Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Chương trình hợp tác nông nghiệp và phát triển nông thôn:" Lên men, sấy và đánh giá chất lượng hạt ca cao ở Việt Nam - MS 10 " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.37 KB, 14 trang )



Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn




Chương trình Hợp tác Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn (CARD)



CARD 013/VIE05

Lên men, sấy và đánh giá chất lượng
hạt ca cao ở Việt Nam






MS 10: BÁO CÁO TỔNG KẾT DỰ ÁN




Tháng 12 năm 2008


Nội dung



1. Thông tin cơ quan _____________________________________________________ 3
2. Tóm lược dự án _______________________________________________________ 4
3. Tóm lược kết quả chính đạt được _________________________________________ 4
4. Giới thiệu và cơ sở của dự án ____________________________________________ 6
5. Kết quả đạt được đến thời điểm hiện tại ____________________________________ 7
5.1 Các điểm thực hiện nổi bật ____________________________________________________ 7
5.2 Lợi ích cho các nông hộ ______________________________________________ 10
5.3 Xây dựng năng lực___________________________________________________ 10
5.3.1 Xây dựng năng lực nghiên cứu cho các đối tác tham gia dự án phía Việt Nam_______ 10
5.4 Sự quảng bá __________________________________________________________ 11
5.5 Quản lí dự án _________________________________________________________ 11
6. Báo cáo về các vấn đề liên quan _________________________________________ 11
6.1 Về môi trường _____________________________________________________________ 11
6.2. Về giới tính và xã hội _______________________________________________________ 12
7. Vấn đề về sự thực hiện và tính bền vững __________________________________ 12
7.1 Vấn đề và giới hạn __________________________________________________________ 12
7.2 Các chọn lựa _______________________________________________________________ 13
7.3 Tính bền vững _____________________________________________________________ 13
8. Các bước chính tiếp theo _______________________________________________ 13
9. Kết luận ____________________________________________________________ 13
10. Các thông báo có tính pháp lý ____________________Error! Bookmark not defined.

3
1. Thông tin cơ quan
Tên dự án
Lên men, sấy và đánh giá chất lượng ca cao ở Việt Nam
Cơ quan Việt Nam
Trường Đại học Cần Thơ
Điều hành dự án phía Việt Nam

Tiến sĩ Hà Thanh Toàn
Cơ quan Việt Nam
Trường Đại học Nông Lâm TP. HCM
Điều hành dự án phía Việt Nam
Tiến sĩ Phạm Hồng Đức Phước
Cơ quan Việt Nam
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm Tây Nguyên
Điều hành dự án phía Việt Nam
Tiến sĩ Nguyễn Văn Thường
Tổ chức Úc
QDPI&F
Nhân sự
Neil Hollywood
Ngày bắt đầu
02/2006
Ngày hoàn thành (lúc đầu)
02/2008
Ngày hoàn thành (lúc sau)
04/2008
Thời gian báo cáo
6 tháng lần 3 đến 08/2007
Nhân viên liên hệ
Phía Úc: Điều hành
Tên:
Neil Hollywood
Điện
thoại:
617 34068643
Chức vụ: Nhà vi sinh vật học Fax: 617 34068699
Tổ chức:

QDPI&F
Email:



Phía Úc: Liên hệ hành chính
Tên:
Michelle Robbins
Điện thoại:
617 33462711
Chức vụ:
Nhân viên kế hoạch
Fax:
617 33462727
Tổ chức:
QDPI&F
Email:




Phía Việt Nam
Tên:
Hà Thanh Toàn
Điện thoại:
84 71 830604
Chức vụ:
Giám đốc Viện NC&PT CNSH
Fax:
84 71 830604

Cơ quan:
Trường Đại học Cần Thơ
Email:




4
2. Tóm lược dự án



































3. Tóm lược kết quả chính đạt được
Phần Tóm lược các kết quả chính đạt được cần trình bày chi tiết hơn về các bước thực
hiện và các kết quả đạt được dựa theo các mục tiêu của dự án

Đây là báo cáo tổng kết của Dự án số 013/05VIE trong Chương trình hợp tác nông
nghiệp và phát triển nông thôn (Chương trình CARD) và trong khoảng thời gian từ
tháng 8 đến tháng 12 năm 2008.
Chính phủ Việt Nam và một vài tổ chức quốc tế như World Cocoa Foundation, MARS
Inc., ACDI/ VOCA, đã thoả thuận để hỗ trợ cho nông dân trong vấn đề canh tác cây ca
cao. Năm 1998, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã ước lượng khả
năng canh tác cây ca cao đạt được diện tích khoảng 10.000 ha vào năm 2020. Tháng
5/2003, Bộ cũng đã thành lập Uỷ ban Điều phối phát triển ca cao Quốc gia. Uỷ ban này
chịu trách nhiệm để thúc đẩy phát triển cây ca cao ở
qui mô lớn như một loại cây công
nghiệp ở Việt Nam. Năm 2006, dự án “Lên men, sấy và đánh giá chất lượng ca cao ở Việt
Nam” được chấp thuận trong Chương trình hợp tác Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(Chương trình CARD). Dự án này hưởng ứng chương trình phát triển 10.000 ha trồng cây

ca cao vào năm 2010 của Chính phủ Việt Nam. Trong thời gian thực hiện dự án, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã thay đổi kế hoạch trồng ca cao lên đến
60.000 ha vào n
ăm 2015 và 80.000 ha vào năm 2020. Chính phủ đã cam kết đầu từ 40 tỉ
đồng để phát triển thị trường ca cao. Sản lượng ca cao dự đoán sẽ đạt được khoảng 52.000
tấn vào năm 2015 và 108.000 tấn vào năm 2020. Kế hoạch này sẽ giúp Việt Nam trở
thành một trong những nước sản xuất ca cao lớn nhất ở khu vực Đông Nam Á với tổng
thu nhập hàng năm xấp xỉ 120 triệu USD vào khoảng năm 2020. Thi
ết lập các điều kiện
tối ưu cho qui trình lên men và sấy ca cao là mục tiêu chủ yếu của dự án này. Dự án này
đã thực hiện khảo sát nông dân về các kỹ thuật sơ chế ca cao, lao động và thu nhập. Dự án
cũng đã thực hiện việc tập huấn các cán bộ phía Việt Nam về qui trình lên men ca cao và
phương pháp đánh giá chất lượng. Các thử nghiệm về quá trình sơ chế ca cao cũng đã
được thực hi
ện tại Bến Tre, Đắc Lắc và Đại học Nông Lâm. Quyển sổ tay về Kỹ thuật sơ
chế ca cao cho nông dân cũng đã được biên soạn và xuất bản. Hội thảo tổng kết dự án
cũng đã được tiến hành tại TP. HCM vào tháng 1/2009. Không có đầy đủ thời gian và
nguồn thông tin để đánh giá các qui trình khuyến cáo ở mức độ nông hộ cũng như xác
nhận giá trị cao hơn mà họ nhận đượ
c. Do không có đủ thời gian nên cũng không cho
phép thực hiện một đợt trao đổi thông tin hoàn chỉnh với các nhà công nghiệp và các hoạt
động khuyến nông.

Một phần quan trọng của dự án là cải tiến các qui trình lên men và sấy từ các nước phát
triển ca cao trên thế giới để phù hợp với các điều kiện về môi trường và xã hội của Việt
Nam. Các thử nghiệm về các qui trình lên men và sấy đã được tiến hành trong suốt thời
gian th
ực hiện dự án và các phương pháp thích hợp cũng đã được thiết lập. Thực hiện
đúng theo các qui trình này sẽ đảm bảo sẽ sản xuất được ca cao có chất lượng cao và cũng
sẽ nhận được giá trị cao hơn. Việc ứng dụng các thiết bị sấy ca cao bằng năng lượng mặt

trời cũng có hiệu quả trong việc giảm thời gian và công lao động cũng như có thể gia tă
ng
được khả năng sơ chế ca cao của các hộ nông dân.

5
Không có chuyến làm việc nào ở Việt Nam của người đứng đầu dự án phía QDPI&F
trong suốt giai đoạn này. Không có sự thay đổi nào về nhân sự tham gia dự án trong
suốt giai đoạn này cũng như trong toàn bộ thời gian thực hiện dự án. Các kết quả
chính đạt được của dự án trong giai đoạn này là xuất bản quyển sổ tay cho nông dân
và hoàn tất khảo sát nông hộ. Việc xuất bản quyển sổ tay đ
ã không hoàn tất cho đến
tháng 12/2008. Mục đích của quyển sổ tay là cung cấp đến các hộ nông dân, cán bộ
của MARD, cán bộ khuyến nông và các cán bộ ở các cơ quan nghiên cứu có liên
quan. Một vấn đề chính có liên quan đến việc chậm trễ trong quá trình xuất bản quyển
sổ tay là các hộ nông dân không có cơ hội tham khảo quyển tài liệu trong hầu hết thời
gian thực hiện dự án. Tuy nhiên họ đã được cung cấp thông tin khuyến nông từ
Success Alliance thông qua các câu l
ạc bộ nông dân và các cán bộ nông nghiệp.
Quyển sổ tay của dự án bao gồm các phương pháp để giảm độ axit của ca cao và điều
này giúp cho ca cao của Việt Nam đạt gần giống với tiêu chuẩn ca cao của Tây Phi.

Các công việc chính trong báo cáo này đã được trình bày như các phần đính kèm của
các báo cáo mục 5, 7, 8 và 9. Báo cáo đính kèm báo cáo mục 5 là quyển sổ tay nông
dân. Nó đã được hoàn thành vào tháng 9 và hiện tại đã được in ấn xong. Tài liệu đính
kèm mục 7 là các báo kỹ thu
ật và các tài liệu nghiên cứu đã được hoàn chỉnh vào
tháng 8. Giải thích rỏ hơn về năng lực được yêu cầu ở báo cáo mục 8 bao gồm: 1 –
Thiết kế, lắp đặt và khuyến cáo việc áp dụng các qui trình phù hợp cho nông dân về
lên men và sấy. 2 – Các kỹ năng thành lập và điều hành hội đồng đánh giá cảm quan,
các kỹ thuật đánh giá cảm quan và các qui trình phân tích đánh giá ca cao. 3 – Phân

tích và báo cáo các thử nghiệm tại nông hộ ở Bến Tre, Tây Nguyên và các đi
ểm của
dự án Success bao gồm việc định hướng nông dân trong việc áp dụng các qui trình cải
tiến chất lượng. Báo cáo mục 9 đánh giá các lợi ích của nông hộ, các báo cáo cho mục
này và điểm 3 của mục 8 đã được báo cáo cho CARD trong kết quả khảo sát nông hộ
vào tháng 10/2008.

Trong quá trình cố gắng đánh giá các lợi ích của nông hộ, một thử nghiệm đã được
tiến hành với thiết bị sấy ca cao bằng năng l
ượng mặt trời tại hộ Bà Năm Sương, một
điểm thử nghiệnm trong dự án Success vào tháng 10. Thử nghiệm này được hoàn tất
cùng với sự hỗ trợ của Cargill và MARS, UK trong việc đánh giá chất lượng ca cao.

Khảo sát nông hộ được thực hiện trong 2 giai đoạn. Lần đầu được thực hiện vào tháng
8/2006 với 50 hộ nông dân ở Bến Tre được phỏng vấn các vấn đề có liên quan đến
ph
ương pháp sơ chế ca cao, các vướng mắc, công lao động và các vấn đề về xã hội.
Vào khoảng cuối năm 2006, ba hộ nông dân ở Bến Tre được cung cấp thiết bị sấy ca
cao bằng năng lượng mặt trời. Một hộ nông dân ở Cần Thơ và 1 hộ nông dân ở Đắc
Lắc cũng được cung cấp thiết bị sấy. Một cuộc khảo sát tiếp theo được thực hiện vào
tháng 12/2007 để
ghi nhận các tác động đến thu nhập và các phương pháp áp dụng.
Các hộ nông dân được cung cấp thiết bị sấy báo cáo cho thấy họ có giảm được từ 2-3
ngày sấy và gia tăng khả năng sơ chế với một khối lượng lớn hơn. Điều này có nghĩa
là họ có thể gia tăng được nguồn thu nhập từ ca cao. Điều thú vị hơn là đã cung cấp
khái niệm về sấy b
ằng năng lượng mặt trời cho nhiều hộ nông dân ở Tiền Giang,
Đồng Nai, Bình Phước và Bà Rịa – Vũng Tàu.

Mục tiêu chung của dự án là Việt Nam có thể sản xuất ca cao lên men chất lượng cao

và qua đó góp phần làm gia tăng thu nhập của người nông dân sản xuất ca cao. Để đạt
được mục tiêu này, các kỹ thuật đánh giá chất lượng ca cao đã được phát triển, kiểm
tra và công bố trong phạm vi của các cơ quan nghiên cứu và đ
ã phát triển các phương

6
pháp phù hợp cho người nông dân trong qui trình sơ chế và đảm bảo chất lượng. Các
mục tiêu cụ thể đã được trình bày trong phần “Giới thiệu và cơ sở của dự án”.

Hầu hết các mục tiêu của dự án đã được thực hiện nhưng cũng gặp phải một số vấn đề
với một vài mục tiêu sau cùng của dự án. Các vấn đề này bao gồm việc xác định các
l
ợi ích của nông hộ và việc phổ biến các thông tin trong quyển tài liệu đến với
MARD, DARD, các cán bộ nông nghiệp, các câu lạc bộ và các hộ nông dân. Có nhiều
hoạt động tích cực của Đại học Cần Thơ (CTU) ở các nông hộ và đã tổ chức một buổi
hội thảo về ca cao tại Trường Đại học Nông Lâm (NLU) nhưng cũng bị giới hạn trong
việc tác động đến sự tiếp nhậ
n của người nông dân. Do đó có một số vấn đề trong việc
đánh giá các tác động đến nông dân, nguyên nhân là do các hộ nông dân không được
tham gia đầy đủ troing toàn bộ thời gian của dự án.

Một hội thảo về ca cao đã được tổ chức tại ĐH Nông Lâm vào tháng 1/2009. Các
thành viên tham dự bao gồm các cán bộ đến từ CARD PMU, MARD và hơn 50 thành
viên của Sở Khoa Học và Công Nghệ (DOST), Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông
Thôn (DARD) và Trung Tâm Khuyến nông của các Tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Bình
Phước và Bà Rịa – Vũng Tàu. Có sự tham gia đầy đủ của các cán bộ từ CTU, NLU và
WASI và cũng có sự hiện diện của một số nông dân, các công ty thương mại và các
cơ quan báo chí.

4. Giới thiệu và cơ sở của dự án

Tóm tắt mục tiêu, kết quả mong đợi, phương pháp và cách tiếp cận.
Sản xuất ca cao ở Việt Nam tập trung vào khu vực Đồng bằng sông Cửu Long với
mục tiêu là trồng khoảng 10.000 ha vào năm 2010, khoảng 60.000 ha vào năm 2015
và 80.000 ha vào năm 2020. Điều này giúp Việt Nam trở thành nhà sản xuất ca cao
lớn nhất ở khu vực Đông Nam Á và đạt giá trị hàng năm khoảng 120.000$.

Có sự thiếu hụt về hạt ca cao lên men ở Châu Á Thái Bình Dương và
điều đó có nghĩa
là có một thị trường tốt cho ca cao lên men chất lượng tốt từ Việt Nam. Nếu nông dân
Việt Nam muốn có được giá có lãi từ hạt ca cao của họ thì họ phải biết cách để sản
xuất ca cao có chất lượng rất cao. Hiện tại đã có một số chuyên gia ở Việt Nam về
chất lượng ca cao và như vậy sẽ giúp để đảm bảo chất lượng tố
t của ca cao trong
tương lai, đó cũng là điều kiện chủ yếu để thiết lập các chuyên gia ở các cơ quan thích
hợp tại địa phương. Các cơ quan này sẽ biết cách đánh giá chất lượng ca cao, giải
quyết các vấn đề nếu cần thiết và cũng sẽ có những khuyến cáo để có các qui trình sơ
chế ca cao tốt nhất nhằm giúp sản xuất ca cao chất lượng cao ở Việt Nam.

Ng
ười Việt Nam đã có kinh nghiệm rất xấu với cà phê ở việc thiếu về kỹ năng tổ chức
và tiêu chuẩn chất lượng đã dẫn đến việc sản xuất một số lượng lớn cà phê kém chất
lượng và với ca cao thì lỗi này không nên để lặp lại. Do đó, việc huấn luyện về các
khía cạnh liên quan đến chất lượng ca cao và các điều kiện tối ưu trong k
ỹ thuật lên
men và sấy ca cao là mục đích chính của các hoạt động trong đề án nhằm để đảm bảo
chất lượng tốt của ca cao được sản xuất ra ở Việt Nam và làm tăng thu nhập cho các
nông hộ sản xuất ca cao. Mục tiêu chung của dự án là có thể giúp cho Việt Nam có
thể sản xuất được ca cao chất lượng cao và làm tăng thu nhập cho người nông dân
tham gia sản xuất ca cao.


7

Các mục tiêu cụ thể của dự án:

1. Thu thập và đánh giá các thông tin khảo sát về các phương pháp thực hiện hiện
tại.
2. Xác định các yêu cầu xây dựng về năng lực cho các cơ quan nghiên cứu phía Việt
Nam.
3. Tiến hành lắp đặt các thùng lên men và thiết bị sấy ca cao bằng năng lượng mặt
trời.
4. Tiến hành các thử nghiệm về lên men và sấy tại ba cơ quan tham gia phía Việ
t
Nam.
5. Thu thập các mẫu hạt ca cao lên men và sấy khô cho tập huấn tại QDPI&F.
2. Giới thiệu các thùng lên men và thiết bị sấy ca cao đến các hộ nông dân được lựa
chọn.
3. Tập huấn các cán bộ phía Việt Nam về đánh giá cảm quan, kỹ thuật phân tích và
sinh trắc học tại QDPI&F.
4. Xây dựng năng lực đánh giá chất lượng ca cao cho các cơ quan nghiên cứu phía
Việt Nam được lựa chọn.
5.
Thiết lập các phòng thí nghiện về đánh giá cảm quan, huấn luyện các cảm quan
viên và cài đặt các phần mềm để phân tích tại ba cơ quan nghiên cứu Việt Nam.
6. Tập huấn các vấn đề liên quan đến chất lượng ca cao tại Australia-QDPI&F cho
một nhà nghiên cứu từ ĐH Cần Thơ và một từ ĐH Nông Lâm là các cơ quan đã
có đủ năng lực đánh giá.
7. Tối ưu hoá các kỹ thuật lên men cho các nông hộ nhỏ
.
8. Giới thiệu công nghệ sấy sử dụng năng lượng mặt trời đến các cơ quan tham gia
phía Việt Nam.

9. Phổ biến các kỹ thuật cho các nông hộ nhỏ.

5. Kết quả đạt được đến thời điểm hiện tại
5.1 Các điểm thực hiện nổi bật
5.1.1 Mục tiêu 7 “Đánh giá sự hưởng lợi của các nông hộ”
Mục tiêu cụ thể này đạt được như sau:
Mục tiêu 7 thu thập và đánh giá các thông tin khảo sát về các yếu tố công nghiệp hiện
tại và năng lực của các cơ quan nghiên cứu. Mục tiêu này bị chậm trễ là do thiếu
nguyên liệu ca cao ở cơ quan nghiên cứu chính ở Cần Thơ. Mục tiêu này
được thực
hiện qua 2 giai đoạn, trước và sau khi các thùng lên men và thiết bị sấy ca cao được
cung cấp cho các hộ nông dân. Có 3 hộ nông dân được cung cấp thiết bị sấy tại Bến
Tre và 1 hộ tai Đắc Lắc. Thông tin cụ thể được trình bày trong báo cáo chi tiết và
phần tóm tắt được trình bày bên dưới.
Ở tỉnh Bến Tre có 3 hộ nông dân được nhận thiết bị sấy ca cao bằng năng lượng mặt
trời. Người đầu tiên là bà Năm S
ương ở ấp An Phú, xã An Khánh, huyện Châu
Thành. Bà chỉ có 0,25 hecta diện tích đất trồng với 200 cây ca cao cho nên sản lượng
ca cao của Bà cũng rất ít. Bà đã tự thành lập một điểm thu mua trái, lên men và sấy ca
cao đã mua được cũng như ca cao tự trồng trước khi cuộc khảo sát này được thực
hiện. Vào năm trước thời điểm tháng 8/2006, bà đã sản xuất và/ hoặc mua được
khoảng 2.500kg hạt hàng năm với chi phí khoảng 51 tri
ệu đồng. Sau khi lên men và

8
sấy, bà có được tổng thu nhập hàng năm khoảng 97 triệu đồng với phần lợi nhuận
khoảng 46 triệu đồng. Sau khi nhận được thiết bị sấy, hiện tại bà có thể sơ chế được
với lượng ca cao lớn hơn rất nhiều, lượng trái bà có thể mua hàng tuần vào thời điểm
chính vụ là khoảng 3.000kg và khoảng 400kg/ tuần vào các thời gian còn lại trong
năm. Chi phí để thu mua lượng trái này khoả

ng 104 triệu đồng, sau khi lên men và
sấy bà có thể có được thu nhập khoảng 285 triệu đồng. Do đó, phần lợi nhuận hàng
năm của bà là khoảng 182 triệu đồng. Bà cũng cho biết là đã giảm được công lao
động và thời gian sấy từ 6 - 8 ngày xuống còn 3 - 5 ngày vào mùa nắng và từ 9 - 11
ngày xuống còn 6 - 8 ngày vào mùa mưa. Như vậy, bà không chỉ gia tăng được khả
năng sản xuất và thu nhập mà còn giảm được công lao động và thời gian sản xuất
khoảng 3 ngày.
Hộ nông dân thứ hai ở tỉnh Bến Tre là ông Nguyễn Hùng Sơn và vợ là bà Đinh Thị
Kiều ở ấp Phú Xuân, xã Phú Đức, huyện Châu Thành. Họ có tổng diện tích canh tác
là 1 hecta với khoảng 300 cây được trồng vào năm 2000 và 600 cây được trồng vào
năm 2003. Họ cũng là một điểm thu mua và sơ chế ca cao trước khi nhận đựoc thiết bị
sấy. Họ cung cấp một cách tương đối tổng thu nhập bình quân nă
m 2006 và 2007 là
100 triệu đồng/ năm. Từ các thông tin về sản lượng ca cao, cho thấy có khoảng 42
triệu đồng (năm 2006) và 55 triệu đồng (năm 2007) là từ phần ca cao do họ tự trồng.
Phần thu nhập còn lại có thể là từ phần ca cao mà họ thu mua để thực hiện lên men và
sấy với giá trị xấp xỉ gấp đôi. Họ cũng cho biết là đã gia tăng được khả năng sản xuất
và giả
m được công lao động và thời gian sấy khoảng 1 - 2 ngày trong mùa nắng và 2 -
4 ngày trong mùa mưa.

Hộ nông dân thứ ba ở tỉnh Bến Tre là ông Nguyễn Thanh Phương và vợ là bà Hồ Thị
Hồng Huệ. Họ có 1 hecta đất canh tác với khoảng 400 cây ca cao được trồng vào năm
2005 và 150 cây được trồng và năm 2006. 400 cây được trồng năm 2005 có thể đã
cho trái vào thời gian thực hiện khảo sát năm 2007. Phần lớn lượng trái mà ông thực
hiện lên men và sấy là được mua từ
các hộ nông dân láng giềng. Ông ta cũng đã tăng
được khả năng lên men và sấy và sơ chế khoảng 500kg trái/ tuần vào thời gian thu
hoạch chính vụ. Ông ta không cung cấp thông tin về thu nhập nhưng từ lượng ca cao
có thể qui đổi được thu nhập hàng tuần khoảng 2 triệu đồng từ tiền bán hạt ca cao

khô. Giá mua trái là 2.000 đồng/kg nên chí phí để mua trái là 1 triệu đồng nên ông ta
nhận được khoảng 1 triệu đồng tiền lãi mỗi tuần trong suốt giai đoạn thu ho
ạch chính
vụ khoảng 3 tháng. Vào tháng 12/2007, ông ta nhận được khoảng 27.000 đồng/kg hạt
khô từ công ty Cargill. Khoảng tháng 6/2008, giá ca cao là 36.000 - 38.000 đồng/ kg
và với cùng năng suất trên thì ông ta có thể thu nhập được khaỏng 127 triệu đồng.
Ông ta cũng cho biết là đã giảm được công lao động và thời gian sấy khoảng 3 ngày
vào mùa nắng và 2 ngày vào mùa mưa.

Không có bất kỳ thay đổi nào được ghi nhận đối với các đặc tính chất lượng của ca
cao khi áp dụng thiết bị sấy ca cao bằ
ng năng lượng mặt trời. Điều kiện thời tiết ở Bến
Tre, Đắc Lắc, Đắc Nông và Cần Thơ giúp cho quá trình làm khô hạt ca cao bằng cách
phơi nắng với sự tổn thất là không đáng kể và cũng không có bất kỳ ảnh hưởng nào
gây bất lợi cho mùi vị của ca cao từ việc xâm nhiễm của nấm mốc. Tất cả các hộ nông
dân đều cho biết sự tổn th
ất chỉ dưới 1% do sự xâm nhiễm của nấm mốc khi sử dụng
phương pháp làm khô truyền thống. Các thiết bị sấy ca cao chỉ có thể giúp gia tăng
được khả năng làm khô hạt ca cao và trong cùng thời gian có thể giảm được công lao
động và thời gian làm khô ca cao. Không cần tốn thời gian để vận chuyển các vật
dụng dùng để làm khô hạt ra vào khi trời mưa và vào thời gian ban đêm và điều này
cho thấy tiết kiệm được có ý ngh
ĩa thời gian và công lao động. Do đó, các hộ nông

9
dân với thiết bị sấy ca cao có thể gia tăng được khả năng trồng và thu mua từ các hộ
nông dân khác để tiến hành sơ chế với thời gian và công lao động ít hơn. Như vậy có
thể nói rằng việc sử dụng thiết bị sấy ca cao có thể duy trì được các tiêu chuẩn chất
lượng trong khi có thể sản xuất được với sản lượng lớn hơn.


Đóng góp quan trọng của dự
án này là về các thuộc tính chất lượng của ca cao thông
qua việc áp dụng các khuyến cáo liên quan đến qui trình lên men như đã được trình
bày ở phần các thử nghiệm lên men và trong quyển sổ tay ở mục 5 và 7 của dự án. Do
không thực hiện kịp nên các khuyến cáo này chỉ được tổng kết vào tháng 3/2008 nên
không có đủ thời gian để thực hiện tại các nông hộ và đánh giá ảnh hưởng của nó lên
các đặc tính chất lượng của ca cao. Có nhiều lý do để tin tưở
ng rằng việc áp dụng các
khuyến cáo trong qui trình lên men có thể cải tiến được chất lượng ca cao nhưng cần
thiết phải thực hiện trong giai đoạn khác.

Thông tin khảo sát cho thấy ca cao là loại cây trồng có giá trị kinh tế cao với sự đầu tư
về thời gian và công lao động thấp hơn. Đặc biệt là giá ca cao trên thế giới được dự
đoán là sẽ tiếp tục gia tăng trong những năm tới. Nó cũ
ng cho thấy có một hệ thống
phổ biến thông tin tốt đến các hộ nông dân thông qua các câu lạc bộ đã được thiết lập
thông qua các hoạt động của dự án Success Alliance.
Kết quả chủ yếu về mặt kỹ thuật được giới thiệu trong dự án CARD là các thiết bị sấy
ca cao bằng năng lượng mặt trời cho phép các hộ nông dân có thể sản xuất với khối
lượng lớn hơ
n và giảm được thời gian và công lao động trong quá trình sấy ca cao.
Các khuyến cáo có liên quan đến lên men ca cao trong quyển sổ tay sẽ không làm
giảm được công lao động nhưng nó sẽ giúp cải tiến được chất lượng của ca cao.

Các kết quả khảo sát cho thấy các hộ nông dân đã dành diện tích đất lớn hơn để trồng
ca cao, điều đó thể hiện hướng phát triển tốt cho loại cây trồng này. Không có con số
chắc chắn về di
ện tích phát triển thêm cây ca cao ở Bến Tre và do đó không thấy khả
năng phát triển chắc chắn của loại cây trồng này. Trở ngại chính của việc mở rộng
diện tích trồng ca cao đó là khoảng cách để người nông dân có thể mua cây giống

cũng như giá của chúng còn cao.

Vấn đề đáng khích lệ nhất từ cuộc khảo sát đó là người nông dân có thể có được thu
nhập cao hơn với công lao động ít hơ
n và họ có được sự phát triển tốt hơn trong
phương pháp thu thập thông tin. Điều này cho thấy với các phương pháp thực hiện
được khuyến cáo trong quyển sổ tay của dự án sẽ có được những kết quả tích cực đối
với ngành công nghiệp ca cao của Việt Nam.


5.1.2 Mục tiêu 11 và 12 “Sổ tay khuyến nông để cải tiến chất lượng ca cao”

10
Quyển sổ tay này đã được hoàn chỉnh trong thời gian báo cáo và hiện tại đã
được in ấn. Nội dung đã được cung cấp như tài liệu đính kèm báo cáo mục 5.
Các khuyến cáo chính cho các nông hộ là: tồn trữ trái trong 6 ngày, trải phơi hạt
2 giờ trước khi lên men và ngâm rửa hạt trước khi làm khô. Tất cả các nhân tố
này được ghi nhận là làm gia tăng tỷ lệ hạt nâu mà nó sẽ giúp làm tăng giá trị
của hạt ca cao.
5.2 Lợi ích cho các nông hộ
Ca cao được lên men và sấy khô thích hợp và có hương vị tốt có giá trung bình từ 100
- 200 USD/tấn trên thị trường Đông Nam Á. Điều này có ý nghĩa rằng nếu dự án
thành công khi thiết lập một chuẩn về chất lượng cao thì các hộ nông Việt Nam có thể
thu nhập thêm từ 1 - 2 triệu USD/năm cho 10.000 ha vào năm 2010. Đối với Đồng
bằng Sông Cửu Long thì các hộ nông trồng ca cao có khả năng thu nhập thêm từ 1,8 -
3,6 triệu USD. Hiện tại, chỉ có mộ
t số ít lượng ca cao được trồng tại vùng duyên hải
miền Trung nhưng cũng không có chương trình phát triển ca cao nào cho vùng này.
Vì thế dự án này chỉ tập trung ở đồng bằng Sông Cửu Long. Dựa theo lượng mưa
tương đương, việc phát triển các phương pháp đạt được cho đồng bằng sông Cửu

Long nên chuyển giao cho vùng duyên hải miền Trung nếu việc sản xuất ca cao được
tiến hành tại đây.
Một tổng kết ngắn g
ần đây về các hộ nông trồng ca cao ở Bến Tre theo SA vào năm
2004 cho thấy cây ca cao 2 năm tuổi có thể cho 50 kg hạt/tháng/ha. Ở cây trồng 4 năm
tuổi, sản lượng tăng đến 200 kg hạt/tháng/ha. Với giá hiện tại là 21.000 đồng/kg cho
hạt đã lên men, nông dân có thể thu nhập 3,6 triệu đồng/tháng/ha (hay 235
USD/tháng/ha) đối với hạt ca cao có chất lượng tốt.
Từ sau khi viết đề cương của dự án, giá ca cao khô lên men đã gia tăng đến 38.000
đồng/kg và nh
ư vậy thu nhập từ việc trồng ca cao cũng được gia tăng thêm.
Các tác động từ việc áp dụng các các phương pháp thích hợp của dự án đã được báo
cáo cho tiết trong phần đính kèm về kết quả khảo sát nông hộ.
5.3 Xây dựng năng lực
5.3.1 Xây dựng năng lực nghiên cứu cho các đối tác tham gia dự án phía Việt
Nam
Tập huấn trong phương pháp bố trí các thử nghiệm lên men, sấy khô và phân tích các
thông số có liên quan hiện tại đã được hoàn thành ở mỗi cơ quan tham gia. Bằng
chứng là đã cung cấp các kết quả về các thử nghiệm này tại WASI và Bến Tre bởi các
cán bộ của CTU. Các thử nghiệm đã thực hiện thông qua việc áp dụng các phương
pháp phù hợp.
Huấn luyệ
n sử dụng phương pháp HPLC phân tích axit hữu cơ và GC-MS phân tích
các hợp chất thơm cho đội ngũ cán bộ Việt Nam của mỗi cơ quan tham gia, được diễn
ra vào tại QDPI&F vào tháng 8/2006. Các cơ quan tham gia, chỉ có NLU là có thiết bị
để thực hiện các phân tích này
Tập huấn đánh giá cảm quan và sinh trắc học của các kết quả cũng được thực hiện
trong hội thảo này. Tiếp theo là khóa tập huấn được thực hiện bởi phía đối tác Úc
trong chuyến đi vào tháng 12/2006 và vào tháng 4/2007. Thiết bị cối và chày cho sản


11
xuất sô-cô-la và dịch lỏng ca cao được gửi đến WASI và một máy chế biến sô-cô-la
hay sản xuất dịch lỏng được gửi tới CTU. NLU đã có thiết bị trước khi bắt đầu dự án.
5.4 Sự quảng bá
Hội thảo tổng kết dự án đã được tổ chức vào tháng 1/2009 nhằm để cung cấp các
thông tin có liên quan đến toàn bộ hoạt động của dự án. Hội thảo có sự tham gia đầy
đủ 3 cơ quan nghiên cứu phía Việt Nam, Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn
(MARD), DARD, DOST, các hộ nông dân từ nhiều tỉnh/ thành khác nhau và các
phóng viên báo chí. Các quyển sổ tay choi nông dân cung đã được cung cấp tại buôi
hội tháo này.
5.5 Quản lí dự án
Không có bất kỳ sự thay đổi nào trong việc quản lý dự án trong suốt thời gian thực
hiện. Các thành viên tiếp tục làm việc tốt với nhau.

Hầu hết các thử nghiệm về lên men và sấy được thực hiện bởi các cán bộ Việt Nam và
các báo cáo được viết bởi người đứng đầu dự án phía Úc. Điều đó cho thấy là tất cả
các báo cáo đã được dịch sang tiếng Việt bởi các cán bộ phía Vi
ệt Nam và điều đó đã
cần thêm một khoảng thời gian.

Bởi vì toàn bộ dự án gặp khó khăn trong việc chậm trễ về mặt thời gian và cụ thể là sự
chậm trễ trong một vài báo cáo như khảo sát nông hộ và sổ tay hướng dẫn nông dân.
Khảo sát nông hộ được thực hiện trong chuyến làm việc đầu tiên của người đứng đầu
dự án phía Úc. Chỉ có một ít ca cao được tr
ồng ở Cần Thơ và kết quả là cuộc khảo sát
đã được thực hiện trong chuyến làm việc thứ hai của chuyên gia Úc. Trái ca cao chỉ
có thể được mua từ Bến Tre cho các thử nghiệm tại CTU và điều đó làm chậm trễ hơn
cũng như phải tốn thêm chi phí. Các thử nghiệm tại nông hộ cũng gặp khó khăn do
phải mất khoảng hơn 60 km đi lại từ Cần Th
ơ và Bến Tre hoặc từ WASI đến các vùng

trồng ca cao ở Đắc Lắc. Với các đợt khảo sát và việc phổ biến quyển tài liệu thực hiện
chậm trễ so với kế hoạch nên đã có rất ít thời gian cho việc thử đánh giá các tác động
đến thu nhập và phương pháp thực hiện của các nông hộ.
6. Báo cáo về các vấn đề liên quan
6.1 Về môi trường
Việc trồng ca cao có thể có tác động ít phức tạp lên môi trường hơn các hình thức
canh tác khác của nông nghiệp. Các khu sản xuất thường nhỏ, thường là ca cao được
trồng xen với dừa hay một số nông sản khác. Các báo cáo nghiên cứu, gồm việc giới
thiệu tại một hội nghị ICCO (Braxin, 1996) cho thấy sự đa dạng loài như động vật,
chim, côn trùng, v.v ở các khu trồng ca cao cũng tương tự như các vùng trồ
ng ca
cao gần với các khu rừng nhiệt đới.

Mối nguy hại đến môi trường khi tiến hành dự án này là rất ít. Dự án gồm tiến trình
trồng ca cao hiện tại và tương lai. Việc trồng ca cao tương lai có thể tác động lên quần
thể động vật và thực vật nhưng chương trình không mở rộng diện tích trồng ca cao.
Ca cao cũng được xem là một loại hoa màu ôn hòa. Ở đồng bằng Sông Cửu Long, ca
cao được trồng vớ
i các hệ hoa màu khác, thường là dừa hoặc trong một hệ thống rất

12
đa dạng có thể đến 15 loại cây trồng khác nhau như cây cho quả, hạt, cây bụi, dây leo
và cây thuốc tạo nên sự đa dạng sinh học cao.
6.2. Về giới tính và xã hội
Nhiều nông hộ trồng ca cao ở Việt Nam đã thực hiện việc lên men và sấy ca cao do
chính các hộ này thu hoạch và vì thế có nhiều kinh nghiệm trong các công đoạn này.
Trong suốt thử nghiệm tối ưu hóa kỹ thuật lên men, một nỗ lực để kế
t hợp chặt chẽ
nhằm thu được kết quả tốt nhất khi tiến hành các phương pháp do chúng tôi đề nghị.
Sự kết hợp này bao gồm các kê khai nguyên liệu sử dụng và môi trường, công việc

thử nghiệm và yếu tố xã hội.
Một điều tra của Success Alliance (SA) vào năm 2005 cho thấy:
SA có 4 tỉnh tham gia gồm Bình Phước (1.095 hộ dân), Bà Rịa Vũng Tàu (1.560),
Tiền Giang (1.600) và Bến Tre (1.679). Ở các tỉnh này, lao động phụ nữ chiếm t
ừ 9%
ở Bình Phước đến 20% ở Bến Tre. Tiền Giang có 16% và Bà Rịa Vũng Tàu là 13%.

Hầu hết các nông hộ tham gia này thì việc canh tác là thu nhập chính. Số lượng người
tham gia có độ tuổi từ 26 - 55 được xem là lực lượng lao động có kinh nghiệm. Lượng
người tham gia thuộc một gia đình là 3 - 5 thành viên. Tỉ lệ nông dân có trình độ văn
hóa cấp II và cấp III là 69 - 77% trãi đều ở các tỉnh, vì thế tỉ lệ cao người có trình độ
văn hóa rất thuận lợ
i cho việc tiếp thu kiến thức, kỹ thuật mới.

Tại tỉnh Bình Phước, có 90% nông dân thu nhập từ 12 - 100 triệu đồng/năm cho tất cả
loại cây trồng. Trung bình là 40 triệu đồng. Ở Bà Rịa Vũng Tàu, gần 90% nông dân
thu nhập từ 1 - 45 triệu đồng, trung bình là 17 triệu đồng. Ở Bến Tre, 90% nông dân
có thu nhập 1 - 10 triệu đồng, trung bình là 4 triệu đồng. Ở Tiền Giang là 2 - 10 triệu
đồng, trung bình 5 triệu đồng. Ở Cần Thơ chỉ có 1 h
ộ trồng ca cao có thu nhập hàng
năm là 16 triệu đồng từ ca cao.

Các cuộc khảo sát, được tiến hành trong dự án này, đã được hoàn tất và đã được trình
bày trước đó trong các tài liệu riêng.

7. Vấn đề về sự thực hiện và tính bền vững
7.1 Vấn đề và giới hạn
Các vấn đề và giới hạn đã được đề cập trong các báo cáo trước đó và được tóm tắt
như sau:


¾ Chi phí lắp đặt máy sấy có thể phải miễn cưỡng chấp nhận nhưng có sự ghi
nhận là có thể sử dụng với khối lượng hạt gấp đôi so với mức đã được kiểm
tra ở các quốc gia thử nghi
ệm trước đó. Phân nửa các hộ nông dân khi trả lời
phỏng vấn họ chấp nhận sẽ chí phí khoảng 200 USD cho một thiết bị sấy với
khả năng sấy khô 400 kg hạt ướt trong 5 ngày.

¾ Thiếu sự phổ biến các thông tin liên quan được đề cập trong quyển sổ tay về
các qui trình được khuyến cáo. Điều này có thể được khắc phục sau khi kết
thúc dự án thông qua việc phổ biế
n quyển sổ tay thông qua các cơ quan thích
hợp.

13

7.2 Các chọn lựa
¾ Cần phải thuyết phục các hộ nông dân rằng việc sử dụng thiết bị sấy ca cao
bằng năng lượng mặt trời sẽ giúp gia tăng khả năng sản xuất của họ.

¾ Cần phải phổ biến các thông tin trong quyển sổ tay để có được các thuộc tính
chất lượng tối ưu.
7.3 Tính bền vững
¾ Các thử nghi
ệm đã được tiến hành tại Cần Thơ thêm vào đó là các huấn luyện
chuyên môn để phân tích hạt ca cao khô do đội ngũ cán bộ thường xuyên từ
CTU, NLU và WASI mang ý nghĩa dự án có tính bền vững ở cấp độ cao.

¾ Cùng với khóa tập huấn đánh giá chất lượng cảm quan ở Brisbane, phân phát
thiết bị, các huấn luyện tiếp theo của đối tác Úc, điều đó có nghĩa là chương
trình sẽ có tính bền vữ

ng.

¾ Tính bền vững sẽ phụ thuộc chủ yếu vào việc áp dụng các qui trình sơ chế đã
được khuyến cáo của các hộ nông dân. Điều này tuỳ thuộc vào việc phổ biến
các quyển sổ tay thông qua MARD, cán bộ nông nghiệp và các câu lạc bộ.

¾ Success Alliance có 4 tỉnh tham gia dự án là Bình Phước (1.095 hộ nông dân),
Bà Rịa – Vũng Tàu (1.560 hộ), Tiền Giang (1.600 hộ) và Bến Tre (1.679 hộ).
Ở các tỉnh này, họ cũng thành lập các câu l
ạc bộ nông dân để cung cấp và chia
sẽ thông tin. Với các mạng lưới đã được thiết lập như vậy, các thông tin trong
quyển tài liệu sẽ được phổ biến một cách nhanh chóng.

8. Các bước chính tiếp theo
Bởi vì đây là báo cáo tổng kết dự án nên không có các bước chính tiếp theo. Tuy
nhiên, theo sự đề nghị của CARD PMU thì cần phải có thêm thời gian để phổ biến các
thông tin từ dự án.

9. Kết luận
Các nội dung chính của dự án CARD trong đề cương thực hiện đã được hoàn thành
mặc dù có sự chậm trễ so với kế hoạch. Điều đó dẫn đến tình huống không mong
muốn là các kết quả từ các thử nghiệm lên men và sấy sẽ không được thực hiện đầy
đủ trong các thử nghiệm tại nông hộ. Tuy nhiên, các phương pháp trong các thử
nghiệm lên men đã được xác định nhằm để giảm độ
axit của ca cao. Bởi vì đây là vấn
đề chính đối với ca cao của khu vực Đông Nam Á, các phương pháp này có thể giúp
Việt Nam sản xuất được ca cao có chất lượng gần giống với ca cao của Tây Phi và
đây chính là mục tiêu chính của dự án.



14
Không có bất kỳ tiêu chuẩn mang tính quốc tế nào được công nhận đối với ca cao và
tiêu chuẩn mong muốn cuối cùng được xác định bởi các nhà sử dụng cuối cùng. Dự
án này chỉ giúp cho ca cao có được các đặc tính mong muốn của hầu hết các nhà sử
dụng ca cao cuối cùng. Trong thời gian thực hiện dự án, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam đã thay đổi kế hoạch trồng ca cao lên đến 60.000 ha vào năm
2015 và 80.000 ha vào năm 2020. Chính phủ đã cam k
ết đầu từ 40 tỉ đồng để phát
triển thị trường ca cao. Sản lượng ca cao dự đoán sẽ đạt được khoảng 52.000 tấn vào
năm 2015 và 108.000 tấn vào năm 2020. Kế hoạch này sẽ giúp Việt Nam trở thành
một trong những nước sản xuất ca cao lớn nhất ở khu vực Đông Nam Á với tổng thu
nhập hàng năm xấp xỉ 120 triệu USD vào khoảng năm 2020. Do đó, dự án này đã
đượ
c thực hiện đúng vào thời điểm để có thể góp phần về mặt chất lượng trong các kế
hoạch này.


×