Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận triết học ĐH Mở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.33 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
Trang
Mở đầu ....................................................................................................................1
Chương 1. Lý luận và thực tiễn ..............................................................................2
1.1. Khái niệm lý luận .............................................................................................2
1.2. Khái niệm thực tiễn ..........................................................................................2
1.3. Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn ...............................................................3
Chương 2. Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta .............5
2.1. Lý do đổi mới ...................................................................................................5
2.2. Nội dung đổi mới .............................................................................................6
2.2.1. Đổi mới tư duy ..............................................................................................6
2.2.2. Đổi mới kinh tế .............................................................................................7
2.3. Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ........................................9
Kết luận .................................................................................................................12
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………….....13

1


LỜI NÓI ĐẦU
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản của
triết học Mác - Lênin. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là sự thốnng nhất
biện chứng và cơ sở của sự tác động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn luôn
luôn vận động, biến đổi, do đó lý luận cũng khơng ngừng đổi mới, phát triển;sự
thống nhất biện chứng giữa chúng - vì thế - cũng có những nội dung cụ thể và
những biểu hiện khác nhau trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử.
Từ trước đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về q trình đổi mới ở Việt
Nam, dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, chưa có nhiều cơng trình lý giải
cặn kẽ về mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta. Do đó,để
vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, góp phần nghiên cứu mặt lý luận của vấn
đề này, bằng những kiến thức được học từ môn những nguyên lý cơ bản của chủ


nghĩa Mác-Lê nin, đặc biệt là nội dung về lý luận và thực tiễn, em xin mạnh dạn
nghiên cứu đề tài:
“Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa đổi
mới tư duy với đổi mới kinh tế ở nước ta”.
Đề tài được nghiên cứu nhằm mục đích vận dụng kiến thức đã học, nêu lên mối
liên hệ giữa lý luận và thực tiễn từ đó đưa ra những nhận định, lý giải và phân tích
về mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta. Đồng thời, đề tài
góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho bản thân.
Để đạt được mục tiêu đó, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chung : phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các phương pháp
nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp chuyên gia.

Chương I
2


Lý luận và thực tiễn
1. Khái niệm Lý luận
Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, đồng thời thể hiện như
trình độ cao của nhận thức. Các khái niệm lý luận gắn liền với những hệ thống lý
luận nhất định.
Lý luận học có quan hệ mật thiết với rất nhiều môn khoa học khác. Đối tượng
nghiên cứu của Lý luận học là tư tưởng của con người và công nghệ tư duy của
con người mang tính lý luận cùng những vấn đề cơ bản của lý luận nhằm cải biến
thực tế khách quan vì sự phát triển của con người và đem lại lợi ích cho con người.
Lý luận là xuyên suốt và chi phối tư duy logic, qua đó, chi phối ngày càng mạnh
mẽ mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của đời sống xã hội. Không thể đồng nhất
mọi khái niệm lý luận với chân lý vì lý luận có hai dạng - khái niệm lý luận chân
chính - khoa học và khái niệm lý luận giả tạo - phản khoa học.
Lý luận thường mang tính hệ thống, dù là chân chính - khoa học hay giả tạo -phản

khoa học. Tính hệ thống của một lý luận phản ánh - hoặc trung thực hoặc
xun tạc tính hệ thống vốn có ở bản thân đối tượng được phản ánh, qua đó mà
phản ánh trung thực hoặc xuyên tạc cấu trúc nội tại cùng với bản chất của đối
tượng.
Lý luận không tự thân xuất hiện, tồn tại, vận động, phát triển. Xét đến cùng,giá trị
cũng như sự xuất hiện, tiêu vong của một khái niệm là ở khả năng phản ánh đời
sống thực tiễn một cách trung thực, chính xác và sâu sắc như thế nào và nhờ đó, nó
có khả năng định hướng cho đời sống thực tiễn như thế nào.
2. Khái niệm Thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử, xã
hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.Thực tiễn có các đặc trưng: là
hoạt động vật chất, khơng phải hoạt động tinh thần; mang tính mục đích và có ý
thức của con người; mang tính lịch sử - xã hội,tùy thuộc bối cảnh, không gian, thời
3


gian mà thực tiễn có cách thức, phương pháp thực hiện khác nhau; hướng tới cải
tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và từ đó cải tạo chính bản thân con người.Hoạt động
thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là dạng hoạt động cơ bản và phổ
biến của xã hội lồi người, mang tính lịch sử-xã hội cụ thể. Con người phải lao
động sản xuất, chế tạo và sử dụng công cụ lao động, để tạo ra của cải vật chất ni
sống mình. Do đó, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội,
là phương thức đầu tiên và chủ yếu của quan hệ giữa con người và thế giới.Thực
tiễn có các hình thức tồn tại cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính
trị-xã hội; hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong đó hoạt động sản xuất vật chất
giữ vai trò trung tâm, tuy nhiên, các hoạt động chính trị-xã hội và thực nghiệm
khoa học cũng có tính độc lập tương đối của mình.Vậy, vấn đề quan hệ giữa hoạt
động lý luận và hoạt động thực tiễn với tư cách là hai lĩnh vực cơ bản nhất của hoạt
động xã hội phải được hiểu như thế nào?
3. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn

Thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu, trực tiếp của nhận thức và do đó,
cũng là của lý luận. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, lý luận. Mọi tri
thức, lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Ngày nay khi khoa học đã
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mối quan hệ này cũng không thay đổi.Lý
luận luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát triển trên cơ sở cải tạo
thực tiễn xã hội. Chỉ khi được đưa vào thực tiễn, ý niệm, tư tưởng, lý luận mới có
thể "cải tạo" thế giới. Nếu dừng lại trong lĩnh vực ý thức, chúng khơng có khả năng
cải biến một cái gì ngồi khả năng ý thức. Các tư tưởng, tự chúng, khơng phải là
thực tiễn, mơ hình lý tưởng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo vật chất chỉ là Sự
thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn được hiểu trên tinh thần biện chứng:thực tiễn cần tới
lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để khơng mắc phải
bệnh kinh nghiệm, cịn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và

4


phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là
thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau.
Lý luận có vai trị hết sức to lớn đối với thực tiễn. Khơng có lý luận thì trong hoạt
động thực tiễn người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hóa kinh
nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt động thực
tiễn. Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn
tới bệnh giáo điều. Bởi lẽ, do kém lý luận, khinh lý luận nên không hiểu thực chất
lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và do đó cũng khơng thể hiểu được bản chất và
cũng không thể vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn mới
nảy sinh. Nếu có vận dụng thì cũng khơng sát thực tế không phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, Lý luận phải kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực
tiễn nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều.Lý luận cốt để
áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là

lý luận suông.
Mối liên hệ của thực tiễn với lý luận còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn
chân lý, lấy thực tiễn để kiểm tra lý luận. Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
người có thể đạt tới chân lý khách quan khơng, hồn tồn khơng phải là một vấn đề
lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý. Nhận thức khoa học cịn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn logic.
Nhưng tiêu chuẩn logic khơng thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến
cùng, nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận
là một quá trình mang tính lịch sử - xã hội cụ thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ
biện chứng. Nắm bắt được tính chất biện chứng của q trình đó, là tiền đề quan
trọng giúp chúng ta có được lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa
thực dụng thiển cận, cũng như chủ nghĩa giáo điều máy móc và bệnh lý luận
suông.

5


Chương II
Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay
1. Lý do đổi mới
Trong giai đoạn sau giải phóng, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu tìm tịi,
xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan:
nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần;
có lúc đẩy mạnh q mức việc xây dựng cơng nghiệp nặng; duy trì quá lâu cơ chế
quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc cải
cách giá cả, tiền tệ, tiền lương; công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều
khuyết điểm nghiêm trọng.
Những sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan này đã dẫn đến
khủng hoảng trầm trọng về kinh tế xã hội ở Việt Nam những năm đầu thập kỷ 80

của thế kỷ trước. Tình hình kinh tế - xã hội có những khó khăn gay gắt: sản xuất
tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; đời sống nhân dân lao động gặp nhiều
khó khăn; hiện tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi và có nơi nghiêm trọng…Chúng
ta có khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình cụ thể của đất nước,trong việc xác
định mục tiêu và bước đi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.Những sai lầm
nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến
lược và về tổ chức thực hiện.Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực kinh tế,
xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức và công
tác cán bộ của Đảng.Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý
luận và sự yếu kém về vận dụng các quy luật trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.Về tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là thiếu quy hoạch và chậm đổi
mới cán bộ; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng, phong
cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu; tổ chức bộ máy
quá lớn, chồng chéo và kém hiệu lực; giáo dục và quản lý cán bộ, đảng viên thiếu
chặt chẽ.
6


Trong hồn cảnh ấy, vấn đề sống cịn là đưa đất nước thốt ra khỏi khủng hoảng.
Mặt khác, chính trị thế giới có nhiều biến động phức tạp, tiềm ẩn những bùng nổ,
thay đổi bất lợi cho sự phát triển của nước ta theo cơ chế lúc bấy giờ.
Trong tình thế cần lựa chọn, điều chỉnh, thay đổi, bằng kinh nghiệm lãnh đạo sáng
suốt nhìn thẳng vào sự thật, tin tưởng vào lực lượng quần chúng và trách nhiệm lớn
lao trước vận mệnh của Tổ quốc, Đảng ta đã kiên quyết đổi mới trên tất cả các lĩnh
vực, trước hết là đổi mới về tư duy và trọng tâm là đổi mới về kinh tế.
2. Nội dung đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế
2.1. Đổi mới tư duy
Mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội: Mỗi quốc gia, dân tộc đều phải suy nghĩ,
tìm tịi, lựa chọn để làm sao vừa theo đúng quy luật chung vừa phù hợp với điều
kiện, đặc điểm của nước mình. Hiện nay, nước ta còn đang ở thời kỳ quá độ đi lên

chủ nghĩa xã hội, có rất nhiều vấn đề cần được nhận thức, vận dụng đúng đắn,phù
hợp với thực tế và quy luật khách quan; khơng thể nơn nóng, giáo điều, máy móc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Đối với nước ta trong giai đoạn
hiện nay, giải phóng và phát triển sức sản xuất, bảo đảm cho kinh tế tang trưởng
nhanh, phát triển bền vững phải là nhiệm vụ chính trị trọng đại số một,nhiệm vụ
trọng tâm.
Phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội: Tại Đại hội VI
lần đầu tiên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đặt đúng tầm vấn đề
xã hội trong mối quan hệ với kinh tế. Và càng về sau Đảng ta càng khẳng định phải
gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát
triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Phát triển nền văn

hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hóa thực sự là nền tảng tinh
thần của xã hội: Phát triển văn hóa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế,
phát triển xã hội, tiến bộ chính trị, là một định hướng căn bản của quá trình xây

7


dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức mới,sự phát triển tư duy lý
luận của Đảng ta.
Giữ vững mơi trường hịa bình, hữu nghị vì sự phát triển của đất nước:
Chúng ta đã đổi mới nhận thức về tình hình thế giới và khu vực; chuyển từ cách
nhìn thế giới chỉ dưới góc độ một vũ đài đấu tranh sang cách nhìn tồn diện hơn;
coi thế giới như môi trường tồn tại và phát triển của Việt Nam; đổi mới tư duy đối
ngoại theo tinh thần "thêm bạn bớt thù"…
Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa:
Chúng ta từng bước nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa xây

dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa kinh tế và quốc
phòng - an ninh - đối ngoại; nhận thức toàn diện hơn về khái niệm "an ninh quốc
gia" và "bảo vệ Tổ quốc".
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ chính trị ở nước ta.Báo
cáo Chính trị tại Đại hội VII của Đảng cũng chỉ rõ: Thực chất của công cuộc đổi
mới và kiện tồn hệ thống chính trị ở nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa; dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới.Nâng cao
vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của công cuộc đổi mới cũng như toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta. Để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo đúng đắn và có
hiệu quả, Đảng càng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn,coi đây là quy
luật tồn tại và phát triển của Đảng.
2.2. Đổi mới kinh tế
Đổi Mới về kinh tế được định nghĩa là: Q trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, cụ thể:
8


Một là, từ quan niệm về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội là

một nền kinh tế chủ yếu có hai thành phần xã hội chủ nghĩa đã đi đến quan niệm
về một nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong


nền kinh tế này, ngồi hai thành phần nói trên, cịn có: kinh tế tư nhân, kinh tế tư
bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Các thành phần kinh tế ấy đều
là bộ phận của nền kinh tế quốc dân, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và
phát triển lâu dài, cùng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Hai là, từ quan niệm cho rằng, để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, phải nhanh chóng hồn thành cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá
thể, tiểu chủ là những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đã đi đến quan niệm
cho rằng việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất
thiết phải phù hợp với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất.
Ba là, từ quan niệm chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là
chế độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất đã đi đến quan niệm về một nền kinh
tế nhiều sở hữu. Trong đó, khơng chỉ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất được thừa
nhận, mà ngay chế độ công hữu cũng được hiểu không phải về tất cả các tư liệu
sản xuất mà chỉ là về các tư liệu sản xuất chủ yếu để làm chỗ dựa cho nền kinh tế
quốc dân.
Bốn là, từ quan niệm kinh tế quốc doanh là chủ đạo đã đi đến quan niệm kinh tế
nhà nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và những bộ phận khác như dự trữ
quốc gia, ngân sách nhà nước ) là chủ đạo.
Năm là, từ quan niệm hợp tác xã thuần túy là kinh tế tập thể, cho rằng tập thể hóa
tư liệu sản xuất càng mạnh, tỷ trọng sở hữu tập thể càng cao thì hợp tác xã càng
gần chủ nghĩa xã hội, do đó mà gò ép những người lao động cá thể vào hợp tác
xã,đã đi đến quan niệm hợp tác xã là một tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ
sở người lao động tự nguyện góp sức, góp vốn và quản lý dân chủ, với quy mô và
mức độ tập thể hóa tư liệu sản xuất khác nhau.

9


Sáu là, từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể,với việc
xóa bỏ nhanh các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu, đã là nền

tảng của nền kinh tế quốc dân, đã đi đến quan niệm rằng muốn cho hai thành phần
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân, thì phải trải qua một quá trình xây dựng, củng cố và phát
triển hai thành phần đó với những bước đi thích hợp.
Bảy là, từ quan niệm Nhà nước phải chỉ huy nền kinh tế theo một kế hoạch tập
trung với những chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã đi đến quan niệm phân
biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh;
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản cơng là thuộc Nhà
nước, cịn chức năng quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp.
Tám là, từ quan niệm chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng
là phân phối theo lao động, đã đi đến quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân
phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu đồng thời
phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và
phân phối thông qua phúc lợi xã hội.Chín là, từ quan niệm thị trường xã hội chủ
nghĩa đối lập với thị trường tư bản chủ nghĩa, hạn chế quan hệ kinh tế quốc tế, đã
đi đến quan niệm về một nền kinh tế mở, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa
các quan hệ, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu; kết hợp nội lực với
ngoại lực, lấy phát huy nội lực là chính, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực để tạo
nên sức mạnh tổng hợp; thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế nhưng vẫn giữ được
tính độc lập tự chủ, giữ được độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc.
Mười là, từ chỗ quan niệm đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ
nghĩa đã đi đến quan niệm coi sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường khơng phải
là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là thành quả phát triển qua nhiều
phương thức sản xuất mặc dù đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế thị trường phát triển
đến mức điển hình.

10



3. Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế
Tại sao Đảng ta lại đặt ra yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới, trước hết là đổi
mới tư duy? Bởi vì khơng có bước đổi mới tư duy đi trước thì khơng có bất cứ một
sự đổi mới nào cả. Đổi mới tư duy để tìm ra những vấn đề lý luận và thực tiễn
nước ta, làm căn cứ phương pháp luận cho việc xác định con đường và bước đi sắp
tới. Đổi mới tư duy thực chất là một cuộc giải phóng triệt để mang ý nghĩa lịch sử.
Tư tưởng giải phóng là một quá trình rời bỏ khỏi bản thân mình và tồn xã hội
những gì đang kìm hãm và cản trở sự phát triển, là quá trình tổ chức lại xã hội và
đưa vào cơ chế vận hành của xã hội một hệ thống đồng bộ các yếu tố vật chất và
tinh thần, tạo nên lực đẩy cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Ngày nay cách mạng đã chuyển sang một giai đoạn phát triển mới khác về chất: Xây
dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa - Một phương thức chưa
từng có trong tiền lệ. Con đường mới lại diễn ra trong xu thế tồn cầu hố và sự cạnh
tranh rất quyết liệt trước sức ép của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, trước sự
phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học và cơng nghệ.Trong hồn cảnh ấy, đổi
mới tư duy và phương thức lãnh đạo của Đảng trở thành nhu cầu không thể thiếu.
Thực tiễn cho thấy, sức sống của một Đảng chính trị tập trung trước hết là ở đường
lối của chính Đảng ấy. Là một Đảng cầm quyền, Đảng ta lãnh đạo cách mạng cũng
chính bằng đường lối chính trị của mình.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng là những vấn đề hoàn toàn
mới cả về lý luận và thực tiễn. Mác, Ăng ghen, Lênin và kể cả các lãnh tụ tiền bối
của Đảng ta cũng chưa từng đề cập đến vấn đề này. Con đường phía trước địi hỏi
chúng ta phải hoàn toàn sáng tạo mới.
Con đường ấy vừa thể hiện sự trung thành với quá khứ, nhưng không lệ thuộc vào
quá khứ. Trong kinh tế, chúng ta một mặt rất muốn phát triển, nhưng mặt kháclại
rất sợ phát triển vượt khỏi khuôn khổ chuẩn mực của chủ nghĩa xã hội theo những
tiêu chí truyền thống. Vì vậy, đường lối kinh tế vẫn mang nặng hơi thở của lối tư

11



duy cũ, tư duy thời kế hoạch hoá-tư duy bao cấp, đối lập với kinh tế thị trường. Kết
quả là đường lối đổi mới trong kinh tế chưa thực sự khơi dậy mọi nguồn

lực

hiện có. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế ngày càng xa hơn là có thật. Do đó, Đảng đã
chỉ đạo chuyển sang kinh tế thị trường, thiết kế một hệ thống chính sách nhằm tạo
điều kiện để tất cả mọi công dân ở trong nước và các nhà đầu tư nước ngồi, có
khả năng làm kinh tế đều hồn tồn có thể tham gia làm kinh tế, theo những định
hướng vĩ mô của nhà nước, trong khuôn khổ của luật pháp.
Đường lối đổi mới là sản phẩm của đổi mới tư duy, của sự khảo nghiệm từ thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhiều năm trước đó, là sự kế thừa và phát triển
đường lối đã hình thành qua các thời kỳ và tổng kết thực tiễn một cách nghiêm túc,
sáng tạo.
Khẳng định đổi mới tư duy là trước tiên, là cơ sở cho việc đổi mới ở các lĩnh vực
khác, Đảng ta cũng khẳng định đổi mới kinh tế giữ vai trò trọng tâm. Điều đó khơng
chỉ có ý nghĩa là kinh tế có vị trí hàng đầu, có tác dụng quyết định mà cịn là vì phát
triển kinh tế trong điều kiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội
như nước ta, có tầm quan trọng đặc biệt, nếu khơng muốn nói là quan trọng bậc
nhất.
Nó cịn có ý nghĩa là vai trị kinh tế tuy chiếm vị trí hàng đầu nhưng tư duy kinh tế
của chúng ta trong nhiều năm qua còn quá lạc hậu so với cuộc sống, cản trở khơng
ít đến sự phát triển kinh tế. Tư duy kinh tế lỗi thời bắt nguồn từ căn bệnh giáo điều,
bảo thủ, trì trệ, ln bám lấy cái cũ, khơng chịu đổi mới, chính vì vậy mà nền kinh
tế - xã hội nước ta đã lâm vào một cuộc khủng hoảng kéo dài và đang trở thành vấn
đề nóng bỏng, nổi lên hàng đầu. Đổi mới tư duy kinh tế, vì vậy, là điểm xuất phát
trong đổi mới lý luận của Đảng, là điều hợp với thực tế, với logic cuộc sống.
Trong quá trình đổi mới, từ thực tế nền kinh tế nước ta ở điểm xuất phát thấpkém,
lạc hậu, lại lâm vào khủng hoảng từ cuối thập niên bảy mươi, Đảng ta chủ trương

lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, tạo ra bước phát triển có tính bứt phá để sớm
đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.Đảng,
12


Nhà nước ta đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội từ 1996 và đạt
thành tựu to lớn về kinh tế qua 20 năm đổi mới.

Chính trị là sự biểu hiện tập

trung của kinh tế, chính trị có vị trí và tác động to lớn tới kinh tế. Thấu triệt sâu sắc
và xử lý thành cơng mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong công cuộc đổi mới,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị.
KẾT LUẬN
Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, thống nhất hữu cơ với nhau.Lý
luận là kim chỉ nam cho hành động thực tiễn, thực tiễn là cơ sở, mục đích, động
lực và là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm lý luận. Trong thực tiễn cách mạng nước ta,
có những vấn đề mới nảy sinh, nằm ngoài phạm vi lý luận đã biết, buộc Đảng ta
phải vận dụng linh động, sáng tạo và chủ động tổng kết thực tiễn, xây dựng lý luận
nhằm tìm ra phương thức, biện pháp hoạt động phù hợp. Sự nghiệp đổi mới là một
trong những vấn đề như vậy, trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã chủ động, sáng
tạo, vừa thực hiện, vừa tổng kết lý luận, vừa xây dựng lý luận, vừa kiểm nghiệm và
định hướng cho hoạt động thực tiễn.
Trải qua hơn 20 năm đổi mới thành công, sự nghiệp đổi mới đã được rất nhiều học
giả nghiên cứu ở phạm vi thế giới cũng như ở Việt Nam. Trong phạm vi nghiên
cứu đề tài này, tôi đã cố gắng bám sát lý luận đã được trang bị ở môn
Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, đặc biệt là nội dung về mối
liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, từ đó phân tích về mối liên hệ giữa đổi mới tư duy

và đổi mới kinh tế trong sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nước ta. Nhưng do thời
gian nghiên cứu có hạn, kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế, tài liệu tản
mạn,đồng thời vấn đề mà tơi nghiên cứu khơng phải là dễ. Vì vậy, đề tài khơng
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi hy vọng rằng vấn đề này sẽ được tổ chức
nghiên cứu ở phạm vi rộng lớn và sâu sắc hơn.

13


14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa X về “Tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
2.Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ mơn khoa học
Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học Mác – Lê nin,nhà xuất bản
chính trị quốc gia, 2004.
3.Lưu Hà Vĩ, Khái niệm lý luận, tạp chí Triết học, số đăng ngày 4/12/2006.
4.Nguyễn Phú Trọng, Đổi mới tư duy lý luận vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, tạp chí Cộng sản điện tử, số đăng ngày 22/1/2007.
5.Phan Đình Diệu, Tiếp tục đổi mới tư duy về kinh tế xã hội, tạp chí Tia sáng, số
đăng ngày 28/9/2006.
6.Trần Nhâm, Tư duy đổi mới của đồng chí Trường Chinh, Việt báo, số đăng ngày
8/2/2007.Trần Văn Phòng, Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong Tư tưởng Hồ
Chí Minh, tạp chí Khoa học xã hội, số đăng ngày 28/4/2007.
7.Vi Thái Lang, Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, tạp chí Triết
học, số đăng ngày 11/5/2007.
8.Vũ Văn Phúc, Vai trị của chính trị đối với sự phát triển kinh tế, Tạp chí cộng sản
điện tử, số đăng ngày 25/10/2008.


15



×