Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

một số vấn đề về chúa nguyễn và vương triều nguyễn diện mạo kinh tế xã hội đàng trong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.73 KB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA LỊCH SỬ

Bài tập thực hành học phần: Một số vấn đề về chúa Nguyễn và vương
triều Nguyễn
Tên đề tài:
DIỆN MẠO KINH TẾ-XÃ HỘI ĐÀNG
TRONG
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20/10/2012
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
Mục lục
A. Sự thiết lập chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong :
Ngay từ khi chiến tranh Nam Bắc Triều còn đang tiếp diễn thì nội bộ Nam triều
đã nảy sinh mầm mống của sự chia rẽ. Năm 1545, sau khi Nguyễn Kim bị mưu sát,
Trịnh Kiểm được vua Lê đưa lên thay thế chỉ huy mọi việc.
Để giữ vững quyền hành của mình Trịnh Kiểm tìm cách loại trừ phê cánh của
Nguyễn Kim mà trước hết là con trai của ông. Người con đầu là Nguyễn Uông bị ám
hại, người con thứ là Nguyễn Hoàng lo lắng tìm cách thoát khỏi mối đe dọa đó. Được
sự gợi ý của trạng nguyên Nguyễn Bĩnh Khiêm, Nguyễn Hoàng nhờ chị (vợ của
Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn đất Thuận Hóa. Bấy giờ ở xứ Thuận Hóa mới dẹp yên,
tuy nhà Lê đã đặt tam ti (Đô ti, Thừa ti, Hiến ti) và phủ huyện để cai trị nhưng nhân
dân vẫn chưa một lòng. Mặt khác, Kiểm thấy vùng đất ở đó hiểm nghèo, xa xôi cho
ngay cho Nguyễn Hoàng.
Anh Tông lên ngôi Trịnh Kiểm dâng biểu nói: “Thuận Hóa là nơi quan trọng,
quân và của do đó mà ra, buổi quốc sơ nhờ đấy mà nên nghiệp lớn. Nay lòng dân hãy
còn tráo trở, nhiều kẻ vượt biển đi theo họ Mạc, sợ có kẻ dẫn giặc về cướp, vì không
được tướng tài trấn thủ vỗ yên thì không thể xong. Đoạn quân công là con nhà tướng,
có tài trí mưu lược có thể sai đi trấn ở đấy để cùng với tướng trấn thủ Quảng Nam
cùng nhau giúp sức thì mới đỡ lo đến miền Nam”. Vua Lê nghe theo và trao Nguyễn
Hoàng trấn tiết, phàm mọi việc đều ủy thác cả, chỉ mỗi năm nộp thuế mà thôi. . .
Nguyễn Hoàng đã thành công với nước cờ thí này (lúc ấy là năm 1558).


Trang 2
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
Theo Li Tana nhận định rằng: “Trịnh Kiểm chỉ có ý tống khứ một địch thủ,
nhưng Trịnh Kiểm đã đi sai nước cờ. Và thay vì tống khứ ông đã cho không Nguyễn
Hoàng một vương quốc”
Thuận Hóa (vùng đất từ phía Nam đèo Ngang đến đèo Hải Vân) vốn là đất cũ
của Champa, tuy đã được sáp nhập vào Đại Việt từ lâu nhưng đến lúc này dân cư vẫn
thưa thớt, kinh tế thì kém phát triển.
Tháng 11 năm 1558, Nguyễn Hoàng đem theo nhiều anh em, bà con người Tống
Sơn (Thanh Hóa) và cùng các quan lại cũ của Nguyễn kim; các “nghĩa dũng” Thanh -
Nghệ vào trấn thủ Thuận Hóa.
Năm 1570, khi quân Mạc tấn công vào vùng Thanh – Nghệ, chúa Trịnh phải
triệu trấn thủ Quảng Nam về bảo vệ Nghệ An và giao cho Nguyễn Hoàng cai quản
đất Quảng Nam (vùng đất từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông).
Họ Nguyễn vừa lo phát triển kinh tế, vừa lo củng cố quyền thống trị để thoát ly
dần sự lệ thuộc và trở thành một lực lượng đối địch với họ Trịnh. Dần dần khu vực
Thuận – Quảng trở thành vùng đất của tập đoàn phong kiến họ Nguyễn. Sau khi đã
ổn định tình hình ở xứ Thuận – Quảng, năm 1593 Nguyễn Hoàng đêm quân ra Thăng
Long giúp Trịnh Tùng trấn áp các tàn quân của nhà Mạc và sau đó đến năm 1600
vượt biển trở về Thuận Hóa.
Năm 1613, trước khi chết Nguyễn Hoàng dặn lại con là Nguyễn Phúc Nguyên
cố gắng bảo vệ dòng họ của mình: “Đất Thuận – Quảng phía Bắc có Hoành Sơn và
Linh Giang, phía Nam có núi Hải Vân và Thạch Bi, địa thế hiểm cố, thật là một nơi
để cho người anh hùng dụng võ. Nếu biết dạy bảo nhân dân, luyện tập binh sĩ kháng
cự lại họ Trịnh thì gây dựng được cơ nghiệp muôn đời”.
Sau khi lên kế nghiệp, Nguyễn Phúc Nguyên tổ chức lại chính quyền, tách khỏi sự
phụ thuôc họ Trịnh, chỉ nộp phú thuế theo lệ. Năm 1620, họ Trịnh đem quân vào,
Phúc Nguyên không chịu nộp thuế nữa. Năm 1627, lấy cớ đó họ Trịnh đem quân vào
đánh Thuận Hóa. Cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn bắt đầu.
Trang 3

Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
Trong gần nửa thế kỉ, hai bên đánh nhau 7 lần vào các năm 1627; 1630; 1643;
1648; 1655 – 1660; 1661 và 1672, trong đó có một lần quân Nguyễn vào sông Gianh
tiến đánh quân Trịnh chiếm vùng đất ở phía nam sông Lam (Nghệ An) mấy năm rồi
rút về. Từ nam Nghệ An đến bắc Quảng Bình (địa phận sông Gianh và sông Nhật Lệ)
trở thành chiến trường. Sau 7 lần đánh nhau dữ dội mà không có kết quả, quân sĩ hao
tốn, chán nản, nhân dân khổ cực, hai họ Trịnh – Nguyễn đành phải ngừng chiến, lấy
sông Gianh làm giới hạn chia cắt Đàng Ngoài, Đàng Trong.
Diễn ra đồng thời với cuôc chiến tranh Trịnh – Nguyễn là quá trình mở rộng
lãnh thổ và thiết lập chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong.
Trong những thập kỉ đầu và giữa thế kỉ XVII, cùng với các nhóm cư dân người
Việt thì một số người Trung Quốc cũng đến khai khẩn đất hoang và sinh sống làm ăn
ở vùng đất Nam Bộ. Nhân việc nhà Thanh thay thế nhà Minh ở Trung Quốc, một số
quan lại và quân lính trung thành với triều đình nhà Minh không chấp nhận sự thống
trị của nhà Thanh đã vượt biển đến Đàng Trong tìm đất sinh sống và thúc đẩy nhanh
hơn quá trình khai phá của chúa Nguyễn.
Để thu hút nhiều người đến Thuận Hóa làm ăn sinh sống, chúa Nguyễn đã thi hành
chính sách khuyến khích đặc biệt đối việc khai phá đất hoang, cho phép người dân
biến ruộng đất khai hoang được thành sở hữu tư nhân. Đồng thời, chúa Nguyễn còn
thi hành một chế độ khoan hòa, khuyến khích sản xuất, người mới đến không phải trả
thuế trong 3 năm đầu định cư.
Vì vậy, làn sóng tự phát di cư vào Nam tìm đất sinh sống của đông đảo những
người nông dân Thuận - Quảng, chúa Nguyễn đã cho lập thành các xã, thôn, phường,
ấp của người Việt. Chúa Nguyễn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những địa chủ giàu
có ở Thuận - Quảng đem tôi tớ và chiêu mộ nông dân lưu vong vào đây khai hoang
lập ấp.
Bảo vệ dân chúng khẩn hoang và xác lập chủ quyền là hai quá trình được các
chúa Nguyễn tiến hành song song đồng thời. Trong đó xác lập chủ quyền là để bảo vệ
tính hợp pháp của công cuộc khẩn hoang và thành quả của công việc khẩn hoang
Trang 4

Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
chính là cơ sở để xác lập chủ quyền một cách thật sự. Từ thế kỉ thứ XVII đến thế kỉ
thứ XVIII, toàn bộ khu vực phía Nam đến tận Đồng Bằng Sông Cửu Long đã hoàn
toàn thuộc quyền cai quản của chúa Nguyễn và nhanh chóng trở thành vùng phát
triển kinh tế - xã hội năng động. Đây là thành quả lao động cần cù và sáng tạo của tất
cả các cộng đồng dân cư trong guồng máy phát triển chung của đất nước, trong đó vai
trò của các cư dân người Việt, người Khmer, người Chăm va người Hoa là rất nổi
bật.
Năm 1774, chúa Nguyễn đã chia vùng đất từ nam dãy Hoành Sơn đến Cà Mau
làm 12 đon vị hành chính gọi là dinh. Vùng đất Thuận – Quảng cũ gồm 6 dinh: Bố
Chính, Quảng Bình, Lưu Đồn, Cựu Dinh (hay Chính Dinh cũ), Chính Dinh, Quảng
Nam. Vùng đất mới chia làm 6 dinh: Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên,
Phiên Trấn, Long Hồ ( Vĩnh Long). Ngoài ra, còn có một trấn phụ thuộc là Hà Tiên.
Mỗi dinh quản hạt một phủ, dưới phủ có huyện, tổng hay xã. Riêng dinh Quảng Nam
có 3 phủ: Thăng Hoa, Quảng Ngãi, Quy Nhơn.
Thủ phủ ban đầu đóng ở xã Ái Tử thuộc Cựu Dinh, năm 1570 dời vào xã Trà Bát
(Triệu Phong – Quảng Trị), năm 1626, dời vào xã Phước Yên sau đó dời sang Kim
Long (đều thuộc Thừa Thiên), cuối cùng vào khoảng năm 1687 dời về Phú Xuân
(Huế).
Năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên lên thay Nguyễn Hoàng đã quyết định thải hồi
các quan lại do nhà Lê cử, cải tổ lại bộ máy chính quyền. Dưới các dinh đều có
những ti.
Năm 1646, chúa Phúc Lan bắt đầu mở khoa thi, hai cấp Chính đồ (cấp cao) và
Hoa văn (cấp thấp),về sau nhiều kì thi được mở tiếp. Song sang thế kỉ XVIII, chế độ
mua quan bán tước bắt đầu phát triển. Quan lại không được cấp bổng lộc nhất định
mà chỉ được ban một số dân phu hoặc được phép thu thêm một số tiền gạo ngoài thuế
của dân.
Trang 5
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
Quân đội thời chúa Nguyễn gồm 3 loại: Quân Túc vệ hay Thân quân, quân

chính quy ở các dinh và thổ binh hay tạm binh. Các loại quân đều chia thành cơ, đội,
thuyền.
Các chúa Nguyễn đã bố trí lực lượng quân sự thiết lập các đồn thủ “nơi xung
yếu” để chống giặc, giữ dân, bảo vệ chủ quyền,…Quân đội thời chúa Nguyễn gồm bộ
binh, thủy binh, tượng binh và pháo binh. Đầu thế kỉ XVII, người Đàng Trong học
được cách đúc súng, các thuyền lớn đều có 5 khẩu đại bác. Chúa Nguyễn cũng
thường tổ chức các hội thi bắn súng, huấn luyện thủy quân.
Như vậy, từ sau khi Nguyễn Hoàng từ bỏ đất Bắc đi vào vùng đất Thuận -
Quảng, họ Nguyễn dần dần phát triển xuống phía Nam, xây dựng vùng đất Đàng
Trong thành một lãnh địa riêng có quyền độc lập mặc dầu cho đến trước năm 1744
vẫn giữ tước vị Quốc công, dùng niên hiệu của vua Lê. Nhưng nhân dân luôn luôn
xem vùng đất Thuận – Quảng là Đàng Trong của Đại Việt xưa kia.
B. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN ĐÀNG TRONG
Năm 1558 Nguyễn Hoàng xin vào trấn đất Thuận Hóa và lập nên căn cứ của mình tại
phương Nam, mở rộng biên giới của mình xuống phía nam, tới tận đồng bằng sông Cửu
Long.
B.I. Địa hình
Vùng đất này bao gồm một dải đất dài và hẹp, nằm giữa núi ở phía tây và biển ở phía
đông. Địa hình của vùng đất này có đặc điểm : vùng núi là dãy Trường Sơn phủ đầy rừng
rậm, chạy dài, ở phía Bắc thường hẹp và gồ ghề, càng xuống phía nam càng thấp dần, có
chiều mở rộng tạo thành cao nguyên, thường được gọi là Tây Nguyên hay Cao Nguyên
Trung phần, có diện tích khoảng 20.000 dặm vuông (100 dặm chiều rộng và 200 dặm chiều
dài). Vùng cao nguyên này thường được dùng làm nơi trú ẩn. ngoài ra còn có các dãy núi bị
nhiều con sông nước chảy mạnh và mũi núi cắt ngang làm thành một khu vực nhỏ và hẹp, ít
gắn kết với nhau về mặt địa lý.
Trang 6
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
Địa hình bị chia cắt mạnh, các dãy núi đâm ngang ra biển hình thành nên các vũng
vịnh tạo điều kiện xây dựng các hải cảng. Đây cũng là một trong những điều kiện để Đàng
Trong phát triển về mặt kimh tế đặc biệt là ngoại thương.

Vùng đồng bằng rộng lớn, chỉ tính riêng đồng bằng sông Cửu Long đã gấp hơn hai
lần đồng bằng sông Hồng ở Đàng Ngoài, ngược lại , dải đồng bằng ven biển từ Đà Nẵng –
Quảng Nam trở vào lại nhỏ hẹp và bị chia cắt bởi các đồi núi, vũng vịnh và đầm phá.
Có ba đồng bằng lớn là:
 Quảng Nam : đây là một vùng đồng bằng phì nhiêu, có diện tích khoảng 1.800 cây
số vuông. Nước do sông Thu Bồn và nhiều nhánh của con sông này cung cấp.
 Bình Định: đây là vùng đồng bằng trù phú, có tổng diện tích là 1.550 cây số vuông,
có hai dãy núi khác nhau bao quanh. Hai thung lũng của vùng đất này sử dụng nước
của hai con sông Đà Rằng và Lai Giang.
 Đồng bằng sông Cửu Long: địa hình bề mặt châu thổ với nhiều bồn trũng rộng lớn
trong nội địa và hang loạt các cồn cát duyên hải. Bề mặt đồng bằng sông Cửu Long
còn được phù sa mùa lũ bồi đắp hàng năm. Đồng bằng sông Cửu Long được phủ lên
một mạng lưới sông ngòi và kênh đào dày đặc, chằng chịt. gồm hai hệ thống sông
chính là sông Cửu Long , phần hạ lưu sông chảy vào địa phận Nam Bộ dài 250km và
hệ thống sông Đồng Nai dài 580km.
B.II. Khí Hậu
Đèo Hải Vân nằm giữa Huế và Đà Nẵng tạo thành một làn ranh khí hậu : phía bắc là
vùng khí hậu pha trộn với nhiệt đới và cận nhiệt đới, có mùa đông kéo dài từ 3 đến 4 tháng
rất lạnh. Mùa hè rất nóng, tuy nhiên ở vùng núi khí hậu mát mẻ và mưa nhiều hơn.
Phía Nam: nền nhiệt độ cao quanh năm, có hai mùa rõ rệt, mùa mưa với lượng mưa
lớn có thể gây nên lũ lụt, mùa khô kéo dài và dễ bị hạn hán đe dọa.
B.III. Sông Ngòi
Hệ thống sông ngòi Đàng Trong dày đặc nên ít hạn hán hơn Đàng Ngoài. Mạng lưới
sông ngòi có quan hệ chặt chẽ với địa hình, tại những nơi sườn đông hẹp và dốc các sông
ven biển là những cuồng lưu sông nhỏ. Còn các cao nguyên xếp tầng , dòng sông có những
Trang 7
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
đoạn êm đềm và những đoạn chảy xiết với những thác nước rất hùng vĩ. Sông ngòi có hai
mùa là : Mùa cạn từ tháng 3 đến tháng 8, mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 12.
B.IV. Thổ Nhưỡng

Đất phù sa được bồi đắp bởi các con sông thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp đặc
biệt là trồng lúa nước.
Các loại đất như: đất cát ven biển có độ màu mỡ thấp, khả năng giữ nước và chất dinh
dưỡng đều rất kém do đó không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
 Đất phù sa sông Cửu Long có độ phì nhiêu khá nhưng phải cải tạo đất phèn, đất
mặn…
 Đất đỏ bazan tập trung ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ
Ngoài ra còn có các loại đất khác như: đất xám. đất phù sa cổ, đất phù xa mới…
Tóm lại: điều kiện tự nhiên ở vùng ở vùng đồng bằng và ven biển phía đông thuận lợi cho
sự phát triển nông nghiệp và ngoại thương do có đường bờ biển dài và nhiều cảng nước sâu,
thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán với nước ngoài. Tuy nhiên cũng phải đối phó với thiên
tai( lũ, lụt, bão…), mất mùa thường xuyên
Vùng núi tuy đi lại khó khăn, địa hình hiểm trở , do khai thác theo kiểu làm rẫy, năng
suất không cao nhưng luôn luôn được mùa.
C. Kinh tế-xã hội
C.I. Kinh tế
C.I.1. Nông nghiệp.
Là vùng đất ở xa mới khai phá việc quản lí của nước lỏng lẻo, người nông dân có điều
kiền phát huy hết sức lao động, nâng cao năng suất sản xuất.
Ruộng đất ở Thuận Quảng khá nhỏ hẹp so với Bắc Hà. Ruộng đất công Đàng Trong chia
làm “quân điền trang” và “quân đồn điền” thuộc quyền quản lý của chúa Nguyễn. Chúa
Nguyễn cấp ruộng này cho người thân thích và công thần. Người thân thích nhà chúa được
10 mẫu, chưởng cơ 5 mẫu, cai cơ 4 mẫu, cai đội 3 mẫu.
Trang 8
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
Ruộng đất ở các xã được phân chia theo lệ làng. Sang thế kỷ 18, mỗi xã dân được chia 5-
6 sào ruộng, binh lính thì được khẩu phần gấp 3 lần.
Ruộng đất tư được gọi là bản bức tư điền. Các chúa Nguyễn có chính sách kích thích sự
phát triển ruộng tư: các đầm, đất thổ nhưỡng chiêm trũng, vùng nhiễm mặn, rừng rú đều được
cải tạo thành các làng xã mới. Ruộng đất tư ở vùng Thuận Quảng phân tán, chủ yếu là loại vừa và

nhỏ.
Chính sách cho phép các nhà giàu mộ dân phiêu tán vào nam khai phá đất mới đã tạo điều
kiện hình thành bộ phận tư hữu ruộng đất. Đồng thời, việc kiêm tính ruộng đất cũng xảy ra ở vùng
Nam Bộ mới hình thành, tạo ra các địa chủ lớn, có ruộng đất hàng ngàn mẫu.
Thời kỳ đầu, các chúa Nguyễn chưa nắm được số ruộng đất, thuế khóa còn nhẹ nên đời sống nông
dân khá cao. Từ năm 1669, Nguyễn Phúc Tần bắt đầu ban hành phép thu thuế. Phép thu thuế của
Đàng Trong không phải quá nặng, nhưng các quan lại coi việc thu quá nhiều, hay phiền nhiễu nhân
dân, truy xét rà soát nhiều và tham nhũng khiến nhân dân bị bóc lột nặng nề.
Từ đầu thế kỷ 17, Nam Bộ còn là vùng đất hoang vu. Từ khi khai phá vùng này, các
chúa Nguyễn có chính sách quan tâm đến nông nghiệp. Hàng loạt con sông và kênh được
đào vét ở Thuận Quảng, điển hình như kênh Trung Đan và Mai Xá. Sang thế kỷ 18, những
vùng đất hoang vu ở Nam Bộ đã trở thành ruộng phì nhiêu, ruộng tốt bậc nhất Đại Việt.
Nghề nông Đàng Trong đã tạo ra 26 giống lúa nếp và 23 giống lúa tẻ. Ngoài ra, nông
dân còn trồng khoai, ngô, hạt bo bo (tức ý dĩ), vừng (gọi là mè) và các cây ăn quả gồm
mãng cầu (na), mít, xoài, chuối; các loại rau.
Mỗi vùng đều có đặc sản riêng như bí, dưa bở ở Bà Rịa, khoai lang và ngô ở Biên Hòa,
lạc ở Gia Định, xoài ở Bình Định, hồ tiêu ở Hà Tiên, mía ở Bình Thuận và Quảng Nam,
măng cụt ở Vĩnh Long và Biên Hòa, dâu ở Thuận Hóa, Quảng Nam, bông ở Quảng Ngãi,
quế ở Quy Nhơn, Thăng Hoa, Điện Bàn.
Chế độ thuế khóa
Từ năm 1558, khi mới vào cai quản Thuận-Quảng, Nguyễn Hoàng chưa định ngạch thuế khóa
cho ruộng đất nông nghiệp. Khi đến mùa gặt, ông thường sai người chiếu theo số ruộng đất để thu
thuế.
Năm 1586, Trịnh Tùng nhân danh Lê Thế Tông sai Nguyễn Tạo vào thu thuế Thuận Quảng,
nhưng không đi trực tiếp mà cho các phủ huyện tự làm sổ rồi mang về.
Trang 9
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
Từ năm 1600, Nguyễn Hoàng bắt đầu ly khai họ Trịnh, trực tiếp quản lý việc thu thuế đất này.
Năm 1618, ông sai người đo đạc ruộng công của các xã để thu thuế.
Năm 1669, Nguyễn Phúc Tần theo đề nghị của Vũ Phỉ Thừa, sai Hồ Quảng Đại đi đo đạc

ruộng đất ở các huyện, định ra 3 bậc và chia các hạng ruộng để thu thuế thóc.
Ruộng công, ruộng tư đều được chia làm 3 hạng, đánh thuế ngang nhau:
 Nhất đẳng nộp 40 thăng thóc 8 hợp gạo
 Nhị đẳng nộp 30 thăng thóc 6 hợp gạo
 Tam đẳng nộp 20 thăng thóc 4 hộp gạo
Ruộng mùa thu và đất khô thì không chia hạng, mỗi mẫu nộp 3 tiền.
Ngoài ra, người nông dân cày ruộng công phải nộp các loại: phiến cót, tiền cung đốn, tiền
nộp thóc vào kho, tiền bao mây, tiền trình diện.
Quan điền trang và quan đồn điền thì có lệ thế riêng (khoảng 205 thăng/mẫu)
Ruộng ở vùng cực nam được thu theo thửa hoặc từ 4-10 hộc, hoặc từ 2-4 hộc (mỗi hộc =
70-75 thăng)
Ngoài tô chính, người nông dân còn phải nộp gạo đầu mẫu, tiền phụ trình diện, tiền cót
tre (cứ 1000 thăng thóc nộp 5 tấm cót hay 2 tiền)
Thuế nhân đinh gồm 4 loại : sai dư, cước mễ, thường tân, tiết liệu với mức khá
nặng:
 Tráng hạng: 3 quan 3 tiền
 Dân hạng: 1 quan 9 tiền
 Lão hạng: 2 quan 1 tiền
 Bất cụ: 1 quang 5 tiền 30 đồng.
Các chức sắc, con cháu quan viên đều phải nộp. Ở nhiều nơi, mức thuế còn lên đến 4-5
quan.
Nghĩa vụ binh dịch rất nặng nề. Ngoài ra người dân còn bị bắt làm phu canh gác, quét
dọn cho các quan. Các quan chức địa phương hàng năm phải nộp cho chúa nhiều loại tiền:
lĩnh bằng, nhận ấn, lễ mừng sinh nhật, dỗ tết…để có tiền làm các việc đó, quan lại phải lấy
thêm ở người dân.
Tuy nhiên, do những điều kiện đặc biệt của Đàng Trong, nhân dân nghèo đói đi lưu
vong có thể tìm đến các vùng đất hoang, khai khẩn, lập nghiệp và sống một cuộc đời ít
nhiều tự do, mặc dù không phải lúc nào cũng thuận lợi tốt đẹp. Mâu thuẫn xã hội tạm thời
Trang 10
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong

được giải quyết và đó là lí do làm cho cuộc khủng hoảng xã hội ở Đàng Trong đến muộn
hơn Đàng Ngoài.
Sự phát triển của nông nghiệp ở Đàng Trong, do những điều kiện đặc biệt của nó, đã
có tác dụng duy trì lâu dài sự tồn tại của những quan hệ sản xuất phong kiến và cũng là cơ
sở cho sự yên ổn tương đối của xã hội Đàng Trong, của chính quyền phong kiến ở Đàng
Trong. Những điều kiện đặc biệt về mặt khai thác đất đai cũng tạo ra một cơ sở khá bền
vững về lực lượng địa chủ cho tập đoàn thống trị Nguyễn và đó là một trong những nhân tố
giải thích sự chuyển biến của lịch sử nước ta cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX.
C.I.2. Thủ công nghiệp
a/ Thủ công nghiệp nhà nước
Các chúa Nguyễn lập nhiều xưởng đóng thuyền ở các nơi, đặt Nhà đồ chuyên chế tạo
vũ khí, làm đồ trang sức, đồ gỗ phục vụ chúa, đặt ti Nội pháo tượng lấy dân hai xã Phan Xá
và Hoàng Giang lành nghề đúc súng vào làm (vừa đúc đại bác vừa đúc súng tây).
Các xưởng thủ công nhà nước đã làm được nhiều sản phẩm có chất lượng cao, nhiều
loại vũ khí, thuyền lớn nhưng sử dụng chế độ công tượng, bắt thợ khéo trong nhân dân làm
công tượng suốt đời. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển sáng tạo chung của
thợ thủ công.
b/ Thủ công nghiệp nhân dân:
Hoàn cảnh mới của đất nước đã làm tăng nhu cầu về hàng thủ công. Khắp các làng xã,
đâu đâu cũng hình thành những nghề thủ công, những thợ thủ công chuyên các nghề rèn,
mộc, dệt vải lụa, kéo tơ, tô tượng, làm đá, làm gốm, làm đồ trang sức…
Kéo tơ; dệt lụa: tồn tại hầu hết ở các làng. Giáo sĩ A. đơ Rốt đã nhận xét “Đàng
Trong rất nhiều tơ, nhân dùng cả tơ để làm lưới đánh cá”, lái buôn Bori cũng đồng quan
điểm khi viết “ở Đàng Trong có rất nhiều tơ lụa, đến nỗi những người lao động và hạ lưu
dùng thường xuyên, hằng ngày”. Khối lượng sản xuất lớn, ngay từ đầu thế kỉ XVII, theo
Bori “tơ có một số lượng rất lớn…đến nỗi cung cấp cả cho Nhật Bản, gửi sang cả vương
quốc Lais…”
Trang 11
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
Mặt hàng vải lụa gồm nhiều loại như: lụa trắng, lụa vàng, the, lĩnh, lượt, lụa hoa,

nhiễu, đoạn, vải nhỏ, vải trắng, vải hoa, vải sợi đôi…kĩ thuật dệt, theo như nhận định của Lê
Quý Đôn là “không thua kém gì Quảng Đông”
Về tổ chức sản xuất chủ yếu mang tính chất gia đình. Những hạn chế của nhà nước về
khổ vải, độc quyền thu mua tơ và bán tơ cho thương nhân nước ngoài, thuế má, lao dịch…
đã làm cho nghề dệt không phát triển mạnh lên để chuyển sang một phương thức sản xuất
mới.
Nghề làm đường, vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, nghề làm đường đặt biệt phát triển.
Hàng năm, nhà chúa đã thu 15.922 cân đường phên, 7960 cân đường cát thuế của châu
Xuân Đài (Quảng Nam) 24.438 cân đường phên của xã Đông Phiên (Quảng Nam)…tính
chung toàn miền Nam, nhà chúa thu thuế 48.320 cân 9 lạng đường, 5300 chĩnh mật mía.
Theo Bori, đường Việt Nam thuộc loại “đẹp nhất Ấn Độ”. Trong nghề làm đường đã có sự
phân công: người thì trồng mía, người thì mua mía ép lấy nước, người thì đốt lò đun mía ép
và tinh chế đường.
Nghề rèn sắt: phổ biến ở khắp các làng xã, chế tạo các công cụ cần cho sản xuất hay
trong sử dụng của các gia đình. Sản xuất cũng mang tính chất hộ gia đình. Một số thợ rèn
sắt đã phát triển nghề mình lên thành nghề đúc súng và được nhà nước trưng dụng.
Các nghề thủ công cổ truyền phổ biến khác như dệt chiếu, làm nón, nhuộm, đúc
đồng… cũng tăng cường hoạt động, sản xuất ra hàng loạt mặt hàng khác nhau, phục vụ cuộc
sống. Nhìn chung thủ công nghiệp nhân dân ở các thế kỉ XVII-XVIII vừa mở rộng, vừa phát
triển, đáp ứng ở một mức độ nhất định nhu cầu của nhân dân trong nước và nhu cầu của
thương nhân nước ngoài, đi sâu hơn vào nền kinh tế thị trường có tính quốc tế.
Nghề khai mỏ: ở Đàng Trong ít mỏ nhưng công cuộc khai quặng cũng giữ một vị trí
quan trọng. Ở Phú Bài (Thừa Thiên) có mỏ sắt, dân khai mỏ hàng năm nộp thuế sắt và được
miễn phu dịch. Ở Bố Chính (Quảng Bình) cũng có mỏ sắt, một năm dân nộp thuế 500 khối
sắt. Vàng rải ra ở nhiều nơi từ Thừa Thiên cho đến Bình Định, Phú Yên. Tóm lại, ở các thế
kỉ XVII-XVIII, khai thác hầm mỏ đã trở thành một bộ phận quan trọng của thủ công nghiệp.
Do tính chất của công việc, ở đây đã hình thành một phương thức sản xuất tập trung, thuê
mướn có tính tư nhân.
Trang 12
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong

C.I.3. Thương nghiệp
a/ Nội thương
Cùng sự mở mang đất đai vào phía nam, các chợ cũng hình hành ngày càng nhiều vì
nhu cầu trao đổi hàng hóa. Các chợ lớn ở phủ gồm có:
• Xứ Thuận Hóa có 5 chợ: chợ Dinh, chợ Sãi, chợ Cam Lộ, chợ Phả Lại, chợ Phú
Xuân
• Phủ Thăng Hoa có 6 chợ: chợ Hội An, chợ Khánh Thọ, chợ Chiên Đàn,, chợ Phú
Trạm, chợ Tân An, chợ Khẩu Đáy
• Phủ Quy Nhơn có 5 chợ: chợ Yên Khang, chợ Tiên Yên, chợ Phúc Sơn, chợ Càn
Dương, chợ Phúc An
• Phủ Bình Khang có 4 chợ: chợ Dinh Bình Khang, chợ Tân An, chợ An Dương, chợ
Man Giả
• Phủ Diên Khánh có 3 chợ: chợ Dinh Nha Trang, chợ Vĩnh An, chợ Phú Vinh
• Phủ Gia Định có 5 chợ: chợ Lạch Cát, chợ Sài Gòn, chợ Phú Lâm, chợ Lò Rèn, chợ
Bình An
Đến thế kỷ 18, ở Gia Định còn có thêm chợ Bến Nghé, chợ Cây Đa, chợ Bến Sỏi, chợ
Điều Khiển, chợ Thị Nghè, chợ Tân Kiểng, chợ Bình An, chợ Sài Gòn, chợ Nguyên Thực.
Chúa Nguyễn áp dụng mức thuế khá cao, lập ra 140 tuần ty, có ở hầu hết các phủ,
huyện, miền thượng du và miền biên.
Luồng buôn bán trao đổi
Sự phát triển của kinh tế hàng hóa đã dẫn đến sự hình thành các luồng buôn bán lưu
thông hàng hóa giữa các vùng trong nước.
Gia Định trở thành đầu mối thị trường gạo. Gạo từ đây chuyển ra vùng Thuận Quảng
và các nhu yếu phẩm từ Thuận Quảng được mang vào tiêu thụ ở Nam Bộ.
Dù bị các chúa Trịnh và chúa Nguyễn ngăn cấm, giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài vẫn có
luồng buôn bán trao đổi không chính thức. Gạo từ Gia Định được bán ra Bắc Hà để đổi lấy
lụa, đĩnh, đoạn, quần áo.
Ngoài việc buôn bán bằng xe ngựa, xe bò, gòng gánh, các thương nhân thường sử
dụng thuyền để chở hàng đi các vùng xa. Người miền xuôi thường chở gạo, muối, hải sản,
bát đĩa, ấm chén, vải vóc, tơ lụa…lên bán cho dân miền núi và mua các thứ lâm sản chở về

Trang 13
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
xuôi. Dân buôn thường chở gạo thóc từ Gia Định ra bán cho dân Thuận Quảng và mua các
hàng phương bắc trở vào.
b/ Ngoại thương
Vùng đất Thuận – Quảng, một trung tâm kinh tế quan trọng của miền Trung, có tài
nguyên và nguồn lâm thổ sản phong phú, có những cảng biển nổi tiếng đã từng thu hút
thương khách nước ngoài trong nhiều thế kỷ trước đó. Đối với Nguyễn Hoàng, việc tận
dụng và phát huy những tiềm năng của xứ Thuận – Quảng để nó có khả năng đảm bảo cho
một tương lai chính trị mà thuở ra đi ông đã bắt đầu toan tính là những việc làm tiên quyết.
Nhận thấy những hạn chế của điều kiện tự nhiên đối với cư dân nông nghiệp vùng khô,
Nguyễn Hoàng và sau đó là Nguyễn Phúc Nguyên đã xác lập một chiến lược phát triển mới
với những bước đi và hình thức khác biệt nhằm hòa nhập mạnh mẽ hơn với những bước
chuyển biến chung của khu vực. Cách thức lựa chọn con đường phát triển đó đã đưa Đàng
Trong hội nhập với mô hình phát triển chung của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á lúc bấy
giờ là hướng ra biển. Phát triển ngoại thương đã trở thành một chiến lược kinh tế liên quan
đến sự sống còn của thể chế mà các chúa Nguyễn ra công tạo dựng.
Với chủ trương trọng thương, các chính sách khuyến khích kinh tế đối ngoại của các
chúa Nguyễn đã có tác dụng cổ vũ ngoại thương Đàng Trong. Vào thế kỷ XVII – XVIII,
Đàng Trong đã có quan hệ buôn bán với nhiều quốc gia, trong đó có những quốc gia có nền
kinh tế hàng hóa phát triển thuộc loại bậc nhất của thế giới. Hầu hết các cường quốc kinh tế
lúc bấy giờ, cả ở châu Á lẫn châu Âu đều đến và thiết lập quan hệ giao thương với chính
quyền Đàng Trong.
Về tình hình thế giới:
Trong hơn 40 năm:1592-1635, là thời kỳ Nhật Bản thực hiện chính sách mở cửa, hàng
trăm thương thuyền được Mạc phủ cấp “ châu ấn” (Shuin sen) để xuất bến buôn bán với
nước ngoài góp phần tạo nên một hiện tượng thương mại sôi động ở các nước Đông Nam Á
trong đó có Hội An của Đàng Trong.
Về phía Trung Quốc, sau hơn hai thế kỷ thực hiện chính sách “ hải cấm” để độc quyền
ngoại thương thông qua con đường “thương mại - triều cống” nhằm nâng cao vị thế chính

Trang 14
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
trị đối với các nước trong khu vực không những đã không mang lại nguồn lợi kinh tế đáng
kể mà nhà nước không kiểm soát được thị trường vì nạn buôn lậu quốc tế và nạn cướp biển
hoành hành khắp nơi. Do vậy, nên đến năm 1567, nhà Minh buộc phải tháo gỡ bằng cách
cấp giấy phép cho các thương thuyền đến các vùng biển Đông Nam Á để buôn bán. Đến
năm 1592 có 110 thuyền được cấp Wenyin, mở ra một triển vọng trong việc buôn bán với
Đàng Trong.
Từ sau năm 1644, khi nhà Mãn Thanh đã thắng nhà Minh thực hiện một chính sách
thống trị và kỳ thị người Hán trên lãnh thổ Trung Quốc nên rất nhiều di thần nhà Minh và
doanh nhân Trung Quốc đã xin nhập cư ở các nước Đông Nam Á trong đó Đàng Trong.
Thế kỷ XV - XVII, các nước phương Tây bước vào thời kỳ tích lũy nguyên thủy tư
bản, những cuộc phát kiến địa lý đã mở ra một cuộc “cách mạng thương mại” thực sự ở
châu Âu và đưa đến việc thiết lập mạng lưới giao thông mậu dịch hàng hải xuyên đại dương
nối liền châu Âu với phương Đông.
Mạng lưới giao thông mậu dịch hàng hải xuyên đại dương được hình thành đã thúc
đẩy mạnh mẽ các hoạt động kiếm lời của thương nhân nhiều quốc gia Tây Âu có nền kinh tế
công thương nghiệp phát triển như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp tìm đến nhiều vùng
đất ở phương Đông để thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Sự tham gia đồng thời
của nhiều nước phương Tây vào thị trường khu vực đã làm cho hoạt động thương mại của
các nước trong khu vực đổi sắc.
Ở Đông Nam Á, nhiều nước đã tiến hành mở cửa giao thương với các nước phương
Tây như Siam, Indonesia và bán đảo Malacca là cơ hội để cho Đàng Trong tham gia vào
hoạt động thương mại quốc tế. Trong thời gian đầu, khi Đàng Ngoài thực thi chính sách
đóng cửa trong quan hệ với các nước phương Tây thì Đàng Trong lại thực thi chính sách
ngoại thương cởi mở. Trong lĩnh vực đối nội, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong tạo điều kiện
cho thương nghiệp phát triển và có chính sách bảo hộ đối với một số mặt hàng do chính
người Đàng Trong sản xuất. Trong lĩnh vực đối ngoại, các chúa Nguyễn không những
khuyến khích thương nhân nước ngoài đến buôn bán mà còn ban hành nhiều chính sách ưu
đãi đối với các thương nhân phương Tây. Chính nhờ chính sách ngoại thương thông thoáng

của các chúa Nguyễn mà việc buôn bán Đàng Trong ngày càng phát triển và hình thành nên
những thương cảng nổi tiếng, trong đó tiêu biểu là thương cảng Hội An.
Trang 15
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
Các đối tác phương Đông
1. Trung Quốc
Khi nhà Thanh diệt nhà Minh (1661), nhiều người Hoa không chịu quy phục người
Mãn đã vượt biển chạy vào Đàng Trong làm nghề buôn bán.
Các lái buôn Trung Quốc đi đường biển thường xuất phát từ Triều Châu, Quảng Châu,
Thiều Châu, Phúc Kiến. Các thuyền buôn vào cửa Eo hay cửa Đại Chiêm để lên phố Thanh
Hà hoặc Hội An. Các thương nhân người Hoa có sự hỗ trợ của những người Hoa sinh sống
tại Đại Việt, hơn nữa lại được sự ưu đãi hơn của các chúa Nguyễn so với người phương
Tây. Do đó họ là những người lũng đoạn thị trường các đô thị như Phiên Trấn, Hội An, Hà
Tiên, Gia Định. Ngoài ra, họ còn đóng vai trò làm môi giới, phiên dịch giữa người Việt và
người phương Tây.
Cùng với thương nhân Nhật Bản, thương nhân Trung Quốc cũng có mặt khá sớm ở đất Đàng
Trong. Từ rất lâu, Trung Quốc đã là một bạn hàng gần gũi của Đại Việt. Tuy nhiên, so với các triều
đại trước đó, việc người Hoa đến buôn bán trên đất Đại Việt vào thế kỷ XVII – XVIII phát triển cao
hơn nhiều với số lượng tàu thuyền và khối lượng hàng hóa lớn mà hàng năm họ mang tới Phố Hiến
ở Đàng Ngoài cũng như Hội An ở Đàng Trong. Sự xuất hiện phố người Hoa bên cạnh phố người
Nhật tại Hội An nói lên sự phát triển quan hệ giao thương giữa hai nước. Khác với người Nhật,
người Hoa từ Trung Quốc được phép đến buôn bán với Đàng Trong không chỉ trong buổi đầu nền
thống trị của chúa Nguyễn mà còn kéo dài suốt thời kỳ sau đó. Hoạt động ngoại thương giữa Đàng
Trong với Trung Quốc có ý nghĩa lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển nền thương mại ở vùng đất
mới mẻ này, nhất là nửa sau thế kỷ XVII và cả thế kỷ XVIII, khi chính phủ Nhật đã thực hiện lệnh
tỏa quốc (1636) làm cho hoạt động của Châu ấn thuyền giảm dần vai trò của nó tại Hội An.
Li Tana cho biết, từ năm 1647 đến năm 1720, số ghe thuyền Trung Hoa từ các nước Đông
Nam á tới Nhật Bản như sau: Đàng Ngoài: 63 chiếc, Đàng Trong: 203 chiếc, Campuchia:
109 chiếc, Xiêm: 138 chiếc, Patani: 49 chiếc, Malacca: 8 chiếc, Jakacta: 90 chiếc, Bantam:
3chiếc. (Dẫn theo Xứ Đàng Trong – Lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18

(Nguyễn Nghị dịch). Nxb Trẻ, tr101.
2. Nhật Bản
Trang 16
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
Các thương nhân Nhật không vào được thị trường Trung Quốc vì chính sách cấm
thông thương của nhà Minh đã chuyển từ thị trường Trung Quốc sang thị trường Đại Việt.
Một thời gian sau, ngay cả khi Nhật Hoàng có lệnh cấm thuyền Nhật ra buôn bán ở nước
ngoài, vẫn có tàu Nhật đến giao dịch ở Hội An
Hàng hóa người Nhật mang đến là đồng, lưu huỳnh, vũ khí, vải bông, giấy, yên ngựa;
họ mua về tơ, vải thô, lụa, long não, lô hội, trầm hương, da cá mập, hồ tiêu, song, mây.
Trong lịch sử th ương mại Đại Việt, chưa bao giờ quan hệ buôn bán với Nhật Bản phát triển
thịnh đạt như bốn thập kỷ đầu của thế kỷ XVII. Mặc dù thời đại Châu ấn thuyền ở Đàng Trong
không kéo dài, song việc buôn bán của người Nhật tại vùng đất này để lại nhiều dấu ấn đậm nét. Số
lượng Châu ấn thuyền hàng năm đến Đàng Trong luôn đứng đầu danh sách các nước có quan hệ
mua bán với Nhật Bản. Phố Nhật ở Hội An ra đời là do nhu cầu của thương mại, nhưng đồng thời
nó cũng là kết quả phát triển của quan hệ thương mại hai nước. Chưa có nơi nào trên đất châu á mà
thương điếm của người Nhật có qui mô và năng lực hoạt động có hiệu quả như thương điếm của họ
đặt tại Hội An. Buôn bán với người Nhật đóng vai trò quan trọng trong nền thương mại Đàng
Trong.
Thành Thế Vỹ, Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX, Nxb Sử học,
1961, tr 9 đã dẫn theo Peri trong cuốn Sơ thảo về sự giao thiệp giữa Nhật Bản và Đông
Dương vào những thế kỷ XVI và XVII, cho biết, trong 13 năm (từ 1604 đến 1616), có 186
thuyền buôn Nhật đã được cấp châu ấn đến buôn bán với các nước châu á. Trong đó, đến
Đàng Ngoài là 11 chiếc, Đàng Trong là 42 chiếc, Champa là 5 chiếc, Campuchia là 25 chiếc,
Xiêm là 37 chiếc, Philippin là 34 chiếc, Nam Trung Quốc là 18 chiếc,các nước khác là 18
chiếc. Chen Ching Ho (Trần Kinh Hòa) cũng cho biết, từ năm 1604 đến 1634, có 162 Châu
ấn thuyền đến Đại Việt và Cao Miên. Trong đó, có 35 chiếc đến Đàng Ngoài, 86 chiếc đến
Đàng Trong,
Các đối tác phương Tây
1. Bồ Đào Nha

Trong số các nước phương Tây, Bồ Đào Nha là nước đầu tiên có mặt ở Đàng Trong.
Theo Booc-Vút (Birdwood), người Bồ Đào Nha tiến hành các hoạt động giao lưu buôn bán
với Đàng Trong vào khoảng năm 1540, thương nhân Bồ Đào Nha từ Macao hoặc Nam
Dương (Indonesia) đến Hội An vào tháng chạp hoặc tháng giêng bán, mua hàng như tơ, lụa,
Trang 17
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
hồ tiêu, gỗ quý, thông qua các đại lý người Hoa hay người Nhật ở Hội An rồi quay thuyền
về các căn cứ trên (Macao, Nam Dương). Điều cần nhận thấy ở đây là để thiết lập quan hệ
buôn bán với các nước châu Á, Bồ Đào Nha đã xây dựng nên hệ thống thương điếm trên
toàn cõi châu Á nhằm tạo ra một mạng lưới thương mại hùng mạnh vào thế kỷ XVI. Tuy
nhiên đối với Việt Nam, Bồ Đào Nha không thiết lập hệ thống thương điếm cho nên mọi
quan hệ giao lưu buôn bán đều thông qua môi giới trung gian để gom hàng hoá hoặc giao
dịch. Điều đáng lưu ý là các thương nhân Bồ Đào Nha không để lại người thường trực ở Hội
An nhưng lại muốn độc quyền buôn bán với Đàng Trong. Để làm việc đó, các thương nhân
Bồ Đào Nha tìm mọi cách để lấy lòng chúa Nguyễn, gửi tặng các đồ vật, và thường xuyên
cạnh tranh với Hà Lan, thậm chí họ còn đề nghị chúa Nguyễn không nên buôn bán với
người Hà Lan, tuy nhiên chúa Nguyễn không đồng ý mà vẫn thiết lập buôn bán với người
Hà Lan. Trước tình hình như vậy, Bồ Đào Nha càng hướng sự quan tâm đến các hoạt động
giao lưu buôn bán với Đàng Trong. Từ năm 1640 trở đi, quan hệ buôn bán giữa Bồ Đào Nha
với Nhật Bản ngày càng giảm, trong khi đó quan hệ buôn bán với Đàng Trong lại được tăng
cường. Những sản vật mà các thương nhân mua của Đàng Trong là tơ vàng, một số trầm
hương, kỳ nam và một ít benzoin. Đổi lại, các thương nhân Bồ Đào Nha mang súng ống,
diêm tiêu, kẽm, đồng có thợ kỹ thuật đi cùng để bán lại cho Đàng Trong. Người Bồ Đào
Nha đã dạy cho chúa Nguyễn kỹ thuật đúc súng nên được các chúa Nguyễn sủng ái và nể
trọng. Sở dĩ như vậy là vì, thời kỳ này xảy ra cuộc chiến tranh giữa Đàng Trong và Đàng
Ngoài nên chúa Nguyễn rất cần mua súng đạn từ xưởng đúc súng của Bồ Đào Nha ở Macao.
Điều cần nhận thấy là trong số các thương cảng của Đàng Trong thì Hội An được coi là một
trong những thương cảng sầm uất nhất. Hội An là trung tâm tập trung và phân phối hàng
hoá, là nơi xuất khẩu một số sản phẩm địa phương như kỳ nam và vàng, trong đó kỳ nam là
một thứ dầu quý được các thương nhân Bồ Đào Nha ưa chuộng “Kỳ nam hương màu đen,

có dầu và giá 50 cruzadosmột catty nơi người Bồ Đào Nha, trong khi tại chính nơi sản xuất,
nó trị giá ngang với bạc, bao nhiêu kỳ nam hương là bấy nhiêu bạc”.
Có thể khẳng định rằng Đàng Trong đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thương nhân Bồ
Đào Nha đến giao lưu buôn bán trong đó có cả việc cho phép các thương nhân Bồ Đào Nha
xây dựng những cơ sở kinh doanh ở Hội An, cho phép lập phố, xây kho như các thương
nhân Nhật Bản và Trung Quốc. Song do phương thức buôn bán của Bồ Đào Nha chủ yếu
Trang 18
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
thông qua môi giới trung gian hoặc giao dịch nên Bồ Đào Nha không có cơ sở vững chắc tại
Đàng Trong. Với tư cách là những người phương Tây đầu tiên đến Việt Nam, “người Bồ
Đào Nha đã cậy có một nền hàng hải khỏe vào bậc nhất và hung hăng đến chiếm đất đai để
buôn bán”. Mặc dù các thương nhân Bồ Đào Nha mua đuợc nhiều hàng hoá rẻ của Đàng
Trong nhưng họ đến Đàng Trong không đại diện cho bất kỳ công ty nào và không cư ngụ tại
đó nên vị thế của Bồ Đào Nha ở Đàng Trong về sau bị suy giảm.
2. Hà lan
So với Bồ Đào Nha, thì các thương nhân Hà Lan đến Đàng Trong vào thời điểm muộn
hơn rất nhiều. Năm 1601, người Hà Lan đã đến Đàng Trong, đặt chân đến Hội An để buôn
bán. Nguyên nhân để các thương nhân Hà Lan đặt chân đến Đàng Trong là do phải duy trì
nền thương mại nội Á, trong đó việc thu mua bạc Nhật là yếu tố quyết định để các thương
điếm phương Đông duy trì hoạt động. Dù có nhiều cố gắng nhưng Công ty Đông Ấn Hà
Lan có trụ sở chính đóng tại Batavia ở Indonesia vẫn không cung cấp đủ vốn cho thương
mại châu Á nên đến đầu thế kỷ XVII, hoạt động trao đổi bạc lấy tơ lụa là trọng tâm trong
hoạt động thương mại của các Công ty Đông Ấn châu Âu ở khu vực Viễn Đông. Trước khi
người Hà Lan thâm nhập, buôn bán với Đàng Trong thì người Bồ Đào Nha đã triển khai lấy
lụa Trung Quốc đổi bạc Nhật. Vì vậy, để có được bạc Nhật cho mạng lưới buôn bán nội Á,
Công ty Đông Ấn Hà Lan cần tơ lụa Trung Quốc. Do không thâm nhập được vào thị trường
Trung Quốc, Công ty Đông Ấn Hà Lan buộc phải mua tơ lụa Trung Quốc tại các cảng thị
trung chuyển như Hội An.
Bảng 1. Loại tiền đúc VOC đem đến Đàng Trong (1633-1637)
Trang 19

Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong

Những mặt hàng mà người Hà Lan thường mang đến buôn bán là những mặt hàng
Đàng Trong cần như đại bác, diêm tiêu, lưu huỳnh; dạ châu Âu loại mịn, màu đỏ và màu
sẫm; đồng bạc rénaux như tiền đồng, bạc nén và bạc đúc; hạt tiêu để xuất khẩu sang Trung
Quốc; vải bông Ấn Độ, gỗ đàn hương… Đổi lại, người Hà Lan mua tơ lụa và các mặt hàng
thổ sản như kỳ nam hương, gỗ quý, tơ lụa, xạ hương, vàng mang về châu Âu. Trong thời
gian đầu các thương nhân Hà Lan cũng được các chúa Nguyễn đón tiếp nồng hậu, thậm chí
còn được triều đình ban tặng một số đặc quyền để buôn bán. Năm 1633, theo thư mời của
chúa Sãi, Công ty Đông Ấn Hà Lan đã có ý định đến buôn bán ở Quảng Nam và đến năm
1636, thương điếm của Hà Lan đã được thiết lập ở Hội An phố. Tuy nhiên, quá trình buôn
bán giữa Đàng Trong với Hà Lan chỉ diễn ra trong 4 thập niên đầu của thế kỷ XVII, về sau
do mâu thuẫn với dân bản địa các thương nhân Hà Lan buộc phải rời khỏi Hội An. Sau
nhiều cố gắng của Batavia, nhưng Công ty Đông Ấn Hà Lan vẫn không duy trì được mối
quan hệ thương mại với Đàng Trong.
Những chuyển biến chính trị và thương mại khu vực Đông Nam Á đầu thập niên 30 của thế
kỷ XVII buộc Chính phủ Batavia chuyển hướng trọng tâm quan hệ thương mại từ Đàng
Trong ra Đàng Ngoài.
Trang 20
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
Rõ ràng là, trong hơn một thế kỷ thiết lập quan hệ buôn bán với Bồ Đào Nha và Hà
Lan, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã thực thi chính sách ngoại thương rộng mở và tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho các thương nhân Bồ Đào Nha và Hà Lan đến giao lưu buôn bán.
Trong quá trình diễn ra các hoạt động giao lưu buôn bán giữa Bồ Đào Nha và Hà Lan
thường xảy ra cạnh tranh, thậm chí dẫn đến xung đột, nhưng các chúa Nguyễn ở Đàng
Trong vẫn thực hiện chính sách cân bằng lực lượng, không dành bất cứ sự ưu tiên nào hoặc
cho Bồ Đào Nha hoặc cho Hà Lan. Nhờ vậy, quan hệ giữa Đàng Trong với Bồ Đào Nha và
Hà Lan vẫn giữ được sự hòa hiếu dẫu rằng có những thời điểm xảy ra bất đồng. Ngoài ra,
trong quan hệ với các nước phương Tây, chính quyền Đàng Trong đã biết sử dụng lợi thế
của từng nước để phục vụ cho sự phát triển đất nước. Trong thời kỳ đầu, khi Bồ Đào Nha

đang có ưu thế, chính quyền Đàng Trong đã dựa vào Bồ Đào Nha để buôn bán, đến giai
đoạn sau khi Bồ Đào Nha suy yếu thì Đàng Trong lại hướng sự chú ý của mình về Hà Lan.
Điều cần nhận thấy là trong hoạt động thương mại giữa Bồ Đào Nha với Đàng Trong,
người Bồ Đào Nha không thiết lập các thương điếm như ở Ấn Độ, Macao và một số nước
khác trong khu vực mà chỉ sử dụng thương cảng Hội An như một trạm trung chuyển, thu
mua hàng hóa để buôn bán với Nhật Bản và duy trì thương mại châu Á. Các thương nhân
Bồ Đào Nha đến Hội An mua, bán hàng hóa theo từng thời điểm và không định cư lâu dài,
dẫu rằng chính quyền Đàng Trong cho phép họ được lập phố, xây nhà. Ngoài ra, hoạt động
buôn bán thương mại của Bồ Đào Nha đối với Đàng Trong không theo mô hình quản lý của
các công ty mà chỉ dựa vào sự dũng mãnh và tính chất mạnh mẽ của những người đi biển.
Trong khi đó, các thương nhân của Hà Lan lại chú trọng xây dựng các thương điếm, phát
triển mạng lưới, hệ thống pháp luật và làm việc dưới sự điều hành và quản lý của Công ty ở
chính quốc. Với phương cách đó, mọi hoạt động buôn bán của các thương nhân Hà Lan
không chỉ chịu sự giám sát trực tiếp của giám đốc thương điếm mà còn chịu sự quản lý của
Toàn quyền công ty ở Batavia. Trong vấn đề này hoạt động thương mại của Hà Lan tỏ rõ
tính ưu việt, quy cũ và tổ chức chặt chẽ hơn so với hoạt động thương mại của các thương
nhân Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, hoạt động thương mại của các thương nhân Bồ Đào Nha và
Hà Lan vẫn có điểm chung trong việc coi thương cảng Hội An là trạm trung chuyển phục vụ
cho mục đích kiếm lời nên mặc dù được chính quyền Đàng Trong cho phép và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho các thương nhân Bồ Đào Nha và Hà Lan đến giao lưu buôn bán, nhưng
Trang 21
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
do nhiều hoàn cảnh khác nhau nên đến nửa sau những năm 50 của thế kỷ XVII, hoạt động
thương mại của Đàng Trong với Bồ Đào Nha và Hà Lan chính thức chấm dứt.
3. Anh
Họat động thương mại của người Anh tại Đàng Trong rất ít kết quả. Năm 1613, tàu
của người Anh từ Nhật Bản đến Đàng Trong dâng quốc thư và chào hàng. Nguyễn Phúc
Nguyên mua một số vải, nhưng trên đường về các thương nhân Anh bị quân chúa Nguyễn
tàn sát.
Sau một thời gian khá dài nỗ lực không thành công khi kinh doanh ở Đàng Ngoài,

người Anh bèn chuyển sang thị trường Đàng Trong. Năm 1695, tàu Anh đến xin gặp chúa
Nguyễn nhưng sau 7 tuần chúa Nguyễn mới tiếp. Chúa Nguyễn chưa dứt khoát việc cho
người Anh mở thương điếm, do đó họ chán nản bỏ đi.
Năm 1702, người Anh chiếm đảo Côn Lôn có vị trí chiến lược trên biển làm chỗ kinh
doanh. Chúa Nguyễn phối hợp với những người Malay trên đảo đánh đuổi người Anh đi.
 Tóm lại, hoạt động thương mại giữa Bồ Đào Nha và Hà Lan với Đàng Trong thế kỷ
XVI – XVII được coi là đỉnh cao trong quan hệ giữa Đàng Trong với các nước
phương Tây. Nhờ thiết lập được trạm trung chuyển Hội An mà Bồ Đào Nha và Hà
Lan duy trì được mạng lưới buôn bán thương mại nội Á trong suốt hơn một thế kỷ từ
giữa thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII. Đây là một trong những đóng góp hết sức
quan trọng của chính quyền Đàng Trong trong quan hệ với các nước phương Tây
thời Trung đại. Trên một phương diện khác, hoạt động thương mại của Bồ Đào Nha
và Hà Lan đã góp phần phá vỡ nền kinh tế tự cung tự cấp của Đàng Trong, thúc đẩy
nền kinh tế hàng hóa của Đàng Trong phát triển mạnh mẽ cũng như tạo điều kiện để
Đàng Trong tham gia vào quá trình hội nhập thương mại quốc tế.
C.I.4. Đô thị Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn
Trên đất Đàng Trong đã hình thành các trung tâm thương mại để cho ra đời các đô thị
cổ từ thời vương quốc Phù Nam nay còn để lại dấu tích kiến trúc của nền văn hóa Óc Eo,
xuất hiện từ thế kỷ thứ III ở tỉnh An Giang, mở rộng là cả vùng đất miền Tây Nam Bộ.
Vùng đất Thuận Quảng đã xuất hiện một Lâm Ấp phố từ thế kỷ thứ V- X của vương quốc
Chămpa nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, nay còn để lại nhiều dấu tích qua hệ thống các giếng
Trang 22
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
cổ và nền móng công trình đô thị ở Trung Phường, xã Duy Nghĩa, huyện Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam . Cũng có một cảng Thi Nại hoạt động từ thế kỷ X-XV còn để lại dấu vết công
trình kiến trúc mà chúng tôi đã phát hiện vào năm 1986, nay ở xã Phước Hòa, huyện Tuy
Phước, tỉnh Bình Định.
Vào thời Đại Việt, người phương Tây được xem là đầu tiên thăm dò thị trường nước ta
đã đến vùng đất Quảng vào năm 1523 là Duarte Coelho (Bồ Đào Nha). Trước khi rời xứ,
ông đã tạc trên núi đá Cù Lao Chàm một hình thánh giá lớn, có ghi niên hiệu và chính danh

của minh . Hơn 10 năm sau, một người Bồ Đào Nha khác là Antonio De Faria đến vùng
biển Quảng Nam, ông đã quan sát phố xá và sự nhộn nhịp ghe thuyền ở vùng cảng này. Ông
thấy: Một thành phố có tường bao quanh gần 10.000 nóc nhà. Đó là nơi neo đậu 40 chiếc
thuyền buồm lớn (Jonques) đến hai hay ba cầu tàu và xung quanh có khoảng 2.000 thuyền
buồm với nhiều kích thước khác nhau . Như vậy, khả năng có một thế hệ đô thị thứ hai sau
Lâm Ấp phố của Chămpa và trước phố Hội An thời chúa Nguyễn ở vùng biển Đà Nẵng-
Hội An mà hiện nay chúng ta chỉ nhận biết qua một số tư liệu hiếm hoi do người nước ngoài
ghi chép.
Vào nửa sau thế kỷ thứ XVI, tàu thuyền nước ngoài đến buôn bán tập trung ở vùng
cảng Thuận Hóa, nơi chúa Nguyễn Hoàng chọn làm dinh phủ (nay thuộc tỉnh Quảng Trị);
chỉ riêng năm 1577, có 13 thuyền buôn người Phúc Kiến (Trung Quốc) đến cập bến ở đây
để buôn bán.
Thuyền buôn Nhật Bản vào nửa sau thế kỷ XVI cũng theo cửa Việt lên buôn bán ở
khu vực gần dinh của chúa mà đội thuyền 5 chiếc của Bạch Tần Hiển Quý trong sự kiện
thâm nhập vào vùng biển Thuận Hóa bị chúa Nguyễn ngộ nhận cho quân đánh tan vào năm
1585 là một trường hợp buôn bán không chính thức giữa thương nhân Nhật Bản với chúa
Nguyễn trước thời Mạc phủ mở cửa (1592).
Năm 1613, thương gia người Bồ Đào Nha là Ferdinand Costa đến Dinh Cát để yết
kiến chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi). Cơ hội này, Chúa Sãi nhờ Ferdinand Costa vận
động thương nhân người Bồ đến buôn bán ở dinh của chúa.
Bản đồ của Alexandre De Rhodes vẽ giữa thế kỷ XVII có tên Cua Say (tức Cửa Sãi)
được xác định tọa độ 16040 là cảng chính hồi bấy giờ của xứ Thuận Hóa . Đây là nơi được
Trang 23
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
sử sách triều Nguyễn xác nhận: “Thuyền buôn các nước đến nhiều, trấn trở nên một đô thị
lớn “.
Vào cuối thế kỷ XVI, trên vùng đất Thuận Quảng của chúa Nguyễn đã manh nha ra
đời các đô thị đáp ứng cho nhu cầu lưu trú và buôn bán của thương nhân nhưng đến nay rất
khó xác minh trên thực địa vì đã qua hơn 5 thế kỷ thay đổi dâu bể nên chúng tôi xem đó là
tiền đề để khảo cứu và giới thiệu các phố cảng Hội An, Thanh Hà, Nước Mặn, Hà Tiên của

đất Đàng Trong.
1. Hội An
Vào năm 1980, khi bắt đầu khảo sát Hội An chúng tôi đã chú ý đến các địa danh “sông
Đò”, “bàu Dầu”; với các di vật như mảnh thuyền, cột buồm, neo tàu, tre, gỗ để cừ bờ sông
Chúng tôi xác định bờ sông cũ Hội An từ Cồn Tàu ở xã Cẩm Châu cắt dọc thành phố Hội
An theo đường chính diện qua đường Trần Phú hiện nay đến hai phường Cẩm Phô, Thanh
Hà cách bờ sông hiện thời chừng 100-200 mét. Với chiều dài hơn 4 km đó, ngày xưa là nơi
đỗ của các thuyền buôn mà cảng chính là ở Dương thương Hội quán, nay là Trung Hoa Hội
quán ở trên con đường Trần Phú.
Từ nửa sau thế kỷ XVI, khi nền thương mại phương Tây đang ồ ạt dồn về phương Đông để
tìm kiếm thị trường, lệnh “hải cấm” của nhà Minh cũng bị bãi bỏ (1567), chính sách mở cửa
của Mạc phủ Nhật Bản được ban hành (1592). Cũng trong thời gian này, chúa Nguyễn
Hoàng và trấn thủ dinh Quảng Nam là Nguyễn Phúc Nguyên đã viết nhiều thư kêu gọi
thương nhân nước ngoài đến buôn bán. Hội An, một địa chỉ có thương hiệu hấp dẫn “ Faifo”
trở thành một trung tâm thương mại hàng đầu của nước ta thu hút thương khách nhiều nước
đến buôn bán và lưu trú, đặc biệt là thương nhân Nhật Bản.
Sự thu nhận người Nhật nhập cư ở Hội An của chúa Nguyễn trước hết nhằm giải quyết
nhu cầu bức thiết cho một số thương nhân Nhật theo Thiên chúa giáo bị Nhật hoàng trục
xuất và sau đó đóng cửa không cho họ quay lại chính quốc. Sau khi có chính sách mở cửa
(1592), thương nhân Nhật Bản đến Hội An ngày càng đông. Đồng thời, thương nhân Trung
Quốc thời nhà Minh bỏ lệnh “hải cấm” cũng đến Hội An và có yêu cầu ở lại lâu dài để buôn
bán với thương nhân Nhật Bản.
Một lý do khách quan khác để Hội An trở thành đô thị quốc tế với sự lưu trú lâu dài
của giới thương nhân Nhật Bản và Trung Quốc là các thương vụ tấp nập diễn ra trên đất Hội
Trang 24
Diện mạo kinh tế-xã hội Đàng Trong
An chỉ 6 tháng đầu mỗi năm vào mùa khô. Đến cuối mùa hè các thuyền căng buồm để gió
mùa tây-nam đưa về đất bắc; Hội An trở nên hoang vắng. Trước tình hình đó, phủ chúa phải
có giải pháp nhằm thỏa mãn yêu cầu cho thương nhân Nhật Bản và Trung Quốc cũng chính
lợi ích của chính quyền sở tại là cho phép họ chọn một nơi gần thương cảng Hội An để lập

phố buôn bán và cư trú lâu dài. Từ đó ở Hội An đã hình thành hai khu phố tự trị của người
Nhật và người Hoa.
Cơ ngơi của đô thị Hội An vào năm 1618 được Cristoforo Borri mô tả như sau: “ Vì
cho tiện việc hội chợ, chúa Nguyễn cho phép người Trung Quốc và Nhật Bản làm nhà cửa
theo tỷ lệ người của họ để dựng nên một đô thị. Đô thị này gọi là Faifo và nó khá lớn.
Chúng tôi có thể nói có hai thành phố, một của người Trung Quốc và một của người Nhật.
Họ sống riêng biệt, đặt quan cai trị riêng và theo phong tục, tập quán của mỗi nước “.
Vào thời điểm nói trên ở vùng đất Quảng Nam, Borri cũng cho biết chúa Nguyễn cũng
tiếp nhận nhiều thuyền buôn Bồ Đào Nha và Hà Lan đến buôn bán và dự định cấp cho
người Bồ ở vùng cận cảng Đà Nẵng 3-4 dặm đất để lập phố với những tiện nghi và ưu đãi
như chúa Nguyễn đã dành cho người Nhật và người Hoa.
Trong hội thảo quốc tế về Hội An năm 1990, Ogura Sadao đã cung cấp bản đồ có ghi vị trí
chùa Hà Nam (của người Nhật) vào thế kỷ XVII tại Hội An, được xác định vị trí như sau:
- Phía đông là phố Nhật, nằm ở hạ lưu sông.
- Phía tây là Đường Nhân phố (phố người Hoa), nằm ở thượng lưu sông.
- Phía nam là sông lớn (sông Thu Bồn lúc đó).
- Phía bắc là An Nam phố (tức phố người Việt).
Đó là diện mạo của đô thị Hội An vào đầu thế kỷ XVII.
- Phố Nhật: Phố Nhật ở vị trí làng Hoài Phô, một làng cổ lâu đời nên con sông Thu Bồn
đoạn chảy qua phố Hội An còn gọi là sông Hoài. Địa danh Faifo cũng bắt nguồn từ tên làng,
tên sông đó.
Làng Hoài Phô được ghi tên trong sách Ô châu cận lục (1555) . Vào thế kỷ XVIII,
làng đổi tên là Hoa Phô ; về sau đổi thành làng Sơn Phô. Sơn Phô hiện thuộc xã Cẩm Châu,
thành phố Hội An.
Người Nhật đến mua 20 mẫu đất của làng Hoài Phô và An Mỹ để xây dựng phố xá,
sinh sống; lập một ngôi chùa lấy tên là Tùng Bổn . Trong tấm bia Phổ Đà Sơn Linh Trung
Trang 25

×