sẽ giúp các học sinh hiểu rõ mục
đích của từng bài học có ý nghĩa như thế nào trong cuộc


sống, và các em không học lý thuyết suông mà các em ph
ải
kết hợp giữa lý thuyết vào thực hành như thế nào. Phương
pháp này được thể hiện thông qua các thao tác thí nghiệm
trên lớp. VD: học vi tính phải biết sử dụng, thao tác trên
máy thuần thục, chứ không học vi tính qua màn hình cô vẽ
trên bảng VD: học hóa học mà không biết thực tế thí
nghiệm để thấy sự tương tác các hóa chất như thế nào?
VD: học yêu thương người nghèo mà các em không được
chứng kiến sự thiếu thốn của người nghèo để có cảm giác
chia sẽ, cảm thông?
 Học và chơi: Giáo viên không
dùng phương pháp thụ động, chỉ
truyền tải kiến thức 1 chiều, áp
đặt học sinh phải nghe theo. Theo
phương pháp này, ở mỗi bài
giảng, giáo viên đóng vai trò là
người gợi mở vấn đề, đặt ra vấn đề cần giải quyết, hướng
dẫn các em nguồn tài nguyên để tìm thông tin trả lời cho
vấn đề được đặt ra. Cuối cùng chính các em sẽ là người
đưa ra câu trả lời, và như thế kiến thức sẽ do chính các em
tự khám phá, kiến thức sẽ được các em hấp thu 1 cách tự
nhiên, không gò ép. VD: Môn địa lý trong bài học về trái
đất: GV sẽ đặt câu hỏi: Trái đất hình gì? Tròn, vuông, bầu
dục v.v…GV sẽ hướng dẫn cách tra cứu Internet để tìm
hiểu các thông tin trên mạng, hay 1 số sách viết về các nhà
khoa học khám phá điều đó => Kiến thức về hình d
ạng trái
đất do chính các em ‘khám phá’, các em sẽ nhớ bài lâu
hơn.


H
ọc theo dự án:

Các chương
trình học của các nước trên thế
giới có khái niệm môn khoa học,
trong khi ở VN chúng ta ít nghe
nói về môn này mà chỉ nghe nói
là môn Vật lý, Hóa, sinh, địa
v.v… Như vậy ở VN những môn
này có 1 cái gì đó khá độc lập với
nhau, trong khi sự vật chung
quanh ta được giải thích, phân
tích bởi tất cả các môn học trên.
Chính thế khái niệm học theo dự
án được du nhập từ nước ngòai
vào VN. Cụ thể phương pháp này được thực hiện: Ở cuối
mỗi kỳ học, sau khi các em học những môn độc lập với
những GV khác nhau, các em sẽ có 1 dự án cần phải hòan
thành để trình bày, phân tích, đưa ra kết luận. Dự án này s

được công bố vào đầu kỳ học để học sinh chuẩn bị có khái
niệm về nó, đưa ra các buớc chuẩn bị và thực hiện


×