Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

17 lv nguyên nhân mất nước của triều nguyễn, và bài học về vấn đề bảo vệ tổ quốc việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.47 KB, 70 trang )

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
TƠN GIÁO ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ĐẠO TIN
LÀNH TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

• • • •


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay ở nước ta, Đảng khẳng định: lấy
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam của
Đảng và toàn thể dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống lý luận toàn diện,
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh tuy đã đi xa
chúng ta nhưng những gì Người để lại vẫn còn mãi với thời gian, khẳng định sự
trường tồn của giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vấn đề tơn giáo nói chung và mối quan hệ tơn giáo nói riêng là vấn đề mang
tính nhạy cảm, nóng bỏng trong đời sống chính trị và xã hội, là vấn đề khó giải quyết.
Trong tình hình nước ta hiện nay, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang lợi
dụng, núp trong chương trình “diễn biến hịa bình” “bạo loạn lật đổ” không ngừng
chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Lợi dụng sự đa dạng về tôn giáo cũng như
dân tộc, chúng âm mưu chia rẽ tôn giáo trong lịng dân tộc, lợi dụng tơn giáo, dùng
tơn giáo - một “thủ đoạn chính trị” để chống phá Nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đảng
lần VI đã nêu rõ: “Đảng và Nhà nước ta, trước sau như một, thực hành chính sách tự
do tín ngưỡng. Lãnh đạo và giúp đỡ đồng bào theo tơn giáo, đồn kết xây dựng cuộc
sống mới và hăng hái tham gia bảo vệ Tổ quốc, cảnh giác, kiên quyết và kịp thời
chống lại âm mưu, thủ đoạn của bọn đế quốc và phản động chia rẽ đồng bào theo tôn
giáo này với đồng bào theo tôn giáo khác” 1. Hơn nữa, trước luận điệu xuyên tạc của
các thế lực thù địch một cách thâm độc và tinh vi, việc nghiên cứu tư tưởng đại đồn
kết dân tộc nói chung và đồn kết lương giáo nói riêng là việc cần thiết để khơi dậy


tình đồn kết dân tộc, khẳng định tình đồn kết đó bền chặt lâu dài, giúp chúng ta
chiến thắng kẻ thù.
Là người tiên phong trong cách tiếp cận văn hóa đối với tơn giáo Hồ Chí Minh
đã xử lý thành cơng nhiều vấn đề tơn giáo, góp phần củng cố tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hơp cho sự nghiệp cách mạng
Hơn thế nữa, trong suốt cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh, Người đã có
những quan hệ với các tơn giáo, những người đứng đầu các tơn giáo cũng như tín đồ,
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.117.


ai cũng như ai, khơng phân biệt tơn giáo, tín ngưỡng nào. Hồ Chí Minh giải quyết vấn
đề tơn giáo một cách khéo léo, chân tình. Trong những quan hệ của Hồ Chí Minh với
tơn giáo như Cơng giáo, Phật giáo... và Tin lành có những giá trị lý luận và thực tiễn
to lớn. Hiện nay, việc giải quyết vấn đề tơn giáo ở Việt Nam có những diễn biến phức
tạp, trong đó có vấn đề Tin lành phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây.
Vì vậy, việc nghiên cứu ,vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo để giải
quyết vấn đề đạo Tin lành đặc biệt là từ năm 2001 đến nay, góp phần giải quyết tốt
vấn đề Tin lành, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc; khẳng định giá trị lý luận và thực
tiễn cấp bách của đề tài trong bối cảnh hiện nay và phục vụ tốt cho việc học tập. Từ
những lý do cấp thiết trên tôi đã chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
tơn giáo để giải quyết vấn đề đạo Tin lành từ năm 2001 dến nay” làm đề tài nghiên
cứu của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo nói chung và với từng tơn giáo
cụ thể nói riêng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu. Cụ thể:
“Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng ”, của Viện nghiên cứu Tôn giáo
thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Nxb Chính trị Quốc gia,
1998.Cuốn “ Lịch sử Hội Thánh Tin lành Việt Nam (1911-1956) ghi dấu 100 năm Tin
lành trên đất Việt (1911-2011)”, Nxb Tôn giáo, 2010 của Mục sư Lê Hoang Phu. Đây
là những tài liệu cung cấp nguồn tư liệu tin cậy cho những ai nghiên cứu tư tưởng Hồ

Chí Minh về tơn giáo.
Tài liệu trình bày một cách tồn diện, mang lại cho bạn đọc cái nhìn tổng quan tư
tưởng Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh về tơn giáo.
Một số cuốn sách “Thêm những hiểu biết về Hồ Chí Minh ”, Nxb Lao động, Hà
Nội, 1999: tác giả Đỗ Quang Hưng cũng có đề cập đến “Vấn đề tơn giáo tín ngưỡng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh”; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, tơn giáo và đại
đồn kết trong cách mạng Việt Nam ”, Nxb QĐND, Hà Nội, 2003 do Đỗ Quang Hưng
chủ biên đã nghiên cứu, đề cập tới nhiều khía cạnh, nhiều vấn đề, góc độ tiếp cận khác
nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo nói chung.
Ngồi các cuốn sách nghiên cứu của các tác giả kể trên có thể kể đến các bài
nghiên cứu trên các báo, tạp chí: Nguyễn Đức Lữ, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn


kết lương giáo”, Tạp chí lịch sử Đảng, 3/1995; Nguyễn Ngọc Hà,“Tìm hiểu tư tưởng
Hồ Chí Minh về đồn kết tơn giáo”, Tạp chí Lịch sử Đảng, 1/1996; Lê Đại Nghĩa, “Về
tư tưởng đoàn kết lương giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nghiên cứu tơn
giáo., số 1/2009; Trần Duy Hiển “Đồn kết tơn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh”,
Tạp chí Cộng sản, số 783/2008...
Khi nghiên vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo để giải quyết vấn đề
đạo Tin lành, các cơng trình nghiên cứu có đề cập một cách chung chung mối quan hệ
này. Các cơng trình phần lớn là đề cập đến vấn đề tơn giáo, dĩ nhiên khi nói đến tơn
giáo trong đó có đạo Tin lành. Tuy nhiên, để nghiên cứu chuyên sâu về mối quan hệ
này còn rất hạn chế chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu về việc vận dụng tưởng Hồ Chí
Minh để giải quyết vấn đề Tin lành trong một giai đoạn cụ thể như luận văn muốn đề
cập.
Cơng trình nghiên cứu của Đỗ Quang Hưng chủ biên (2003), Tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân tộc, tơn giáo và đại đồn kết trong cách mạng Việt Nam, Nxb QĐND, Hà
Nội. Cuốn Nghiên cứu tôn giáo: nhân vật và sự kiện, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh, năm 2010. Đặc biệt các cơng trình nghiên cứu chuyên sâu: Nguyễn Ái
Quốc và đạo Tin lành, Tạp chí Cơng tác Tơn giáo, số 5(81), năm 2013. Hồ Chí Minh

với đạo Tin Lành, Tạp chí Khoa học Xã hội số 5 (177)- 2013. Đạo Tin lành ở Đông
Bắc Á: Những kịch bản giải quyết xung đột với văn hóa bản địa, Tạp chí khoa học xã
hội số 5(66)- 1013. Cơng trình nghiên cứu của Nguyễn Thanh Xn chủ biên: Góp
phần tìm hiểu đạo Tin lành ở Việt Nam,Viện thơng tin khoa học; Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội (1997), Đạo Tin lành ở Việt Nam - thực trạng và xu
hướng, Viện khoa học công an, Hà Nội (1997), đây thực sự là những cơng trình
nghiên cứu về vấn đề tơn giáo có giá trị tham khảo rất lớn đối với tác giả. Các bài viết
đã đưa ra tình hình đạo Tin lành nói chung, mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh với đạo
Tin lành, những vấn đề về đạo Tin lành đặc biệt là khu vực Đông Bắc Á và Việt Nam,
tuy nhiên bài viết chỉ đề cập trong một giai đoạn nhất định.
Các công trình nghiên cứu trên đây là nguồn tư liệu quý giá cho tôi và những ai
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo nói chung và với đạo Tin lành
nói riêng. Nhưng phần lớn các cơng trình đề cập một cách chung chung tư tưởng Hồ
Chí Minh với các tôn giáo, hay một tôn giáo cụ thể như Công giáo, Phật giáo... nhưng


ít đề cập đến vấn đề đạo Tin lành. Thoảng qua có một số ý kiến song đó là những ý
kiến đơn lẻ, trong các bài viết ngắn, phân tán hay những ý kiến đánh giá, nhìn nhận
vấn đề dưới những góc độ tiếp cận khác nhau của từng tác giả. Do vậy việc nghiên
cứu vấn đề này cần phải nhìn nhận, tiếp cận khơng chỉ dưới góc độ triết học, lịch sử,
xã hội học. mà phải nhìn nhận dưới nhiều góc độ tiếp cận, tiếp tục mở rộng và đi sâu
hơn nữa.
Quá trình tồn tại và phát triển của tơn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống
chính trị, văn hố, xã hội. Chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được
xây dựng trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về tín ngưỡng, tơn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng cơng tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị, lẽ dĩ nhiên khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo cần nhìn nhận
mối quan hệ của Người với từng tôn giáo cụ thể ra sao, để từ đó có cái nhìn đúng đắn,
phù hợp với điều kiện lịch sử.

Từ góc độ chính trị học, việc nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để
giải quyết vấn đề đạo Tin lành một vấn đề mới mẻ, ít được nghiên cứu. Đặc biệt là ý
nghĩa của việc nghiên cứu mối quan hệ này trong bối cảnh chính trị Việt Nam hiện
nay, là một việc làm khoa học có tính cấp thiết.
3.

MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

3.1 Mục đích
Làm rõ q trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo để giải quyết vấn
đề đạo Tin lành ở Việt Nam từ đó kiến nghị những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết
tốt hơn nữa những vấn đề đạo Tin lành ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2 Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và nội dung cơ
bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo.
-

Làm rõ q trình vận dụng những tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo đề

giải quyết vấn đề Tin lành ở nước ta từ năm 2001 đến nay.
-

Xác định những vấn đề đặt ra và kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao

hiệu quả giải quyết vấn đề đạo Tin lành ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh.


4.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo nói chung, về đạo Tin lành nói riêng việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết vấn đề đạo Tin lành ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Địa bàn nghiên cứu:

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo thể hiện trong các tác phẩm của Người bao
gồm cả các tác phẩm mới sưu tầm được, chưa cơng bố chính thức.
-

Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2001 đến nay

5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, Nhà
nước ta về tơn giáo và cơng tác tơn giáo.
Luận văn cịn kế thừa kết quả nghiên cứu về tơn giáo nói chung và đạo Tin lành
nói riêng của một số cơng trình đã được cơng bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Bài nghiên cứu chủ yếu sử dụng các phương
pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương
pháp lịch sử và logic, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp đối chiếu, so
sánh vv.
6. ĐĨNG GĨP CỦA ĐỂ TÀI
-

Chỉ ra cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và nội dung cơ


bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo.
-

Giải quyết tốt q trình vận dụng những tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo

đề giải quyết vấn đề Tin lành ở nước ta từ năm 2001 đến nay.
-

Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết vấn đề đạo Tin

lành ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. KÉT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục cơng trình nghiên cứu
gồm có 2 chương và 5 tiết:


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TƠN GIÁO

1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo.
Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, lãnh tụ xuất sắc của
phong trào cơng nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Công sản Việt Nam luôn
đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo và vận dụng tôn giáo
một cách sáng tạo, linh hoạt phù hợp với thực tiễm cách mạng Việt Nam. Hồ Chí
Minh là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố sắc lệnh tôn trong tự do tín
ngưỡng, tơn giáo của nhân dân Việt Nam. Người ln tơn trọng tự do tín ngưỡng của
nhân dân không cả trong tư tưởng mà cả trong hành động cụ thể. Với Hồ Chí Minh,
đại đồn kết dân tộc, trong đó có đại đồn kết giữa những người có tín ngưỡng và
những người khơng có tín ngưỡng, giữa những người có tín ngưỡng khác nhau, tất cả
đều vì mục tiêu độc lập dân tộc vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự phát triển và hồn

thiện của mỗi cá nhân con người Việt Nam vì sự phát triển của dân tộc.
Vấn đề tơn giáo có rất sớm trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta đều
biết rằng từ đầu 1921, mối quan tâm lớn nhất của Nguyễn Ái Quốc là mở rộng các
hoạt động trong Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp và bắt đầu truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin về trong nước. Nhưng có điều đặc biệt là, bên cạnh việc gắn bó với
thợ thuyền , Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, Nguyễn ái Quốc cũng dành
một phần tâm lực của mình cho “vấn đề tôn giáo”. Cũng từ năm 1921, Nguyễn Ái
Quốc thu thập tư liệu để viết cuốn sách chuyên khảo nhất đời mình là Bản án chế độ
thực dân Pháp, sau này được in ở Paris, 1925. Trong cuốn sách đó , chương X có tên
là Chủ nghĩa giáo hội., hồn tồn được dành cho việc nghiên cứu vao trị của đạo
Công giáo, đặc biệt là tầng lớp giáo sỹ (chủ yếu là giáo sỹ thuộc Hội Thừa sai Paris,
Pháp). Đó cũng là chương sách “kinh điển” về mối quan hệ giữa chủ nghĩa thực dân
và Giáo hội, khi nó bị lợi dụng trong những mưu đồ chính trị thuộc địa.
Cuối thế kỷ XIX phong trào yêu nước Vệt Nam, tiêu biểu là phong trào Cần
Vương dưới sự lãnh đạo của các sỹ phu yêu nước chống thực dân Pháp đã phát triển
rầm rộ trong cả nước, kéo dài gần 20 năm. Những phong trào vũ trang yêu nước của


nhân dân ta bị dập tắt trong biển máu. Trong khi dó tình hình tơn giáo Việt Nam cũng
đang diễn ra phức tạp, mâu thuẫn giữa người có đạo và người khơng có đạo cũng ngày
càng trở nên gay gắt.
Trong khi đó các thế lực xâm lược khơng ngừng lợi dụng vấn đề tơn giáo nhằm
thực hiện mưu đồ chính trị của mình. Chúng chia rẽ khối đại đồn kết dân tộc, chia rẽ
những người có đạo và khơng có đạo, tuyên truyền chống phá cách mạng, chống lại
cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta. Từ bối cảnh lịch sử đó, nhận thấy đồn kết
là một sức mạnh cho sự thắng lợi của cách mạng bên cạnh các nhân tố khác, cách
mạng Việt Nam buộc phải giải quyết vấn đề tơn giáo, nhằm đồn kết tồn dân cùng
tham gia kháng chiến, trong đó có vấn đề đạo Tin lành.
Các tôn giáo được truyền vào Việt Nam qua nhiều con đường khác nhau. Hai
tôn giáo Công giáo và Tin lành được truyền vào Việt Nam là do các giáo sĩ, thừa sai

người nước ngoaì vào. Các hình thức truyền giáo của hai tôn giáo này đều gắn với liền
với các thương nhân người nước ngoài. Đạo Tin lành được truyền vào Việt Nam từ
đầu thế kỷ XVII qua các mục sư tuyên úy hoặc các tín đồ là thương nhân người Pháp,
Hà Lan, Anh. Nhân vật quen biết đầu thế kỷ XIX là Jean Baptiste Chaigneau, một
trong những cố vấn cho Gia Long ở Huế đồng thời cũng là tín đồ của đạo Tin lành.
Bản thân Hồ Chí Minh trước các vấn đề của dân tộc, người ln có tư tưởng về
vấn đề dân tộc và tôn giáo, về độc lập dân tộc và quyền tự do tôn giáo. Từ những hiện
thực cách mạng Người quyết định đi sang phương Tây để tìm hiểu nền văn minh
Pháp. Nhờ có ý muốn ra nước ngồi để tìm hiểu nước Pháp về giúp dân, giúp nước
nhà, cứu lấy giống nịi .chính vì thế mà chưa đầy 20 tuổi người thanh niên Nguyễn Tất
Thành đã đánh giá được lập trường yêu nước của những người đương thời, sau 30
năm bôn ba trên thế giới Người đã đi qua nhiều nước Châu Á, Châu Âu, Châu Phi,
Mỹ Latinh, tìm hiểu về cuộc sống của người dân các nước , Người đã có cái nhìn tồn
diện về người dân lao động: Nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn và chủ nghĩa đế
quốc ở đâu cũng là thù. Chính điều đó đã hình thành ở con người Hồ Chí Minh một tư
tưởng đồn kết nhân dân lao động trong nước cũng như quốc tế với một mong muốn
tột cũng là đất nước được độc lập, nhân dân được tự do khỏi xiềng xích nô lệ.


Bên cạnh đó Chủ tich Hồ Chí Minh là người đã kế thừa một cách sáng tạo và
linh hoạt quan điểm cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề tôn
giáo và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh có hiểu biết sâu sắc về vấn đề
tơn giáo cùng với tình hình phức tạp và nhạy cảm của nó. Người cho rằng hoạt động
lợi dụng tôn giáo của các giai cấp thống trị để áp bức nhân dân để bảo vệ lợi ích của
chúng là vấn đề mang tính phổ biến trong xã hội có giai cấp ở những thời điểm lịch sử
khác nhau. Nhận thức rõ vấn đề kẻ địch lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng
nước ta. Trên cơ sở vạch ra những hành vi lợi dụng tôn giáo của thực dân, đế quốc và
các thế lực phản động với nhiều hình thức rất tinh vi khác nhau, người tìm hiểu về các
tôn giáo, lý giải những nguyên nhân cơ bản của tình hình đó. Đồng thời đề ra đường
lối chính sách và phương pháp giải quyết vấn đề tơn giáo theo quan điểm của chủ

nghĩa Mác- Lênin đối với tất cả các tơn giáo trong đó có đạo Tin lành một tôn giáo vô
cùng non trẻ ở Việt Nam.
Việt Nam là dân tộc đa tơn giáo, tín ngưỡng. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng và Nhà nước ta ln khẳng định chủ trương, chính sách nhất qn là tơn
trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân. Các tơn giáo ln đồn
kết, đồng hành cùng dân tộc, thực hiện phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”. Sự thật
là như vậy, song vẫn còn những ý kiến trái chiều, phản ánh sai lệch tình hình tơn giáo
ở Việt Nam.
Xâu chuỗi mọi vấn đề, có thể thấy rằng, trong lịch sử của dân tộc ta, việc lợi
dụng vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo để phục vụ cho mưu đồ xâm lược hoặc gây mất ổn
định đất nước là việc làm khơng cịn lạ lẫm gì. Núp dưới chiêu bài “tự do tôn giáo”,
các thế lực thù địch cố tình phớt lờ những thành tựu của Việt Nam về cơng tác tơn
giáo; tìm mọi cách gây hiềm khích, chia rẽ giữa các nhóm, hệ phái tơn giáo ở trong
nước; gây mâu thuẫn giữa những người có tín ngưỡng, tơn giáo và khơng có tín
ngưỡng, tơn giáo, giữa đồng bào có đạo với Đảng, Nhà nước, Quân đội và Cơng an.
Ngồi ra, họ cịn ra sức tài trợ hoạt động truyền đạo trái pháp luật nhằm gây ra các
“điểm nóng” về chính trị - xã hội, tạo cớ để các thế lực phản động bên ngoài can thiệp
vào cơng việc nội bộ, phá hoại chính sách đại đồn kết dân tộc.


Vì vậy nghiên cứu về tơn giáo cũng như vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh
để giải quyết vấn đề tôn giáo là một việc làm vô cùng cần thiết và cấp bách luôn được
Đảng và nhà nước ta quan tâm và đưa ra những phương hướng giải quyết đúng đắn,
khoa học và kịp thời. Thông qua việc nghiên cứu cũng giúp ta có được những nhận
định chính xác, khoa học, để có cái nhìn đúng đắn trong bối cảnh các tôn giáo ở Việt
Nam đang phát triển rất đa dạng và phức tạp, từ đó hạn chế những mặt khơng tích cực
sao cho phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam.
Tất cả những gì Hồ Chí Minh viết và nói và ứng xử với tơn giáo, chung quy lại
là nhằm giác ngộ đại đa số đồng bào các tơn giáo và đồn kết tồn dân thành sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Vì vậy có thể nói đồn kết giữa các đồng bào theo

các tơn giáo khác nhau , giữa đồng bào có đạo và những người không theo tôn giáo là
một truyền thống q báu của dân tộc ta. Tư tưởng đồn kết lương giáo, mối quan hệ
của Hồ Chí Minh với các chức sắc tơn giáo và đồng bào có đạo là thể hiện sự tôn
trọng con người và vấn đề tôn giáo để thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc. Việc
thực hiện đúng đắn và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo nói chung và đồn
kết lương giáo nói riêng có ý nghĩa khơng chỉ cho hơm nay mà cho cả tương lai,
khơng những có ý nghĩa trong nước mà cịn có ý nghĩa trong nước mà cịn có ý nghĩa
quốc tế. Bởi những tư tưởng đó của Người chứa đựng sự ước mong về một nền hịa
bình, khoan dung và đầy tính nhân văn cao cả- những giá trị lớn mà nhân loại đang
vươn tới.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tơn giáo là sự vận dụng sáng tạo quan
điểm mácxít về tín ngưỡng, tơn giáo trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam nhằm thực hiện
thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tư
tưởng này được xây dựng trên cơ sở nhận thức rõ đặc điểm văn hóa Việt Nam - một
quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, các tín ngưỡng, tơn giáo có lịch sử hình thành, phát
triển và có đặc điểm riêng, với xu hướng hòa đồng, tồn tại đan xen, ảnh hưởng lẫn
nhau.
Ở Việt Nam khơng có xung đột, chiến tranh tơn giáo. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã tạo nên hệ giá trị


truyền thống vơ cùng q báu, trong đó u nước là giá trị hàng đầu. Trong lịch sử
dân tộc đã từng có sự đồng điệu giữa đức tin tơn giáo và lịng u nước, Trần Nhân
Tơng vừa là ơng vua u nước có cơng lãnh đạo qn dân ta hai lần đánh thắng quân
Nguyên, vừa là nhà thiền học tiêu biểu của thiền phái Trúc Lâm. Sự đồng điệu ấy đã
góp phần to lớn tạo nên sức mạnh đại đồn kết dân tộc trong suốt cuộc đấu tranh giữ
nước và dựng nước. Kế thừa truyền thống ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng,
lịng u nước và đức tin tơn giáo khơng có gì mâu thuẫn, trái lại cịn gắn bó chặt chẽ
với nhau. Một người dù theo tơn giáo nào thì trước hết người đó phải là cơng dân, có

nghĩa vụ với dân tộc, đất nước.
Như vậy, đặc điểm văn hóa dân tộc nói chung, truyền thống yêu nước nói riêng
là cơ sở thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách tơn giáo.
Thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách tơn giáo là nhằm xây dựng,
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Chính sách tơn giáo theo tư tưởng của Người, thể hiện tính nhất
quán, lâu dài, thực sự tơn trọng tín ngưỡng, tơn giáo; thái độ mềm dẻo, khéo léo trong
việc giải quyết các vấn đề tơn giáo. Trong "Tám điều mệnh lệnh" của Chính phủ Việt
Nam dân chủ cộng hịa ghi rõ: Chính phủ, qn đội và đồn thể phải tơn trọng tự do
tín ngưỡng, phong tục tập quán của đồng bào.
Nói chung tư tưởng của Hồ Chí Minh về Tơn giáo thể hiện ở những điểm sau
* Tư tưởng đoàn kết lương giáo
Là tư tưởng mang tính tồn diện nhất thể hiện cả trong kinh tế, chính trị, văn
hóa xã hội. Người từng nói ” phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào
tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống ấm no, xây dựng tổ quốc”. Phải tập hợp tất cả
các quần chúng trong các hình thức mặt trận như Mặt trận phản đế Đông Dương, Mặt
trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt...với các tổ chức hội đồn như Cơng giáo cứu
quốc, Phật giáo cứu quốc, Cao Đài cứu quốc.Đồng bào và chiến sỹ cả nước phải quan
tâm và chăm sóc cho cuộc sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các tơn giáo. Đồng
thời những người có tín ngưỡng phải đặt lợi ích dân tộc, lợi ích tồn dân lên trên hết,
phải tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tự do tín ngưỡng của nhân dân; khắc
phục mọi mặc cảm, định kiếm và chống âm mưu chia rẽ lương- giáo của bọn phản


động. Đồng thời phỉa biết phân biệt như cầu tín ngưỡng chân chính của đồng bào có
đạo với việc lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo của các phần tử phản động. Mặt khác để
thực hiện hịa bình và đồn kết tôn giáo phải chú ý kế thừ giá trị nhân bản của tôn
giáo, trân trọng những người thành lập các tôn giáo lớn, tranh thủ giáo sỹ, quan tâm
đến giáo dân;độ lượng vị tha với những người lỗi lầm; đấu tranh cương quyết với bọn
phản động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng.

Tư tưởng của người về đoàn kết lương giáo ln chiếm một vị trí quan trọng
trong hệ thống di sản lý luận mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Theo Người đoàn kết tôn giáo được thể hiện trên một số nội dung sau:
Đồn kết tơn giáo được xây dựng trên cơ sở kết hợp đúng đắn các lợi ích cơ
bản của cơng dân trong xã hội làm mẫu số chung.
Có thái độ ứng xử mềm dẻo, tế nhị với các chức sắc tơn giáo, quan tâm cuộc
sống đời thường của các tín đồ.
Hồ Chí Minh trên cơ sở nhận thức thực tiễn đời sống các tôn giáo Việt Nam và
các yêu cầu cách mạng đã xây dựng tình cảm đồn kết giữa những người theo các tôn
giáo khác nhau; chấp nhận tất cả mọi người khơng cùng tín ngưỡng tơn giáo. Đó là nét
độc đáo và thiên tài của Hồ Chi Minh. Nó thể hiện lịng nhân ái, bao dung, hịa hợp
trong nhân cách của Người. Nhờ đó mà đã tránh được tình trạng các tơn giáo đấu
tranh với nhau để tranh giành ảnh hưởng gây mất ổn định xã hội và gây khó khăn cho
cách mạng, tạo điều kiện cho các tơn giáo tham gia vào mặt trận đồn kết chung, chiến
đấu giải phóng tổ quốc và xây dựng đời sống ấm no cho nhân dân mà vẫn đảm bảo
được đức tin cho những người theo các tôn giáo. Nhờ vậy, với mục tiêu chính nghĩa
đúng đắn và phương pháp mềm dẻo linh hoạt, Hồ Chí Minh đã đồn kết được những
người có các tơn giáo khác nhau tạo thành sức mạnh đại đồn kết tơn giáo cũng là góp
phần làm nên đại đoàn kết dân tộc để tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và
thơng qua đó thì các tơn giáo cũng có điều kiện hiểu và xích lại gần nhau hơn, tạo
thành khối đại đoàn kết thống nhất, làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ, phá hoại cách
mạng của kẻ thù. Với Hồ Chí Minh đại đồn kết tồn dân tộc, trong đó có đại đồn kết
giữa những người có tín ngưỡng và những người khơng có tín ngưỡng, giữa những
người có tín ngưỡng khác nhau, tất cả đều vì mục tiêu độc lập dân tộc, vì hạnh phúc


của nhân dân, vì sự phát triển hồn thiện của mỗi cá nhân con người Việt Nam và vì
sự phát triển của dân tộc.
Người quan niệm “Tổ quốc độc lập Tơn giáo mới được tự do” Người ln kêu
gọi “Tồn thể đồng bào ta, khơng chia lương giáo, đồn kết chặt chẽ, quyết lịng

kháng chiến, để giữ gìn non sơng, Tổ quốc mà cũng để giữ gìn quyền tơn giáo tự do”.
Người cũng đã viết: ”Nay đồng b ta đồn kết, hi sinh của cải xương máu, kháng
chiến đến cùng, để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc...” Từ quan điểm đó
mà ngay khi Chính phủ mới được thành lập đã có rất nhiều người đứng đầu các tôn
giáo tham gia Quốc hội.
Ngày 3/ 11/ 1946 Hồ Chí Minh được Quốc hội ủy nhiệm đứng ra lập Chính phủ mới
theo ngun tắc: Đồn kết tập hợp nhân tài không phân biệt đảng phái. Đặc biệt Chỉ
thị 5/10/1947 chủ chương đoàn kết hơn nữa với tất cả các cá nhân thuộc các dân tộc,
tôn giáo khác nhau. Linh mục Lê Văn Yên được mời làm Ủy viên kháng chiến Bắc
Ninh. Linh mục Phạm Bá Trực được cử làm Phó trưởng ban thường trực cũng tự
nguyện tham gia gánh vác việc làm cố vấn Chính phủ và đã ”hứa sẽ cố gắng làm việc,
một lịng vì dân vì nước”[11,430] .
Để thực hiện đồn kết tơn giáo, trong đó trọng tâm là đồn kết Lương - Giáo,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những giải pháp có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn
là: Xây dựng hệ thống chính trị trong vùng có đồng bào tơn giáo, làm tốt công tác vận
động với các chức sắc và tín đồ tơn giáo, tích cực đấu tranh chống bọn đế quốc, phản
động lợi dụng tơn giáo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng lãnh đạo và chỉ đạo việc xây dựng và
phát huy vai trò của tổ chức Đảng các cấp, các hệ thống chính quyền, của mặt trận dân
tộc thống nhất và các đoàn thể quần chúng khác ở các địa phương, nhất là vùng có
đơng đồng bào theo đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây
dựng đội ngũ cán bộ ở các vùng đồng bào công giáo. Người khẳng định: "Cán bộ là
gốc của mọi công việc" và "công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay
kém". Người chủ trương phát triển cán bộ tại chỗ là chính, để họ trở thành cán bộ "bán
chuyên nghiệp" đi vận động tôn giáo. Người thường căn dặn cán bộ phải thật bền bỉ
thì mới có thể giúp đồng bào tôn giáo phân biệt rõ bạn, thù.


Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi cơng tác vận động đối với các chức sắc tôn giáo
và đồng bào tôn giáo. Người luôn biểu lộ sự tôn trọng, quan tâm đối với các chức sắc

tơn giáo và tìm cách tốt nhất để tranh thủ họ; song cũng có thái độ xử sự dứt khoát,
kiên quyết trừng trị những kẻ mượn tiếng đạo, làm nhục Chúa, làm hại dân. Đối với kẻ
lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào chống lại Tổ quốc, Người
chỉ rõ: "Chính phủ sẽ nghiêm trị những kẻ lừa bịp, cưỡng bức đồng bào phải lìa bỏ
quê hương, sa vào một đời sống tối tăm cực khổ về phần xác cũng như phần hồn".
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln chăm lo đến đời sống của đồng bào tơn giáo, chăm
sóc cả "phần xác" và "phần hồn".Theo Người, "phần xác có no ấm thì phần hồn mới
thong dong", từ đó Người chỉ đạo Chính phủ cần có chính sách cụ thể để cải thiện
cuộc sống cho đồng bào, tích cực tăng gia sản xuất, nâng cao đời sống. Người nói:
"Phải ra sức củng cố hợp tác xã, phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho xã viên. Đồng
thời phải đảm bảo tín ngưỡng tự do. Nhưng hoạt động tơn giáo khơng được cản trở
sản xuất của nhân dân, không được trái với chính sách và pháp luật của Nhà nước".
Đối với "phần hồn" của đồng bào tôn giáo, Người không chỉ đánh giá cao giá trị của
văn hóa tơn giáo, mà cịn trực tiếp quan tâm tới sinh hoạt tơn giáo. Người đã nhiều lần
đến các chùa chiền, nhà thờ với tấm lịng thành kính dự các lễ nghi tơn giáo như: Lễ
Phật đản, Lễ Giáng sinh...
Như vậy, thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo là sự vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin về tôn giáo để giải quyết vấn đề tín ngưỡng tơn giáo ở Việt Nam một
cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, văn hóa và đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tín đồ tơn giáo ở Việt Nam thực hiện tư tưởng
của Người về chính sách tôn giáo, đã và đang sống theo phương châm: "Sống phúc âm
trong lòng dân tộc", "tốt đời đẹp đạo", "đạo pháp dân tộc và chủ nghĩa xã hội".
* Tôn trọng tự do đức tin ( cao hơn là niềm tin) nhiều người gọi đó là tơn trọng
và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tơn giáo.
Tự do tín ngưỡng tơn giáo và tự do khơng tín ngưỡng tơn giáo là nhu cầu
không thể thiếu được đối với nhân dân, là cái thiêng liêng của mỗi người không ai
được xâm phạm hay làm tổn hại đến điều đó, đồng thời cũng là mục tiêu phấn đấu của
cách mạng. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng tức là tôn



trọng nhân dân, tôn trọng nhu cầu tâm linh của một bộ phận nhân dân, tôn trọng yêu
cầu về tự do, dân chủ trong đời sống văn hóa tinh thần của xã hội.
Mỗi một tôn giáo là một hệ tư tưởng, Hồ Chí Minh đã hiểu vấn đề tự do tín
ngưỡng phải được giải quyết một cách rất thỏa đáng. Người khơng gị ép hay bắt buộc
người khác phải theo tư tưởng này hay theo tư tưởng khác, ai cũng có quyền tự do
nghiên cứu một chủ nghĩa nào mà mình mong muốn. Trong lần trả lời phỏng vấn các
nhà báo ngày 12/7/1946 ở Roaya Mơng xơ, Người đã nói: “ Tất cả mọi người đều có
quyền nghiên cưu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi nghiên cứu chủ nghĩa Mác”. Cho nên
cũng có thể nói, quan điểm tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng của con người đó cũng
chính là quyền con người được tự do về tư tưởng.
Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo là một trong những quyền cơ bản của con
người, được ghi nhận tại Điều 18 Tun ngơn nhân quyền tồn thế giới năm 1948 và
được phát triển đầy đủ hơn trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966 của Liên hợp quốc. Điều 18, khoản 3 của Công ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị nói về quyền tự do tôn giáo đã xác định: “ Quyền tự do bày tỏ tơn
giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần
thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo
vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”.
Như vậy, theo quan điểm của Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế, mặc dù là
một quyền cơ bản của con người, nhưng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo khơng phải
là tuyệt đối, mà là một quyền có giới hạn. Sự giới hạn đó là cần thiết nếu việc thực
hiện quyền này xâm hại tới an ninh quốc gia, trật tự xã hội, sức khỏe cộng đồng hoặc
quyền và tự do cơ bản của người khác. Nói cách khác, ở tất cả các nước, các loại hình
tổ chức tơn giáo đều được tự do hoạt động nhưng phải trong giới hạn của Hiến pháp
và pháp luật. Mọi hành vi hoạt động tôn giáo gây hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, vi phạm đạo đức và các quyền của người khác. đều bị cấm và nghiêm trị
theo pháp luật. Vì vậy, những kẻ lợi dụng tôn giáo để trục lợi cá nhân, thực hiện
những hành động chống chính quyền, gây mất ổn định trật tự xã hội thì phải bị xử lý
thỏa đáng.



Khẳng định quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, nhân dân có quyền tin hoặc
khơng tin, theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào, song khơng vì thế mà bài xích, đó
kỵ, ghen ghét, đối đầu nhau, gây mất đoàn kết, làm cho kẻ thù dễ lợi dụng chia rẽ.
Người chỉ rõ: ”Trong một nước văn minh có tự do tín ngưỡng, tự do ngơn luận nhưng
khơng được vu khống kẻ khác” [44,73]. Đó là một quan điểm cách mạng và khoa học.
Nếu tự do theo kiểu vơ chính phủ chắc chắn sẽ dẫn đến kết cục là không được tự do.
Quyền theo hay không theo một tôn giáo nào khơng có nghĩa là quyền áp đặt thiên
kiến, niềm tin của mình đối với người khác. Bởi vậy, quan điểm của Người là thừa
nhận quyền tự do lựa chọn tôn giáo để theo của đồng bào cũng như sự bình đẳng giữa
các tơn giáo. Tuy nhiên sự tự do tín ngưỡng, tự do lựa chọn tơn giáo của nhân dân
khơng được cản trở đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội...đến sự phát triển của
đất nước. Người nói: ” Hoạt động tơn giáo khơng được cản trở sản xuất của nhân dân,
khơng được trái với chính sách và pháp luật của Nhà nước” [45,606].
Khẳng định quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, Hồ Chí Minh còn thể hiện rõ
quan điểm về việc chống vi phạm quyền tự do tín ngưỡng dưới mọi hình thức. Đối với
cán bộ của Đảng và Nhà nước, Người luôn nhắc nhở phải tơn trọng quyền tự do tín
ngưỡng của nhân dân, phong tục tập quán của nhân dân. Ngay sau khi Nhà nước kiểu
mới ra đời, Hồ Chí Minh đã ban hành mệnh lệnh “chính quyền, qn đội và đồn thể
phải tơn trọng tín ngưỡng, phong tục tập qn của đồng bào” [41,565].
Hiến pháp đầu tiên của nước ta năm 1946, ở chương II, mục B đã ghi rõ; “mọi
công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng”. chính cương của Mặt trận Liên Việt ở
điều 7, điểm 1 ghi “tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng cho mọi người”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định lại quan điểm đó trong thư gửi cụ Giám mục Lê
Hữu Từ ngày 1/2/1947: “ Trong Hiến pháp ta định rõ: Tín ngưỡng tự do. Nếu ai làm
sai Hiến pháp, khiêu khích Cơng giáo sẽ bị phạt. Chắc cụ không bao giờ tin rằng Việt
Minh chống lại đạo vì cụ thừa biết Việt Nam độc lập đồng minh là cốt đoàn kết tất cả
các đồng bào để làm cho Tổ quốc độc lập chứ không phải để chia rẽ phản đối tôn
giáo” [40,38].
Người kịch liệt phê phán chủ nghĩa giáo hội bị lợi dụng bởi mục đích thực

dân , nhưng ln tơn trong tự do tín ngưỡng của nhân. Người kiên quyết bài trừ mê tín


dị đoan, bài trừ những hủ tục làm cản trở sự vận động và phát triển của xã hội Việt
Nam.
Sự tơn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân trong các bài viết và nói của Người
về tơn giáo là: Mỗi cơng dân có quyền theo hoặc khơng theo bất kỳ một tơn giáo nào.
Người có tín ngưỡng và khơng có tín ngưỡng đều bình đẳng như nhau trước pháp luật:
Mỗi tín đồ tơn giáo cả trên cương vị tổ chức và cá nhân vừa làm tròn bổn phận của tin
đồ, vừa làm trịn nghĩa vụ của cơng dân. Mọi tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
mọi cơng dân đều có quyền thay đổi hoặc khơng thay đổi tơn giáo của minh mà không
cần một điều kiện xã hôi nào kèm theo.
Từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
cho đến nay đều nhất quán:” Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do khơng tín ngưỡng tơn giáo cơng dân theo tơn
giáo hoặc khơng theo tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, được hưởng mọi quyền
công dân và có trách nhiệm thực hiện mọi nghĩa vụ cơng dân”[17,150].
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, đối với người có tín ngưỡng , đức tin tơn
giáo và long u nước không mâu thuẫn nhau mà mỗi người vừa là người dân yêu
nước vừa là một tín đồ chân chính. Cùng với những hoạt động đặng thổi vào long yêu
nước kính Chúa, Hồ Chí Minh đã chủ động giúp đỡ các tơn giáo lập ra các tổ chức
u nước của mình. Ngày 15/3/1946, Người ký quyết định thành lập Việt Nam Phật
giáo hội. Ngày 6/3/1946, Liên đồn Cơng giáo Việt Nam ra đời.Trong khi tuyên
truyền lời nói của Người bao giờ cũng giản dị, dễ hiểu. Từ sâu thẳm đáy long Người
bao giờ cũng tôn trọng nhắc đến nguồn gốc xuất thân từ lao động, đến gương hy sinh
cứu nhân loại, “cứu khổ cứu nạn”. Qua đó đồng bào nhanh chóng hiểu rõ tư tưởng của
Người . Đa số các tín đồ đã nghe theo lời dạy của Người, họ đã hiểu được một cách tự
nhiên giữa đức tin tôn giáo với lòng yêu nước và sự kết hợp hài hòa giữa hai mặt ấy
trong tâm linh mỗi tín đồ. Hành động tham gia kháng chiến cứu nước và kiến quốc
của đồng bào các tôn giáo trong cả nước trong các cuộc kháng chiến chính là bắt

nguồn từ yếu tố hết sức quan trọng này.
Đối với Hồ Chí Minh, vấn đề tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng đối với đồng
bào có đạo, khơng phải là vấn đề mang tính chất tình thế mà là vấn đề có ý nghĩa


chiến lược lâu dài. Điều này được nhà sử học Xanh-tơ-ni, người khơng cùng quan
điểm với Hồ Chí Minh, nói; “Về phần tơi, phải nói rằng chưa bao giờ tơi có cớ để
nhận thấy nơi có các chương trình của cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào, dù rất nhỏ,
của sự cơng kích, đa nghi hoặc chế diễu đối với tôn giáo nào bất kỳ”[55,60].
Mọi người Việt Nam không phân biệt tơn giáo tín ngưỡng phải thực sự đồn
kết cùng nhau phấn đấu vì Việt Nam hịa bình, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh tiến lên
CNXH.
* Tôn trọng và khai thác truyền thống tôn giáo Việt Nam.
Ở Việt Nam, tơn giáo tồn tại và phát triển trong hồn cảnh đất nước phải trải
qua những chặng đường dài, phải chiến đấu chống lại các thế lực đế quốc xâm lược
cực kỳ hung bạo. Do đó, tơn giáo khơng thể tách rời chính trị, càng khơng thể đứng
ngồi chính trị. Tín đồ các tôn giáo là một bộ phận trong quần chúng nhân dân, đã
cùng với cộng đồng dân tộc đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Những kẻ thù xâm
lược đã cấu kết chặt chẽ với bè lũ tay sai trong nước, dùng mọi thủ đoạn lợi dụng tôn
giáo để thực hiện âm mưu chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, phục vụ cho mục đích chính
trị của chúng.
Khi xâm lược Việt Nam, các thế lực thù địch, đế quốc đều tìm mọi cách , mọi
thủ đoạn để lợi dụng tơn giáo, hịng biến các tơn giáo Việt Nam thành lực lượng đối
lập với cách mạng. Đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Hịa Hảo, đạo Cơng giáo và Tin lành...
ít nhiều ở mức độ khác nhau đều có một bộ phận bị lôi kéo, mua chuộc.
Nhận thức một cách sâu sắc về việc tôn trọng và khai thác truyền thống các tôn
giáo Việt Nam nhất là trong cách mạng giải phóng dân tộc vì vậy Người càng chú tâm
hơn nữa trong việc chú ý xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong các tổ chức, hình
thức yêu nước thích hợp như việc Người đã chủ trương tập hợp tất cả quần chúng
nhân dân không phân biệt dân tộc, đẳng cấp, tơn giáo.. .trong các hình thức mặt trận

như ; Mặt trận phản đế Đông Dương, Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt.và các tổ
chức hội đoàn như công giáo cứu quốc, Phật giáo cứu quốc.
Người luôn nhấn mạnh và đề cao các giá trị tinh hoa của các tôn giáo. Người
viết: “Chúa Giê su dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi.
Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa” [41,23]. Tư tưởng nhân đạo của Giê su, tư


tưởng từ bi hỷ xả, bình đẳng của Phật Thích Ca, tư tưởng “hòa mục xã hội” của
Khổng Tử đã gặp gỡ với mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa xã hơi mà chúng ta đang
xây dựng.
Tầm nhìn của Hồ Chí Minh đối với các tơn giáo chính là tầm nhìn của đỉnh cao
văn hóa nhân loại, tầm nhìn “của tương lai”, vượt qua những giới hạn của lịch sử, của
những thiên kiến của tôn giáo, giai cấp và dân tộc để thấy được giá trị đạo đức tích
cực của các tơn giáo, khai thác nó phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Tầm nhìn đó dựa
trên chủ nghĩa u nước chân chính kết hợp với hệ tư tưởng tiến bộ của thời đại là chủ
nghĩa Mác.
Điều cần nhấn mạnh ở đây là Hồ Chí Minh khai thác các giá trị văn hóa, đạo
đức của cá tơn gi trên một tầm nhìn mới và phương pháp mới nhằm phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chế độ xã hội mới. Người đã đưa
vào các giá trị văn hóa, đạo đức của các tơn giáo những nội dung mới có ý nghĩa tiến
bộ phục vụ cho sự phát triển của thời đại mới, gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Trong các bài nói, bài viết của mình, Hồ Chí Minh thường chích dẫn ngun
văn những lời nói của các vị thánh hiền rút trong kinh Phật, kinh Thánh hay kinh của
Khổng Tử... Người chuyển ý của các vị cho thích hợp với thời đại, với dân chúng, mà
tinh thần cơ bản không hề thay đổi. Năm 1964, Nhười lấy tinh thần kinh thánh để giáo
dục tinh thần đại đồn kết:” Kinh thánh có câu ý dân là ý Chúa, con đường yêu nước
mà đồng bào đang đi là hồn tồn đúng. Tơi mong các cụ phụ lão, các vị giám mục
hăng hái khuyến khích tín đồ trong mọi cơng việc ích nước lợi dân, lương giáo đồn
kết, cả nước một lịng...” Người cịn viết: Trong Cơng giáo có câu: ”Tam vị nhất thể”,

nhà Phật có câu “Vạn chúng nhất tâm” nên chúng ta phải hy sinh cho nhân loại và
chúng sinh”.
Trong lịch sử cận hiện đại của dân tộc, thời kỳ cuối thế kỷ XIX , vấn đề tôn
giáo cũng đã được nhiều sỹ phu yêu nước đề cập đến. Tiêu biểu trong đó là Phan Bội
Châu. Khác với các phong trào yêu nước thời kỳ Văn Thân, Cần Vương trước kia,
Phan Bội Châu cũng đã đặt vấn đề tơn giáo trong vấn đề dân tộc. Ơng cho rằng:
”Đồng bào Cơng giáo đều anh em ta cả”. Vì vậy, giáo cũng như lương, ai cũng có


lịng u nước. Ngay từ thời đó, ơng đã nhận thức được ”yêu nước và kính Chúa” gắn
liền với nhau. Phan bội Châu đã kêu gọi lương giáo đoàn kết và tin tưởng ở khối đồn
kết đó.
“Bởi vì ta lại với ta
Lẽ đâu lương giáo toan là hại nhau
Suy một bụng đồng bào tương ái
Người cùng người ai dại gì đâu
Đã là đồng chủng đồng cừu
Yêu nhau thì quyết cứu nhau phen này” [64, 57-58].
Tuy nhiên, do hạn chế tầm nhìn của thời đại và nhãn quan chính trị, tư tưởng
đồn kết của Phan Bội Châu khơng tránh khỏi những điều bất cập. Ơng khơng đặt ra
vấn đề phải phân biệt rõ ràng giữa người dân Công giáo yêu nước chân chính với kẻ
đội lốt thiên chúa giáo can tâm làm tay sai cho thực dân Pháp.
Như vậy, nhìn nhận tơn giáo như một lĩnh vực văn hóa. Người đã chỉ ra và khai
thác các giá trị nhân bản trong các tơn giáo nhằm tăng cường khối đại đồn kết dân
tộc, đồn kết tơn giáo trên cơ sở tin cậy lẫn nhau về mục đích, từ đó thống nhất về
hành động và tập hợp họ lại trong những tổ chức chính trị - xã hội, nhân lên sức mạnh
các tổ chức này dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Chính phủ. Đây là bài học lớn, quí
báu mà Đảng và Nhà nước có thể tiếp thu và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn
hiện nay nhằm xây dựng, củng cố khối đại đồn kết dân tộc, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

* Mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc, đức tin và lịng u nước, giải quyết
vấn đề tơn giáo theo hướng nhà nước thế tục (coi thực tại tôn giáo như thực tại xã hội)
nhưng kiên quyết chống lại việc địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng.
Bên cạnh việc chăm lo đời sống mọi mặt của đồng bào các tôn giáo, phải đấu
tranh chống âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp
cách mạng. Do đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam, trước đây khi xâm lược nước ta,
các thế lực đế quốc đều tìm cách lợi dụng tơn giáo để phục vụ cho mục đích chính trị
của chúng. Ngày nay, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ việc lợi dụng tôn giáo để
chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy trong khi tơn trọng và đảm bảo quyền tự do tín



×