Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

16 lv nguyên nhân mất nước của triều nguyễn, và bài học về vấn đề bảo vệ tổ quốc việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.77 KB, 92 trang )

NGUYÊN NHÂN MẤT NƯỚC CỦA TRIỀU
NGUYỄN VÀ BÀI HỌC VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

0

• • • •


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Chọn đề tài “ Nguyên nhân mất nước của triều Nguyễn và bài học với vấn đề
bảo vệ cổ quốc Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ
khoa học chính trị, tác giả xuất phát từ những căn cứ sau đây:
Thứ nhất, chính trị là một lĩnh vực hoạt động của con người. Chính trị phản ánh
một khía cạnh quan trọng của đời sống xã hội. Chính trị được coi là yếu tố tác động
trực tiếp đến sự phát triển của mỗi dân tộc và quyết định vận mệnh chung của các
quốc gia. Chính trị xuất hiện trong những điều kiện xã hội nhất định khi xã hội phân
chia thành giai cấp và biến đổi cùng với sự chuyển biến của những điều kiện đó.
Ngành chính trị học đã xuất hiện khá lâu trên thế giới. Ở nước ta chính trị học
tuy là một ngành khá mới nhưng nó dần chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống xã
hội. Tại Việt Nam, chính trị học chỉ thực sự được coi là một ngành khoa học độc lập
và nghiên cứu chính trị học ngày càng trở thành một nhu cầu cấp thiết từ vài thập niên
trở lại đây. Chính trị học được xác định là một mơn khoa học nghiên cứu về lĩnh vực
chính trị “Chính trị nghiên cứu lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội như là một
chỉnh thể nhằm làm sáng tỏ những quy luật và tính quy luật chung nhất trong các mối
quan hệ qua lại giữa các tổ chức liên quan tới việc hình thành, phát triển của quyền
lực chính trị, quyền lực nhà nước
Là một ngành khoa học mới nên chính trị học nói chung và lịch sử chính trị nói


riêng là một lĩnh vực nghiên cứu cịn khá mới mẻ do đó là nguồn cảm hứng sáng tạo
cho những nghiên cứu khoa học về lịch sử chính trị, đặc biệt là lịch sử chính trị cận
hiện đại.
Thứ hai, trong bức tranh về lịch sử triều Nguyễn chúng ta thấy sự hiện diện rất
rõ những nét đậm nhạt, những gam màu tối sáng khác nhau, thậm chí tồn tại những
mảng đen trắng không rõ ràng. Sự đan xen giữa công và tội, giữa những cái tiến bộ và
1


hạn chế của một vương triều vừa được xem như triều đại có cơng thống nhất đất nước
sau nhiều thập kỷ bị chia cắt và cũng bị coi là một “tội đồ” của lịch sử dân tộc, triều
Nguyễn đã thu hút sự quan tâm khơng ít những học giả, những nhà nghiên cứu trong
và ngoài nước.
Lịch sử được coi là những gì đã qua, thuộc về quá khứ, nhưng những điều được
coi là quá khứ đó lại có một vị trí quan trọng và khơng thể phủ nhận ý nghĩa to lớn đối
với sự phát triển của ngày hôm nay. Tuy nhiên tiếp cận lịch sử từ nhiều giác độ khác
nhau để có thể khai thác nhiều hơn từ những sự kiện, biến cố lịch sử trong một thời kỳ
nhất định là vấn đề mà giới khoa học đang quan tâm và nghiên cứu.
Lựa chọn đề tài “Nguyên nhân mất nước của triều Nguyễn và bài học về vấn đề
bảo vệ tổ quốc Việt Nam hiện nay”, tác giả nhằm góp một cách nhìn mới, đánh giá
xác thực hơn về một giai đoạn lịch sử mang tính “ chuyển mình "của lịch sử chính trị
Việt Nam. Nghiên cứu đề tài này tác giả khơng có tham vọng làm thay đổi định hướng
chung cho cách nhìn nhận, đánh giá lịch sử, suy ngẫm về một vấn đề mang tính thời
đại. Tác giả chỉ hy vọng với kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp thêm một tiếng
nói khách quan, trung thực và công bằng trong nhận định về vương triều Nguyễn.
Thứ ba, nhìn về cội nguồn để hướng tới tương lai, tìm về quá khứ để tìm câu
trả lời cho hiện tại luôn là niềm trăn trở đối với con người đặc biệt là các nhà nghiên
khoa học xã hội. Do đó, nghiên cứu đề tài này tác giả mong muốn góp một phần nhỏ
bé từ nghiên cứu lịch sử rút ra những bài học kinh nghiệm trên cơ sở đó góp phần
hoạch định đường lối chính sách cho tương lai của Việt Nam.

Thứ tư, xuất phát từ nhu cầu bản thân tác giả là một người Việt Nam, làm việc
trong lĩnh vực xã hội, có một niềm đam mê đặc biệt với lĩnh vực chính trị và lịch sử
cùng với nhu cầu để không ngừng nâng cao kiến thức của bản thân, tác giả đã chọn
một vấn đề lịch sử tiếp cận từ góc nhìn chính trị học cho đề tài nghiên cứu của mình.
Thứ năm, xuất phát từ nhu cầu vừa mang tính lâu dài vừa có ý nghĩa cấp bách
về một vấn đề mang tính chiến lược về xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam hiện

2


nay. Giữ vững chủ quyền quốc gia luôn là một vấn đề quan trọng của đất nước, đặc
biệt trước những biến động trong giai đoạn gần đây, thì nguy cơ mất an ninh xung đột
vũ trang trở thành mối hiểm họa trước mắt.
Từ những lý do trên tác giả đã lựa chọn đề tài “Nguyên nhân mất nước của
triều Nguyễn, và bài học về vấn đề bảo vệ tổ quốc Việt Nam hiện nay” làm luận
văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do luận văn đề cập đến lịch sử chính trị, nên những tài liệu sử học và những tài
liệu chính trị học là nguyên liệu quan trọng được sử dụng trong q trình hồn thành
luận văn. Do vây, từ những nguồn sử liệu hay những tác phẩm chính trị học, tác giả đã
sắp xếp thành các nhóm tư liệu chính sau:
Thứ nhất, việc nghiên cứu về triều Nguyễn ở Việt Nam khá phong phú, đặc biệt
là trong một vài thập niên trở lại đây, thu hút rất nhiều độc giả và giới nghiên cứu sử
học trong và ngoài nước tham gia. Đây là một thuận lợi cho tác giả. Tuy nhiên vấn đề
mà luận văn đặt ra là khá phức tạp bởi nguồn tài liệu về triều Nguyễn khá nhiều nhưng
lại rất ít những tài liệu liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu của luận văn. Tác giả
luận văn đã cố gắng khai thác tối đa nguồn tư liệu từ các bộ chính sử Việt Nam, trong
đó đặc biệt là nguồn tư liệu của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, nhóm tài liệu sử học liên
quan trực tiếp đến lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX như Đại cương lịch sử Việt Nam tập
II của Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ của NXB Giáo dục;

Lịch sử Việt Nam 1858 -1896 của Vũ Huy Phúc, Nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc
của Văn Tạo, Ngoại giao Việt Nam với các nước phương tây dưới triều Nguyễn của
Trần Nam Tiến... Các tác phẩm này chủ yếu đề cập đến nội dung như sự xác lập
quyền lực chính trị của nhà Nguyễn đầu thế kỷ XIX, hay tình hình kinh tế văn hóa xã
hội, chính sách ngoại giao dưới triều Nguyễn. Từ những nguồn tư liệu sử học trên đã
phản ánh một khía cạnh của chính trị nhà Nguyễn đầu thế kỷ XIX là cơ sở làm sang tỏ
nguyên nhân để mất nước của vương triều Nguyễn vào tay thực dân Pháp.

3


Vương triều Nguyễn là một trong những triều đại phong kiến Việt Nam có sức
hấp dẫn lớn với các học giả, các nhà nghiên cứu trong và ngồi nước.
Nhìn chung trong những cơng trình nghiên cứu liên quan đến giai đoạn chính
trị nhà Nguyễn dưới giác độ khoa học chính trị thì chưa thực sự nhiều cơng trình khoa
học được cơng bố. Mà chủ yếu chỉ là những cơng trình sử học mang tính sự kiện đánh
giá vai trị trách nhiệm của triều Nguyễn khi đất nước bị xâm lăng. Do đó nhìn tổng
thể những nội dung đã được nghiên cứu liên quan đến đề tài tác giả lựa chọn có thể
khái qt thành một số nội dung sau:
Ngồi các cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố, các cuộc hội thảo về thời kỳ
cầm quyền của nhà Nguyễn và hội thảo quốc gia gần đây nhất là vào tháng 10/2008 tại
Thanh Hóa. Điều này phản ánh một thực tế: xung quanh lịch sử triều Nguyễn còn rất
nhiều vấn đề cần phải bàn luận. Giáo sư Văn Tạo trong tài liệu "Nhà Nguyễn trong
lịch sử dân tộc" đã phác họa tổng quan về quá trình phát sinh, phát triển trong đó có đề
cập đến những mặt mạnh, yếu của nhà Nguyễn. Cũng tổng quan về nhà Nguyễn cịn
có tác phẩm "Triều đại nhà Nguyễn" của Tơn Thất Bình, "Những vấn đề lịch sử triều
Nguyễn" của tạp chí Xưa và Nay. Nhưng nhìn chung thì các nghiên cứu này mang
nặng tính sử học.
Thứ 2, cịn là nhóm tài liệu chính trị học liên quan đến đề tài luận văn của tác
giả như: Nhìn lại quan hệ Pháp - Việt Nam - Trung Quốc qua các bản hiệp ước cuối

thế kỷ XIX của tác giả Vũ Dương Ninh, tập bài giảng chính trị học của Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh...
Dựa trên cơ sở nguồn tư liệu thư tịch, kết hợp với các bài nghiên cứu cùng
đánh giá với các chuyên gia nghiên cứu đi trước, tác giả đã chọn lọc, sắp xếp các
nguồn tư liệu để nghiên cứu cho đề tài luận văn của mình.
Có thể nói, luận văn của tác giả đề cập tới một vấn đề không mới nhưng được
nhìn nhận trên góc độ nghiên cứu của khoa học chính trị . Từ giác độ nghiên cứu của

4


khoa học chính trị giúp người đọc có thể hình dung một cách rõ nét, có căn cứ khoa
học về một giai đoạn đầy “biến động” dân tộc Việt Nam
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Bằng lý luận chính trị học luận văn chỉ ra nguyên nhân mất nước của triều
Nguyễn vào tay thực dân Pháp nửa sau thế kỷ 19, từ đó rút ra những bài học vận dụng
vào thực tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nhà Nguyễn với tư cách là lực lượng nắm
giữ quyền lực nhà nước ở Việt Nam nửa sau thế kỷ 19 đã khơng sử dụng được quyền
lực chính trị của mình một cách tối ưu để bảo vệ nền độc lập của dân tộc trước sự xâm
lăng của lực lượng ngoại bang.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các phương pháp nghiên cứu của khoa học chính trị. Với ý nghĩa là một
luận văn lịch sử chính trị tác giả vận dụng khá triệt để phương pháp lịch sử, phương
pháp logic cùng các phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê...
6. Đóng góp của luận văn
- Từ góc nhìn của khoa học Chính trị, luận văn chỉ ra những nguyên nhân mất

nước của nhà Nguyễn nửa sau thế kỷ 19.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm với vấn đề bảo vệ tổ quốc Việt Nam hiện
nay.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mục lục, phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được kết cấu thành 2 chương, 6 tiết.

5


CHƯƠNG 1
NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI CỦA NHÀ NGUYỄN TRƯỚC
Sự XÂM LƯỢC CỦA THựC DÂN PHÁP
Nước Đại Nam cuối thế kỉ XIX phải đối mặt với nguy cơ bị chủ nghĩa đế quốc
xâm lược. Triều đình nhà Nguyễn, với tư cách là đại biểu giai cấp phong kiến bấy giờ,
lãnh trách nhiệm lịch sử, chèo lái con thuyền dân tộc. Mỗi quyết định và sự ứng xử
của triều đình Huế quyết định vận mệnh của toàn thể quốc gia dân tộc Việt Nam.
Thực tế, cuối thế kỉ XIX, Đại Nam trở thành thuộc địa của Pháp, bắt buộc phải chấp
nhận làm thân phận nô lệ cho ngoại bang. Điều ấy đã khẳng định: nhà Nguyễn đã
khơng làm trịn được trọng trách mà lịch sử trao cho họ, hay phải chăng đó là kết quả
của quá trình từng bước lún sâu vào khủng hoảng nhưng lại bế tắc, không thể tháo gỡ
của Đại Nam. Do đó, nhìn nhận ngun nhân mất nước của triều Nguyễn thực chất là
luận giải các nguyên do trực tiếp và sâu xa dẫn đến sự thất bại của vương triều
Nguyễn khi để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp.
1.1. Nguyên nhân khách quan
1.1.1 Cuộc cạnh tranh quyền lực quốc tế và âm mưu xâm lược Việt Nam của Thực
dân Pháp
Âm mưu xâm lược của tư bản Pháp đối với Việt Nam lâu dài và liên tục, bắt
nguồn từ những năm đầu thế kỉ XVII được cắm mốc với việc kí kết hiệp ước Vecxai
năm 1787, sau đó ngày càng được xúc tiến một cách mạnh mẽ, đặc biệt từ giữa thế kỉ

XIX.
Ở châu Âu, chủ nghĩa tư bản ra đời từ thế kỷ XV, XVI, XVII và ngày càng phát
triển. Các thương nhân Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Hà Lan... được sự giúp
đỡ của nhà nước, đã tổ chức nhiều đoàn thám hiểm. Sau đó, họ thành lập nhiều cơng
ty thương mại, đổ xơ sang các châu Mỹ, Á, Phi hịng vơ vét vàng bạc, hương liệu
(đinh hương, hồ tiêu, chè...) và nhiều loại nguyên liệu khác với giá rẻ, đồng thời bán
6


hàng cơng nghệ phẩm. Chủ trương thơn tính, xâm lược các nước ở ba châu lục này
thường được nêu ra với các chính quyền nhà nước vì
6

giai cấp tư sản châu Âu đang lên rất cần vốn, nguyên liệu rẻ mạt để phát triển kỹ nghệ
chính quốc và cần thị trường tiêu thụ hàng hóa làm ra. Ngồi ra, khi chủ nghĩa tư bản
chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì một trong những đặc điểm quan trọng
nhất của chính sách đối ngoại là các cuộc chiến tranh xâm lược. Vì ln ln bị thúc
đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp tồn
cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ
ở khắp nơi” [22, 601].
Trong q trình đó, hầu hết các nước thuộc châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh
trong hoàn cảnh nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển đều trở thành miếng mồi ngon béo
bở của các nước đế quốc phương tây. Trước khi chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm
lược và thống trị, nền văn hóa xã hội của các nước này phát triển khá cao. Nơi đây đã
xuất hiện sớm những nền văn minh lớn như Ân Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đông
Nam Á. thậm chí sớm hơn cả Phương Tây hàng thiên niên kỉ. Tuy nhiên, sự phát triển
của những quốc gia ở châu Á không giống nhau. Chế độ phong kiến đạt đến trình độ
phát triển cao và dần dần chuyển sang giai đoạn suy yếu. So với các nước ở Phi và Mỹ
Latinh thì ở các nước châu Á trình độ phát triển kinh tế cũng tương đối cao hơn. Ở
thời Trung đại, chế độ phong kiến đạt tới đỉnh cao cực thịnh, rực rỡ cũng khơng thua

kém gì phương Tây, quan hệ sản xuất kinh tế chủ nghĩa cũng đã manh nha nhưng đã
bị chế độ phong kiến kìm hãm, mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa khơng có điều
kiện phát triển như ở phương Tây. Trong khi ở phương Tây chuyển sang giai đoạn
hiện đại hóa, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn phát triển nhanh chóng thì ở
châu Á cịn chìm đắm trong chế độ phong kiến lạc hậu. Trên đà bành trướng sang
phương Đông, đến giữa thế kỷ XIX, các nước đế quốc phương Tây đã thâm nhập sâu
vào các nước châu Á, đặc biệt các nước nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển.
Thất thế tại châu Mĩ, thua Anh tại Ân Độ và châu Phi, người Pháp rơi vào nguy
cơ đánh mất vị thế của mình trên trường quốc tế; trong khi nhu cầu tìm kiếm thị
7


trường trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Nửa đầu thế kỷ XIX, Pháp thực ra khơng có
nhu cầu phát triển kinh tế ở Viễn Đông, động lực thôi thúc khơng mạnh mẽ: thực dân
Pháp đang kiếm tìm những thị trường béo bở hơn như Trung Quốc. Nhưng với tình
hình bị đánh mất ảnh hưởng của từng mảng trên bản đồ thế giới, chính phủ Pháp
khơng thế kén chọn chần chừ được nữa. Chính quyền Pháp có thể tranh thủ vùng Viễn
Đơng giàu có. Tiền đề thấu hiểu văn hóa đã được các giáo sĩ thừa sai làm tốt, cơ hội
làm sáng danh Đức chúa trời được hỗ trợ bởi sự thôi thúc kinh tế sau khi Pháp bị mất
các tỉnh Đơng Nam giàu có vào tay Đức, lại phải bồi thường chiến phí nặng nề. Hơn
nữa, Pháp lại muốn cạnh tranh quyền lực với Anh. Mục đích kinh tế rồi chính trị dồn
dập đưa Pháp tới Đơng Dương. Vậy là tình thế của kẻ đói thức ăn khơng cho phép sự
chậm trễ. Đông Dương được nhắc đến nhiều hơn và An Nam lấp lánh như viên ngọc
qua những bản báo cáo của các giáo sĩ đang có mặt ở An Nam. Trong bối cảnh chung
đó, Việt Nam cũng đứng trước nguy cơ bị xâm lược.
Trong số các nước tư bản phương Tây đang nhịm ngó và lăm le xâm lược
nước ta lúc bấy giờ, Pháp là nước có nhiều “dây mơ rễ má” lâu đời với nhà Nguyễn.
Năm 1802, sau khi đánh bại Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngơi hồng đế thiết lập triều
đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Sau khi lên cầm quyền, Gia Long đã
“trả ơn” cho những người Pháp có cơng giúp ông ta về nhiều mặt trong cuộc chiến

tranh giành quyền lực với Tây Sơn bằng cách giữ lại một vài người làm quan trong
triều như Jean Baptiste Chaigneua, Philippe Vannier.Gia Long đãi ngộ họ rất hậu,
phong cho họ các chức võ quan cao cấp. Để tỏ lòng đặc biệt ưu ái, nhà vua ra lệnh
miễn cho họ lệ mỗi khi vào chầu không phải sụp lạy năm lần như các quan lại người
Việt mà chỉ cần khấu đầu năm vái. Nhà vua còn cấp cho họ mỗi người một đội lính
hầu 50 người.hồn tồn thuộc quyền sai bảo của họ. Tuy nhiên, những người Pháp này
tuy ăn bổng lộc của vua Nguyễn, nhưng họ vẫn không quên “Nước Mẹ” mà họ rắp
tâm tìm cơ hội phục vụ quyền lợi. Nhưng trong giai đoạn này, do cuộc chiến tranh
cách mạng chống lại liên minh phong kiến châu Âu can thiệp và bọn lưu vong kéo dài
trong suốt 20 năm (1792-1815) đã không cho phép nước Pháp hành động trực tiếp, tuy
vậy Pháp vẫn khơng ngừng nhịm ngó Việt Nam. Bonaparte sau khi dựa vào giai cấp

8


tư sản và quân đội để làm cuộc đảo chính thắng lợi và thiết lập nền chuyên chính quân
sự của giai cấp tư sản, mặc dù còn rất bận chiến trang với các nước châu Âu; Bonapart
cũng đã để ý tới Việt Nam. Năm 1857, nước Anh đang dính líu đến cuộc nổi loạn ở
Ân Độ và do đó sẽ không đủ sức mạnh để ngăn cản Pháp giành một bàn đạp tại Đông
Nam Á. Đây là một thời điểm đặc biệt thuận lợi. Và Pháp đã cho tàu chiến tới Đà
Nẵng kiếm cớ gây sự với Việt Nam. Khi được tin báo từ một giáo sĩ về tình hình Việt
Nam năm 1857: “Những người Anh đang dịm ngó Đà Nẵng, họ sẽ đi trước chúng ta
nếu họ biết đề án đánh chiếm của chúng ta” [13, 208], Napôlêông III đã cho thành lập
Uỷ ban nghiên cứu vấn đề Nam Kỳ để “xét lại hiệp ước Vécxây” nhằm đẩy nhanh tiến
trình thực hiện mục tiêu xâm lược Việt Nam.
Trước sức ép đòi hỏi mở cửa giao thương ngày càng lớn của thực dân Pháp thì
các vua đầu thời nhà Nguyễn đều có thái độ thận trọng mang tính thăm dị trước thái
độ và hành động của giới thương nhân và chính quyền Pháp. Vị vua kế tục Gia Long
là Minh Mạng khơng có cảm tình với người Pháp như thái độ chung của người Á
Đơng lúc đó, coi người châu Âu là bọn man di, là quân xâm lược. Ngoài ra ơng cũng

khơng thích cả Cơng giáo của Châu Âu. Sau này khi Tự Đức lên cầm quyền, triều
đình vẫn cai trị theo phong cách nho giáo. Chính quyền trung ương khơng có một
chính sách gì đối phó với âm mưu và hành động của phương Tây, thậm chí cấm đạo
và buôn bán ngày càng ngặt nghèo.
Mặt khác, lúc này trong nội bộ nước Pháp còn xuất hiện trào lưu biện minh cho
hành động xâm lược bành trướng của giới cầm quyền Pháp tại Đông Dương. Việc
chinh phục thuộc địa là một vấn đề sinh tồn của nước Pháp, vì nước Pháp chẳng là gì
bên cạnh những quốc gia khổng lồ như Nga, Đức, Anh, Hoa Kỳ và cả Trung Hoa
nữa.. Sự bành trướng hải ngoại như một phương diện cho phép nước Pháp chiếm lại
địa vị của nó trên chính trường quốc tế. Chính sách thực dân là con đẻ của chính sách
kỹ nghệ, và phải làm xuất hiện nhiều lớp người tiêu thụ mới, nếu không xã hội tân
thời sẽ thất bại; chính sách thực dân cũng cho phép nước Pháp tham dự vào việc phân
chia thế giới và tạo cơ hội truyền bá văn minh Pháp cho các dân tộc da vàng, da đen.

9


Tư tưởng này càng củng cố quyết tâm của thực dân pháp vốn đang khao khát thị
trường và thúc đẩy hành động xâm chiếm bằng được nước ta.
1.1.2 Đất nước khủng hoảng suy yếu về mọi mặt
Tư bản Pháp đã chọn đúng lúc để nổ súng xâm lược Việt Nam khi chế độ
phong kiến Việt Nam đang đi sâu vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Chế độ
phong kiến Việt Nam đã khủng hoảng nặng từ cuối thế kỉ XVIII. Nhưng mầm mống
đầu tiên của chủ nghĩa tư bản trong nước đã xuất hiện và ngày càng mâu thuẫn đối
kháng với quan hệ kinh tế phong kiến bảo thủ lạc hậu bao đời thống trị xã hội Việt
Nam. Nền kinh tế tiểu nông đang cần được phát triển, nhưng bị chế độ chiếm hữu và
bóc lột phong kiến uy hiếp nghiêm trọng. Đây cũng là thời kì bùng nổ các cuộc khởi
nghĩa nông dân trên một quy mô rộng lớn trong phạm vi cả nước, đòi hỏi đất nước
phải sớm thống nhất. Cuộc khởi nghĩa của nông dân Tây Sơn thắng lợi đã mở ra nhiều
triển vọng cho sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa.

Nhưng dựa vào thế lực tư bản Pháp, Nguyễn Ánh đã đánh thắng Tây Sơn. Có thể
khẳng định rằng triều Nguyễn thành lập là sự thắng thế của tập đồn phong kiến tối
phản động trong nước có tư bản nước ngoài ủng hộ đối với triều đại Tây Sơn tương
đối tiến bộ hơn về nhiều mặt.
Bộ máy chính trị triều Nguyễn ngay từ đầu đã mang nặng tính chất quan liêu,
độc đốn . Đó là một nhà nước qn chủ chuyên chế tuyệt đối, tập trung cao độ với
một chế độ chính trị lạc hậu, bảo thủ. Mọi quyền hành đều tập trung trong tay nhà vua.
Vua được coi là "con trời", “thay trời" trị dân; quyền hành nhà vua được coi là “thần
khí” thiêng liêng, vơ hạn. Nhà vua trong thực tế là đại địa chủ lớn nhất trong nước, có
tồn quyền phung phí tài sản quốc gia trên xương máu của nhân dân. Còn quan lại
trong triều và ở các địa phương hầu hết là bất tài; chính trị thì bảo thủ, cầu an, kinh tế
thì trì trệ. Từ vua đến quan đều rất tự cao tự đại với mớ học thuyết Khổng, Mạnh lỗi
thời, xem trật tự phong kiến là bất di bất dịch, mãi đến lúc súng giặc nổ ầm bên tai mới
bàng hoàng tỉnh giấc. Trong bối cảnh các nước tư bản phương Tây đang chuyển sang
nền kinh tế sản xuất tư bản chủ nghĩa theo hướng hiện đại thì nhà Nguyễn lại xây dựng
chế độ của mình trên một nền tảng cũ kỹ, lạc hậu . Điều này là đi ngược với sự phát
10


triển chung của nhân loại và kết quả tất yếu đó là sự thất bại của cái cũ lạc hậu và
thắng thế của cái mới tiến bộ.
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, trải qua nhiều triều đại khác nhau thì triều
Nguyễn bị đánh giá là triều đại khơng được lòng dân. Nhà nước quân chủ trung ương
tập quyền Nguyễn từ nguồn gốc xuất hiện của nó đã khơng có được sự ủng hộ của
nhiều bộ phận dân cư ở các miền Trung, Nam, Bắc. Ngay từ đầu nhà nước đó đã phải
đối phó, trừng trị một bộ phận không nhỏ dưới con mắt của các vua Nguyễn là “ dân
nghịch”, “đất nghịch”. Mọi hoạt động của giai cấp phong kiến trong giai đoạn lịch sử
đau thương này được quy định bởi bản chất bảo thủ lâu đời của chế độ phong kiến. Từ
cơ sở đó, hàng loạt những chính sách sai lầm ra đời làm cho đất nước bị suy yếu về
mọi mặt.

Do trải qua hàng thế kỷ đất nước bị chia cắt lâu dài, chiến tranh nổ ra liên miên
làm cho nền kinh tế trở nên tiêu điều, kiệt quệ.
Đối với đất nước lấy gạo làm nền sống như Việt Nam, sản xuất nông nghiệp bị
ảnh hưởng đồng nghĩa với mâu thuẫn xã hội lên cao, xã hội bất ổn : điềm báo của
chiến tranh và đổ vỡ. Trên cương vị những người cai quản quốc gia, chắc chắn triều
đình nhà Nguyễn cũng thấu hiểu điều này. Có lẽ chính sự thấu hiểu này đã thơi thúc
các vua Nguyễn tìm cách phát triển nơng nghiệp, khơng chỉ nhằm giải quyết lương
thực, mà cao hơn thế, giải quyết bất ổn xã hội.
Nam Kì cho đến thế kỉ XIX thực sự là vựa lúa của Việt Nam: người nông dân
“làm chơi” nhưng “ăn thật”- vùng đồng bằng Nam bộ quả thức là món quà thiên nhiên
ban tặng cho một xứ sở nơng nghiệp. Tiếc rằng điều đó khơng có nghĩa rằng vấn đề
lương thực được giải quyết.
Nếu trong giai đoạn đó, có vùng nào khơng bị thiếu đói hay xiêu tán, có lẽ vùng
đó khơng ở Bắc hà lẫn miền Trung. Lương thực thiếu trở thành yếu tố kích thích xã
hội rối loạn: nơng dân đói bỏ, đi xiêu tán, một bộ phận trở thành giặc cướp. Giặc cướp
và khởi nghĩa khơng chỉ “giúp” triều đình và nhân dân tăng cường đối đầu, mà còn
11


khiến nông dân không thể yên ổn làm ăn. Hậu quả rõ nhất là một chuỗi luẩn quẩn:
nông nghiệp sút kém, dẫn đến nổi loạn, nổi loạn bắt triêu đình đàn áp, chi phí cho
qn sự vì thế đè nặng lên chính lưng người nơng dân và thuế mà họ phải đóng- thuế
cao sẽ lại quay trở lại làm tổn thương nền nông nghiệp.
Từ việc lập sổ địa bạ đến những chính sách khai hoang, doanh điền, qn điền.,
kì vọng của thượng tầng xã hội được đáp trả lịch thiệp bằng những nạn đói kế tiếp
nhau, đi kèm với khởi nghĩa và nổi loạn. Tự Đức nhận thức được món quà nặng nề ấy,
nhưng ngài cũng bất lực, vận mệnh dân tộc thì phó mặc cho ngài.
Nơng nghiệp sa sút không cho phép tiểu thủ công nghiệp phát triển. Nền sản
xuất bất an thì thương nghiệp càng tồi tệ hơn. Tài chính đổ cho những chính sách khai
hoang và lập điền tuy có đạt được những thành tựu nhất định nhưng vẫn chẳng thấm

vào đâu.
Vậy là nông nghiệp Việt Nam thế kỉ XIX khơng có sự phát triển và khơng tạo
được động lực phát triển cho toàn thể nền kinh tế, cũng là nguyên nhân của nhiều bất
ổn xã hội: triều đình loay hoay đàn áp khởi nghĩa và phát triển nơng nghiệp, cịn nơng
dân thì tiếp tục quẫn chí xiêu tán, bỏ ruộng, nổi dậy.
Tất cả cho phép ta nhận định rằng: nơng nghiệp trở thành sợi dây trói chặt tồn
bộ nền kinh tế, khơng cho và kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế , đồng thời hạn
chế khả năng cải cách . Dĩ nhiên nông nghiệp phát triển đâu phải là tiền đề duy nhất
cho cải cách! Nhưng sự yếu kém của nó trong một nước dùng nó để tồn tại hơn nghìn
năm nay, lại khơng tạo điều kiện để cải cách có thể tiến hành: khơng có tài chính,
khơng có lương thực ( mầm mống tư bản chủ nghĩa chớm xuất hiện ở Việt Nam vào
thế kỉ 17, 18 cũng xuất phát từ sự phát triển của sản xuất nơng nghiệp, địi hỏi nhu cầu
hàng hóa ngồi nơng nghiệp được đưa vào thị trường). Vấn đề nơng nghiệp nhức nhối,
bằng cách đó nó làm lu mờ những giải pháp khắc phục nằm ngồi nơng nghiệp.
Thương nghiệp nằm trong tay người Hoa, thuốc phiện được đưa vào ào ạt và gạo bị
đưa đi góp phần đẩy nông nghiệp vào đường hẻm.

12


Khác với quan điểm coi chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã đến lúc suy tàn, tác
giả lại coi đó là chưa phát triển đến độ chín muồi của nó, để đi đến suy tàn. Bởi vì một
chế độ phong kiến khi phát triển đến cực điểm thì trong lịng nó đã xuất hiện những
mầm mống hình thái kinh tế xã hội có khả năng phá vỡ nó là mầm mống của chủ
nghĩa tư bản. Nhưng ở Việt Nam chưa bao giờ có hình thái kinh tế xã hội phong kiến
điển hình như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác nói về phong kiến ở phương tây
mà đó là sự bảo trì lâu dài tàn dư của phương thức sản xuất châu Á lại làm cho nó tồn
tại lâu dài ở mức trì trệ khơng phát triển, dưới hình thức một nền chun chính phương
Đơng, khơng hẳn là phong kiến, cũng chưa lên được tư bản chủ nghĩa.
Trước tình hình bi thảm đó, để xoa dịu và ngăn ngừa dân chúng nổi dậy chống

lại, phong kiến triều Nguyễn đã có một số biện pháp. Minh Mạng ra lệnh cho Nguyễn
Công Trứ chiêu dân tiến hành khai hoang miền ven biển lập ra hai huyện Tiền Hải
(Thái Bình), Kim Sơn (Ninh Bình) trong hai năm 1828 - 1829; Tự Đức giao cho
Nguyễn Tri Phương lo liệu việc mộ dân lập ấp ở Nam Kì từ năm 1853. Nhiều dân bị
tù tội đã được đưa vào đây khai khẩn. Nhưng tất cả các biện pháp trên đều không
mang lại kết quả đáng kể vì đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Người nông
dân sau một thời gian đổ mồ hôi sôi nước mắt lại thấy ruộng đất do tay mình làm ra bị
bọn phong kiến cướp đoạt. Vì vậy, nạn nơng dân lưu tán, nhất là đến đời Tự Đức khi
tư bản Pháp sắp nổ súng khởi hấn, lại càng trở nên phổ biến khắp cả nước và ngày
càng trầm trọng hơn lên. Đó là một trong những nét tiêu biểu của thời kì khủng hoảng
suy vong của chế độ phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn.
Trong khi nơng nghiệp đang lâm vào tình trạng tiêu điều xơ xác như vậy thì
cơng nghiệp nằm trong tay bọn phong kiến triều Nguyễn cũng ngày một bế tắc. Chính
sách của triều Nguyễn về mặt công nghiệp vô cùng phản động. Phong kiến nhà
Nguyễn nắm trong tay những ngành kinh doanh lớn. Các cơng xưởng lớn đúc súng,
đóng tàu, đúc tiền; các xưởng nhỏ chuyên chế tạo đồ dùng riêng cho nhà vua, vàng
bạc, gấm vóc; các cơng trường xây dựng cung điện, thành quách, lăng tẩm đều do bộ
Công của triều đình quản lí. Chế độ làm việc trong các công xưởng này là chế độ
"công tượng" mang nặng tính chất cưỡng bức lao động. Những người thợ giỏi ở các

13


địa phương bị bắt về đây được biên chế thành đội ngũ, làm việc tập trung với một số
lương rất thấp, lại chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt của quan lại nên rất bất mãn, không
phấn khởi với công việc.
Triều đình phong kiến cịn giữ độc quyền ngành khai mỏ . Số mỏ được khai
thác từ 1802 đến 1858 là 139 mỏ, bao gồm đủ các loại. Nhưng phần lớn các mỏ đều do
bọn quan lại triều đình đứng ra khai thác, chỉ một số ít là do chủ mỏ Hoa kiều hay Việt
Nam chủ trì. Phương thức sản xuất trong cả ba loại mỏ căn bản vẫn là lối sản xuất thủ

cơng cá thể với những hình thức bóc lột phong kiến mang nặng tính chất nơ dịch.
Năng suất trong các cơng trường mỏ vì vậy thường thấp. Đã thế, triều Nguyễn còn
đánh thuế sản vật rất nặng vào các mỏ do Hoa kiều hay người Việt đứng ra khai thác.
Nhiều phép tắc vơ lí làm hạn chế sự phát triển của ngành khai mỏ, như quy định
những khu vực cấm khai mỏ, giữ độc quyền thu mua các kim loại khai thác được theo
giá quy định.
Các nghề thủ cơng trong nhân dân khơng có điều kiện phát triển. Tại các cơng
xưởng thủ cơng, mặc dù khơng có một chế độ phường hội chặt chẽ theo kiểu các nước
phong kiến châu Âu, nhưng các mối quan hệ phức tạp giữa chủ và thợ, giữa thợ cả và
thợ bạn, giữa các làng chuyên nghiệp với nhau và rất nhiều luật lệ cấm đốn của triều
đình đã làm cho sáng kiến, tài năng của người thợ ngày càng bị bóp nghẹt. Các nghề
thủ cơng nhỏ và nghề phụ gia đình ở nơng thơn cịn bị đình đốn vì nơng dân đói khổ, li
tán. Thủ công nghiệp hầu như bị tê liệt. Sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp khiến ta
phải suy ngẫm. Sách “Lịch sử Việt Nam đại cương” cuốn I nhận định: Mặc dù thủ
cơng nghiệp nói chung phát triển nhưng phương thức sản xuất hầu như không phát
triển.”. Trong khi vào thế kỉ XVIII, thủ công nghiệp phát triển bởi nông nghiệp đảm
bảo nhu cầu các mặt hàng tăng lên, thì hiện tượng nơng nghiệp đi xuống kèm theo sự
phát triển tiểu thủ công nghiệp thật đáng ngờ. Theo các nhà sử học, nỗ lực tìm giải
pháp ngồi nơng nghiệp tuy có thể đã xuất hiện trong nhân dân nhưng nó khơng được
tạo cơ hội phát huy. Thực tế đơn giản rằng: nhà nước chắc chắn không để tình trạng
nơng nghiệp sa sút cịn những ngành kinh tế khác phát triển- quyết định như thế liều
lĩnh và đầy nguy cơ. Nhà nước đã nắm ngoại thương, còn trong nước khơng có nhu

14


cầu, tiểu thủ cơng nghiệp tuy đã nhích lên trong giai đoạn nào đó hẳn tiếp tục yếu kém
lập tức sau đó: sự tồn tại đảm bảo tính lâu bền khi và chỉ khi cơ sở của nó vững chắccơ sở thị trường khơng u cầu chắc chắn khơng có lí do thúc đây tiểu thủ cơng
nghiệp.
Thương nghiệp dưới triều Nguyễn sút kém một cách rõ rệt. Chính sách "trọng

nơng ức thương" của triều đình đã kìm hãm thương nghiệp. Về nội thương, một mặt
chúng nắm độc quyền buôn bán ngun liệu cơng nghiệp (như đồng, thiếc, chì, kẽm,
nhất là lưu hồng, diêm tiêu), vì sợ nhân dân chế vũ khí chống lại. Mặt khác, chúng
đặt ra nhiều luật lệ chặt chẽ để kiềm chế, như nắm độc quyền buôn bán cả đối với một
số lâm sản quý giá cướp đoạt của đồng bào miền núi (quế, gạc hươu, sáp ong, ngà voi,
gỗ quý); đánh thuế nặng vào các mặt hàng quan trọng đến đời sống nhân dân như lúa
gạo để hạn chế việc chuyên chở trao đổi giữa các vùng trong nước; cấm nhân dân họp
chợ. Việc giao lưu giữa các địa phương vì vậy gặp rất nhiều trở ngại, thị trường trong
nước không tập trung và thống nhất. Tóm lại với cơ sở hàng hóa nghèo nàn, khơng thể
trơng chờ ở thương nghiệp bất kì một lối thốt nào cho nền kinh tế. Bằng một nỗ lực
gượng gạo, nhà Nguyễn tìm cách kiểm sốt phần nào thương nghiệp, nhưng chỉ cịn
có thể làm chủ sự bn bán riêng những ngành sản xuất mà nó độc quyền hay chủ
động khống chế. Trót để người Hoa thao túng bn bán, triều đình đành gỡ gạc bằng
cách đóng cửa khơng cho thương nhân ngoại quốc vào buôn bán (ngoại trừ người
Hoa- triều đình nhà Nguyễn dẫu sao cũng tơn sùng nhà Thanh!). Một phần lí do chính
vì muốn làm chủ và khẳng định vị thế của mình trong kinh tế, mặt khác e ngại kịch
bản tái diễn như với người Hoa (khi người ta yếu, người ta khơng chỉ ích kỉ mà còn
hay sợ sệt). Thương nghiệp, như vậy, từ chỗ kém phát triển đến chỗ bị kiềm chế, dẫn
đến ảnh hưởng không tốt lành không chỉ đối với nền kinh tế Đại Việt, mà còn cho
tương lai của dân tộc.
Ngoại thương cũng bị triều đình nắm độc quyền. Thực hiện chính sách bế quan
tỏa cảng, triều đình chỉ mở nhỏ giọt một số cửa biển cho tàu nước ngoài lui tới bn
bán. Chỉ được nhập vào những hàng hóa triều đình cần (như sắt, chì, gang, lưu hồng
để làm súng đạn); cịn xuất cảng thì cấm tàu thuyền nước ngồi không được mua tơ
15


lụa, thóc gạo trong nhân dân. Tàu bn nước ngồi tới bn bán cịn bị khám xét rất kĩ
để đánh thuế và định giá hàng, lại cịn có thể bị trưng dụng đi phục vụ cho các đợt
công tác đột xuất của triều đình (như chở gạo cho qn lính, hay chuyên chở nguyên

vật liệu xây dựng lăng tẩm, cung điện) .
Chính sách bế quan tỏa cảng của triều đình đã làm cho việc bn bán với nước ngồi
sa sút rõ rệt. Thuế cửa quan, trước có 60 sở, đến năm 1851 chỉ còn 21 sở; một số cảng
trước kia buôn bán rất phồn thịnh, nay cũng trở nên tiêu điều vắng vẻ. Quan hệ thương
nghiệp ở Việt Nam trong thế kỉ XIX chủ yếu là quan hệ giữa Trung Hoa và Đại Việt.
Đây không đơn giản là kết quả do chính sách của nhà Nguyễn. Tình hình này thực ra
bị chi phối bởi cơ sở lịch sử trước đó- người Hoa có vị trí đặc biệt đối với người Việt :
họ khơng khác gì người Việt về bề ngồi lắm (đặc biệt người Hoa ở vùng Lưỡng
Quảng hoặc đã sinh sống ở Việt Nam lâu đời), lại có kinh nghiệm buôn bán trong
cộng đồng người Việt. Nhận xét cay đắng của Rheinart (khi các cửa cảng đã được mở
để người Pháp vào,1881) rất đúng với tình hình lúc ấy : “Người Hoa có vị trí đặc biệt:
trong nước họ được coi như người An Nam.. .”[23, 5]
Triều đình Huế cấm xuất khẩu gạo, vàng bạc, tơ lụa..., còn triều đình Mãn
Thanh cấm xuất khẩu sắt, thép, chì lưu huỳnh... Nhưng Trung Quốc cần gạo còn Việt
Nam cần sắt, than, chì... Từ nhu cầu đó, triều đình Huế cho phép một cách dè dặt
những tàu buôn Trung Hoa mang hàng đến và mua hàng. Song, thực tế, sự cho phép
một cách hạn hẹp như thế khơng đáp ứng được địi hỏi lớn: tiền đề này mở đường cho
nạn buôn lậu- gần như chính quyển thúc thủ bó tay trước việc thanh tốn nạn bn
lậu. Thuyền bn Trung Hoa cứ thế đến mua gạo, đưa gạo ra khỏi xứ sở đang sắp chết
đói. Nạn bn lậu gạo dẫn đến thiếu hụt gạo cần thiết để lưu thông trong thị trường,
làm giá gạo tăng, góp phần tạo nên bất ổn xã hội.Hậu quả khác của buôn lậu cũng
nguy hại không kém : nha phiến từ Hoa Kiều lan ra xã hội. Những lệnh cấm nha phiến
suốt những năm 1817, 1820, 1824, 1832, 1840, cho thấy sự bất lực của chính quyền,
đồng thời là minh hoạ rõ nét cho hiện trạng xã hội-tệ nạn nha phiến không ngừng lan
tràn.

16


Thương nghiệp tự nó đã kém phát triển, sau khi bị kiềm chế, lại càng hợp sức

với nông nghiệp kéo lùi xã hội Việt Nam.
Các nhà sử học và giới nghiên cứu cho rằng nếu nhà Nguyễn chịu mở cửa cho
phương Tây vào bn bán, thì những mầm mống tư bản đã nảy sinh, tạo tiền đề cho
cải cách về sau. Luận điểm này dĩ nhiên có lí ở chừng mực sự thông thương ấy dựa
trên cơ sở một nền thương nghiệp tương đối phát triển với nền sản xuất đảm bảo. Nếu
khơng, sự mở cửa thơng thương sẽ hóa thành mở cửa cho ngoại quốc thao túng thị
trường, nguy cơ đất nước mất chủ quyền càng tăng hơn lên. Sự yếu kém của nền
thương nghiệp Việt Nam được thể hiện rõ ràng sau khi Pháp buộc Việt Nam phải mở
các cảng và cửa khẩu (Hải Phòng, Quy Nhơn.). Thương nghiệp không tiến triển nhiều,
trao đổi buôn bán không được đẩy mạnh. Tình trạng này xuất phát từ nguyên nhân cơ
bản: người Hoa làm chủ thương nghiệp, mọi sự cạnh tranh về thương nghiệp của
thương nhân các nước khác đều không hiệu quả. Hơn nữa, mặt hàng mà Pháp cần là
hồ tiêu và đường thì lục địa châu Mỹ đã đáp ứng đủ nhu cầu rồi. Riêng về gạo, người
Hoa biết cách liên hệ trực tiếp với người sản xuất để mua gạo, đem bán ở Hương Cảng
- khơng cịn cơ hội cho người Âu Tây chen vào đó.
Vậy là, sau khi mở cửa thơng thương, thương nghiệp vẫn ì ạch tại chỗ, giai tầng
mới khơng có điều kiện nảy sinh: cơ sở xã hội không bị tổn thương và biến đổi, quan
hệ sản xuất mới không xuất hiện, đồng nghĩa rằng nếu cải cách cũng không thể dựa
vào thương nghiệp.
Nhìn một cách tổng thể, thương nghiệp, bởi sự yếu kém của nó, cùng với sự trì
trệ của nơng nghiệp, nằm trọn trong tay người Hoa, buộc chính quyền lựa chọn giải
pháp đóng cửa, ngày càng yếu kém và khơng cịn sinh khí để đứng lên khi có điều
kiện thơng thương. Thương nghiệp,với tình trạng như thế, rốt cuộc trở thành nhân tố
ngăn cản khả năng cải cách, nó chẳng giúp gì cho duy tân về mặt cơ sở.
Kinh tế khó khăn lại là nguyên nhân dẫn đến những rối loạn về xã hội.

17


Dưới triều Nguyễn, tổ chức xã thơn đã hồn tồn trở thành một công cụ của bọn

cường hào địa chủ nơng thơn. Nó trói buộc người nơng dân trong những quan hệ địa
phương hẹp hịi có lợi cho sự bóc lột của nhà nước phong kiến và cản trở sự phát triển
của nền kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế tư hữu của nông dân bị xâm phạm nghiêm
trọng. Ruộng đất phần nhiều tập trung vào tay bọn quan lại, địa chủ. Công điền, công
thổ chỗ nào mầu mỡ béo tốt đều bị bọn cường hào lũng đoạn, còn lại thì bọn hương lí
lại bao chiếm, dân nghèo chỉ được những chỗ xương xẩu mà thơi. Cho nên, nói chung
nơng dân khơng có ruộng cày, đời sống vơ cùng cực khổ. Hiện tượng nơng dân khơng
có ruộng đất cày cấy làm ăn phải bỏ làng đi tha phương cầu thực là nét phổ biến dưới
triều Nguyễn. Chỉ từ năm 1802 đến năm 1806, nông dân trên 870 thôn thuộc mấy trấn
lớn ngoài Bắc xiêu tán đi nơi khác. Đến năm 1826, lại đến 108 xã thôn thuộc mười ba
huyện của trấn Hải Dương xiêu tán, cộng thêm vào đó là tơ thuế rất nặng nề. Đó là
chưa kể tới tình trạng vỡ đê lụt lội, mất mùa đói kém thường xảy ra, hầu như khơng
năm nào khơng có. Đê Văn Giang Ở Hưng Yên vỡ 18 năm liền, biến cả một vùng
đồng bằng phì nhiêu ở Khối Châu thành bãi đất hoang, nhân dân vùng này phải từng
đoàn lang thang kéo nhau đi các nơi xin ăn. Tại các vùng ở Bắc Ninh, Sơn Tây lại có
nạn châu chấu phá hoại mùa màng. Vì vậy, nạn đói xảy ra thường xuyên. Ngay trước
khi tư bản Pháp sắp nổ súng đánh vào Đà Nẵng (1858), một trận đói ghê gớm đã xảy
ra làm cho hàng chục vạn nhân dân các tỉnh Trung Bắc Kì bị chết. Đồng thời, cũng do
sự bất lực của bọn phong kiến thống trị hồi đó, nạn dịch đã hoành hành dữ dội, giết
hại hàng chục vạn người.
Trước tình hình bi thảm đó, để xoa dịu và ngăn ngừa dân chúng nổi dậy chống
lại, phong kiến triều Nguyễn đã có một số biện pháp. Minh Mạng ra lệnh cho Nguyễn
Công Trứ chiêu dân tiến hành khai hoang miền ven biển lập ra hai huyện Tiền Hải
(Thái Bình), Kim Sơn (Ninh Bình) trong hai năm 1828 - 1829; Tự Đức giao cho
Nguyễn Tri Phương lo liệu việc mộ dân lập ấp ở Nam Kì từ năm 1853. Nhiều dân bị
tù tội đã được đưa vào đây khai khẩn. Nhưng tất cả các biện pháp trên đều không
mang lại kết quả đáng kể vì đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Người nông
dân sau một thời gian đổ mồ hôi sôi nước mắt lại thấy ruộng đất do tay mình làm ra bị

18



bọn phong kiến cướp đoạt. Vì vậy, nạn nơng dân lưu tán, nhất là đến đời Tự Đức khi
tư bản Pháp sắp nổ súng khởi hấn, lại càng trở nên phổ biến khắp cả nước và ngày
càng trầm trọng hơn lên.
Triều đình nhà Nguyễn lại sợ dân hơn sợ giặc, coi nhân dân là kẻ thù ảnh
hưởng đến ngai vàng của dịng họ mình. Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nhân dân
khắp 3 miền bắc, trung, nam càng làm cho triều đình Huế trở nên nhạy cảm đặc biệt
với nơng dân. Trước sự phản kháng nhân dân, triều đình ra sức đàn áp khủng bố các
phong trào của quần chúng, huy động những lực lượng quân sự to lớn vào việc dập tắt
các cuộc khởi nghĩa nông dân trong biển máu. Các cuộc hành quân liên miên một mặt
đã làm cho chính lực lượng qn sự của triều đình bị suy yếu dần, mặt khác cũng làm
hủy hoại khả năng kháng chiến lớn lao của dân tộc, càng tạo thêm điều kiện thuận lợi
cho tư bản Pháp thơn tính nước ta. Để biện minh cho thủ đoạn tàn bạo trên, vua Gia
Long đã ban hành bộ luật Gia Long năm 1815. Bộ luật này được soạn ra phỏng theo
bộ luật phản động của phong kiến Mãn Thanh (Trung Quốc), dưới ý niệm trấn áp
nhân dân và giữ vững trật tự phong kiến tuyệt đối. Chính quyền cịn lợi dụng cả văn
học để tuyên truyền cho chế độ thống trị đẫm máu của chúng, như Minh Mạng ra 10
điều Huấn dụ, Tự Đức diễn âm Thập điều diễn ca để truyền bá rộng rãi học thuyết
Nho giáo trên cơ sở đó củng cố ý thức hệ phong kiến đã bị rạn nứt. Đó là một trong
những nét tiêu biểu của thời kì khủng hoảng suy vong của chế độ phong kiến Việt
Nam dưới triều Nguyễn.
Tuy vậy, khác với quan điểm coi chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã đến lúc suy
tàn, tác giả lại coi đó là chưa phát triển đến độ chín muồi của nó, để đi đến suy tàn.
Bởi vì một chế độ phong kiến khi phát triển đến cực điểm thì trong lịng nó đã xuất
hiện những mầm mống hình thái kinh tế xã hội có khả năng phá vỡ nó là mầm mống
của chủ nghĩa tư bản. Nhưng ở Việt Nam chưa bao giờ có hình thái kinh tế xã hội
phong kiến điển hình như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác nói về phong kiến ở
phương tây mà đó là sự bảo trì lâu dài tàn dư của phương thức sản xuất châu Á lại làm
cho nó tồn tại lâu dài ở mức trì trệ khơng phát triển, dưới hình thức một nền chun

chính phương Đông, không hẳn là phong kiến, cũng chưa lên được tư bản chủ nghĩa.
19



×