Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Bước đầu khảo sát khả năng nhân sinh khối và đánh giá hiệu quả phòng trừ nấm bệnh của một số chủng nấm Trichoderma sp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 49 trang )

- 1 -

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, nền nông nghiệp Việt Nam có những bước tiến vượt
bậc. Ngoài việc đáp ứng nhu cầu lương thực – thực phẩm trong nước, sản lượng
nhiều loại nông sản xuất khẩu của Việt Nam được xếp vào hàng đầu thế giới. Tuy
nhiên, chất lượng và hiệu quả của việc sản xuất nông sản hàng hóa ở nước ta còn
nhiều hạn chế so với các nước trong khu vực. Để khắc phục vấn đề này, sản xuất
nông nghiệp của Việt Nam hướng vào sản xuất an toàn và phát triển bềnh vững, tăng
nhanh số lượng và nâng cao chất lượng nông sản. Theo đó, công tác giống cây trồng
và bảo vệ thực vật đóng vai trò quan trọng.
Trong công tác phòng trừ bệnh hại cây trồng hiện nay chủ yếu dựa vào biện pháp
hóa học. Tuy nhiên, việc lạm dụng thuốc hóa học như hiện nay (có trên 400 hoạt chất
nông dược sử dụng ở Việt Nam, Cục Bảo Vệ Thực Vật), làm cho nhiều loài sâu,
bệnh trở nên kháng thuốc, mất cân bằng sinh thái, đặc biệt là gây ô nhiễm môi trường
một cách nghiêm trọng và ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng.
Trước tình hình đó, biện pháp phòng trừ sâu hại bằng sinh học đã được nhiều nhà
khoa học quan tâm và nghiên cứu. Nhiều tác nhân sinh học, đáng chú ý là một số loại
nấm, có thể đối kháng với một số nấm bệnh gây hại cho cây trồng. Đồng thời, không
những ngăn chặn một số bệnh hại trên đồng ruộng, những chế phẩm nấm đối kháng
không ảnh hưởng đến những loài thiên địch bản xứ trong tự nhiên như động vật ăn
thịt, ký sinh và côn trùng có ít. Sự bảo tồn các loài thiên địch tự nhiên này là chìa
khóa vững chắc để phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng một cách an toàn và hiệu quả.
Các kết quả đã đạt được của việc phòng trừ nấm gây bệnh bằng phương pháp sinh
học cho thấy tính hiệu quả của nó, nấm gây bệnh không kháng thuốc, không gây ô
nhiễm môi trường.
Để khắc phục điều này, việc chọn lọc nhân nhanh số lượng, tăng cường sức sống
cho các tác nhân đối kháng và đưa chúng trở lại môi trường tự nhiên là hết sức cần
thiết. Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi đã thực hiện đề tài: “bƣớc đầu khảo sát
khả năng nhân sinh khối và đánh giá hiệu quả phòng trừ nấm bệnh cùa một số
chủng nấm Trichoderma sp.”


- 2 -

PHẦN 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. BỆNH CÂY VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA NẤM GÂY HẠI
CÂY TRỒNG
1.1.1. Giới thiệu về bệnh cây
1.1.1.1. Khái niệm
Bệnh cây là một động thái phức tạp, đặc trưng của một quá trình bệnh lý xảy ra
liên tục ở cây do các nhân tố sinh vật hoặc do các yếu tố môi trường gây ra. Nó dẫn
đến sự phá hủy chức năng sinh lý, cấu tạo, làm giảm sút năng suất, phẩm chất của
cây trồng trong điều kiện ngoại cảnh nhất định.
1.1.1.2. Phân loại
Chia các tác nhân gây bệnh thành 2 nhóm chính:
 Tác nhân phi vi sinh vật là những yếu tố tự nhiên, yếu tố điều kiện ngoại cảnh
bất lợi làm phát sinh quá trình bệnh lý ở cây gọi là bệnh không truyền nhiễm (bệnh
sinh lý).
 Tác nhân vi sinh vật là thể sống bao gồm các loại ký sinh vật nhỏ bé như
virus, vi khuẩn, dịch khuẩn bào, nấm, tuyến trùng và thực vật thượng đẳng ký sinh.
Những sinh vật này gây bệnh, gọi là bệnh truyền nhiễm.
1.1.1.3. Các giai đoạn phát triển bệnh
Trong những bệnh truyền nhiễm, hàng loạt các sự kiện rõ hay không rõ rệt xảy ra
dẫn đến sự tồn tại và phát triển của bệnh và mầm bệnh. Chuỗi các sự kiện này gọi là
chu kỳ bệnh. Các sự kiện chính trong chu kỳ bệnh gồm:
 Giai đoạn gây nhiễm: là cách ký sinh tiếp cận ký chủ. Lượng ký sinh tiếp xúc
và gây bệnh trên ký chủ là nguồn bệnh.
 Giai đoạn xâm nhập: các bào tử và trứng, hạt cần phải phát triển thành cơ thể
sinh dưỡng mới gây bệnh. Khi bào tử nảy mầm chúng sinh ra ống mầm, là phần đầu
tiên của sợi nấm, để xâm nhập vào ký chủ. Các đặc tính nảy mầm tùy thuộc vào các
yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ ẩm, các chất tiết ra từ cây.
 Giai đoạn gây bệnh: là tiến trình mầm bệnh tiếp xúc với tế bào hoặc mô cây

và hút chất dinh dưỡng từ đó. Khi gây bệnh tích cực mầm bệnh đang ở giai đoạn dễ
- 3 -

gây bệnh nhất cho ký chủ ở giai đoạn mẫn cảm nhất. Trong thời gian gây bệnh, mầm
bệnh tiết ra và đưa vào ký chủ các chất hóa học làm ảnh hưởng tới tính nguyên vẹn
và chu trình sinh học của tế bào. Cây cũng có phản ứng đối với cơ chế gây bệnh, cây
sống hay chết nói lên mức độ chống bệnh của cây.
 Thời gian ủ bệnh: là thời kỳ giữa thời điểm gây bệnh của mầm bệnh và biểu
hiện triệu chứng ra bên ngoài. Thời kỳ này dài ngắn tùy vào tổ hợp ký sinh, ký chủ
và môi trường. Đối với phần lớn các bệnh, nhất là trên cây thường niên thời kỳ này
kéo dài vài ngày đến vài tuần.
 Sinh sản và phát tán của mầm bệnh: sau các giai đoạn trên, mầm bệnh đi vào
giai đoạn sinh sản. Sự sinh sản diễn ra nhanh với số lượng lớn. Sau đó chúng được
phân tán nhờ gió, nước, côn trùng, nông cụ và con người.
1.1.1.4. Bệnh truyền nhiễm và những điều kiện cơ bản quy định sự phát sinh bệnh
Bệnh truyền nhiễm phát sinh là kết quả của quá trình tác động phức tạp giữa cây
trồng (ký chủ) – vi sinh vật gây bệnh – điều kiện ngoại cảnh. Tác động của vi sinh
vật lên cây trồng (ký chủ) là một cơ thể sống với những chu kỳ sinh lý ở những mức
độ khác nhau.
Quá trình đấu tranh gay gắt đó xảy ra trong điều kiện ngoại cảnh nhất định và
chịu sự chi phối trực tiếp của điều kiện ngoại cảnh (thời tiết, dinh dưỡng, chế độ
chăm sóc, cây trồng, đất đai,…). Điều kiện ngoại cảnh sẽ có ý nghĩa quyết định tới
tình trạng sống và phản ứng tự vệ của cây, tăng cường hoặc làm suy yếu sức chống
chịu của cây. Đồng thời, điều kiện ngoại cảnh cũng có tác dụng quyết định đến sự
phát triển của vật ký sinh tới quá trình xâm nhiễm, tính độc, chế độ sinh sản và lan
truyền của vật ký sinh. Vì vậy bệnh cây phát sinh khi có đủ các điều kiện:
 Có mầm bệnh trong môi trường với số lượng đạt mức “xâm nhiễm tối thiểu”
cho phép của loại bệnh đó.
 Môi trường thuận lợi cho bệnh phát triển và bất lợi cho đời sống của cây.
 Cây trồng mẫn cảm với tác nhân gây bệnh.



- 4 -

1.1.2. Nấm gây bệnh hại cây trồng
Nấm (từ La Tinh là Fungi, từ Hy Lạp là Mycota), có nhiều chức năng sinh học
hiện nay còn chưa biết hết. Nấm có hơn 20 vạn loài đã được ghi nhận, sống ở khắp
mọi nơi trên trái đất; trong đó có trên 10 vạn loài nấm hoại sinh, hàng trăm loài nấm
sống ký sinh trên động vật và cơ thể con người. Hơn 1 vạn loài nấm gây bệnh hại
thực vật và trên 80% số bệnh hại cây trồng là do nấm gây ra với thành phần loài rất
phong phú, đa dạng (Vũ Triệu Mân, 2007).
1.1.2.1. Đặc điểm chung của nấm
 Nấm là một loại vi sinh vật, kích thước bé nhỏ (đơn vị đo là micromet – µm).
 Tế bào nấm có nhân thật (có hạch nhân và màng nhân).
 Nấm không có diệp lục (Chlorophyll). Vì vậy chúng là cơ thể dị dưỡng, sống
ký sinh và có khả năng đồng hoá.
 Cơ quan sinh trưởng là sợi nấm (Hyphae) hầu hết có cấu tạo dạng sợi (đơn
hoặc đa bào) không di chuyển, nhiều sợi nấm hợp thành tản nấm (Mycelium). Chỉ trừ
một vài loại nấm cổ sinh có dạng nguyên sinh bào (Plasmodium).
 Nấm sinh sản bằng bào tử (Spore). Bào tử nấm là những đơn vị cá thể bé nhỏ,
chứa bộ genom của cơ thể sống (sợi nấm), có đầy đủ chất dinh dưỡng và có khả năng
phát triển hình thành một quần thể nấm mới. Bào tử thường có một, hai hoặc nhiều tế
bào thường không thể tự di chuyển (trừ bào tử động – Zoospore).
Từ các đặc tính cơ bản nói trên, trong nhiều năm qua có nhiều loại sinh vật sống
được xếp vào nấm trước đây đã được thay đổi. Một vài loài mốc nhầy có đặc điểm
giống nấm, đặc biệt là phương thức dinh dưỡng và sinh sản bằng bào tử, hiện nay
chúng được coi là sinh vật tiền nhân (Prokaryote). Vì vậy, trong danh pháp của nấm
gây bệnh cây trên thế giới hiện nay người ta đã phân ra thành hai nhóm: nấm giả
(Pseudofungi) và nấm thật (Kingdom Fungi).
1.1.2.2. Hình thái sợi nấm

 Sợi nấm là cơ quan sinh trưởng dinh dưỡng, cơ quan bám giữ, bảo tồn từ đó
sinh ra các cơ quan sinh sản riêng biệt.
- 5 -

 Sợi nấm có thể đơn bào (không màng ngăn), hoặc đa bào (nhiều màng ngăn),
có thể phân nhiều nhánh. Chiều rộng của sợi nấm thường biến động trong khoảng 0,5
– 100µm (nấm gây bệnh cây thường có kích thước chiều rộng từ 5 – 20µm). Chiều
dài sợi nấm thay đổi tuỳ thuộc từng loại nấm và điều kiện dinh dưỡng.
 Cấu tạo tế bào sợi nấm gồm 3 phần chính: vỏ (vách) tế bào, tế bào chất và
nhân.
 Vách tế bào cấu tạo chủ yếu bằng các polysaccharide, kitin và cellulose.
Thành phần hoá học của vách tế bào biến đổi tuỳ thuộc vào loại nấm, nhiệt độ, pH
môi trường và tuổi của tế bào,v.v….
Tế bào chất bao gồm màng tế bào chất, các ribosome, hệ thống ti thể và các chất
dự trữ. Màng tế bào chất có tính thẩm thấu chọn lọc (tính bán thấm) cho các chất cần
thiết đi qua. Ribosome là trung tâm tổng hợp protein của tế bào. Các chất dự trữ đơn
giản trong tế bào chủ yếu ở dạng ipitglucogen và valutin. Ngoài ra ở tế bào non còn
có nhiều không bào trong tế bào chất.
Tế bào nấm có một hệ thống enzyme rất phong phú và sắc tố ở các nhóm khác
nhau.
 Trong tế bào sợi nấm có khoảng 90% là nước, 10% chất khô bao gồm các hợp
chất cacbon, nitơ, chất khoáng, và nguyên tố vi lượng…
 Sợi nấm sinh trưởng theo kiểu tia xạ, vươn dài ra từ đỉnh sinh trưởng của sợi.

Hình 1.1: Cơ quan sinh trưởng, vòi hút và các dạng biến thái chủ yếu của tản nấm.

- 6 -

1.1.2.3. Biến thái của nấm
Bình thường sợi nấm làm nhiệm vụ dinh dưỡng sinh trưởng song trong những

trường hợp đặc biệt như gặp điều kiện ngoại cảnh bất lợi (nhiệt độ quá cao, quá thấp,
khô hạn, thiếu dinh dưỡng…), sợi nấm có thể thay đổi hình thái, cấu tạo để biến
thành các cấu trúc đặc biệt làm tăng khả năng chống chịu, bảo tồn của sợi nấm lâu
dài hơn trong các điều kiện bất lợi của ngoại cảnh. Nấm thường có các dạng biến thái
chính như sau:
 Bó sợi (Rhizomorph) là hình thức biến thái đơn giản, bó sợi gồm nhiều sợi
nấm xếp song song với nhau tạo ra những bó sợi to nhỏ khác nhau, bên ngoài gồm
những tế bào có màu tương đối thẫm, vỏ dày.Ví dụ: Nấm mạng nhện hại cà phê.
 Hạch nấm (Sclerote) là hình thức biến thái phức tạp, nhiều sợi nấm đan kết
chặt chẽ, chằng chịt với nhau tạo thành những khối rắn chắc có kích thước, hình
dạng khác nhau, có khi nhỏ li ti như hạt cải, có loại hình bầu dục, hình cựa gà.
 Biến thành dạng rễ giả (Rhizoide): sợi nấm biến đổi thành dạng hình rễ cây
chỉ làm chức năng bám giữ trên bề mặt vật chủ.
 Vòi hút (Haustorium): ở một số loài nấm ký sinh chuyên tính, hệ sợi nằm trên
bề mặt tế bào hoặc phát triển trong gian bào có thể hình thành vòi hút xuyên qua
màng tế bào ký chủ đi vào nguyên sinh chất để hút các chất dinh dưỡng trong tế bào.
Vòi hút của nấm thường có nhiều hình dạng khác nhau: hình dùi trống, hình trụ ngắn
đâm nhánh giống chùm rễ, hình chiếc xẻng, hình bàn tay.
1.1.2.4. Dinh dưỡng ký sinh và trao đổi chất của nấm
Trao đổi chất là cơ sở của sự sống và sự phát triển của cơ thể nấm. Từ sợi nấm là
cơ quan sinh trưởng dinh dưỡng, chúng tiết ra các enzyme (ngoại enzyme), để phân
giải nguồn hợp chất hữu cơ phức tạp ở bên ngoài thành hợp chất đơn giản dễ hoà tan,
nhờ tính bán thấm chọn lọc của màng tế bào chất chúng hấp thụ các chất dinh dưỡng
có sẵn vào cơ thể.
Ví dụ: nấm hấp thụ đường glucose vào cơ thể, trước hết được chuyển thành dạng
ester metaphotphoric có khả năng hoà tan trong lipoit ở bề mặt tế bào chất của nấm
nhờ enzyme photphatase. Sau đó nhờ hệ thống nội men (nội enzyme). Nấm chế biến
- 7 -

tổng hợp các chất hoà tan được thành các hợp chất riêng để sinh trưởng, tăng sinh

khối gọi là quá trình đồng hoá và song song với quá trình này là quá trình dị hoá –
phân huỷ một phần các thành phần cơ thể để cung cấp năng lượng. Để tiến hành sinh
tổng hợp protit, axit nucleic và các thành phần tạp khác, tế bào nấm cần được cung
cấp năng lượng. Năng lượng này có được nhờ sự oxi hoá – phân huỷ các chất dinh
dưỡng đã được cơ thể nấm hấp thụ tạo ra các sản phẩm thứ sinh thải ra ngoài.
 Enzyme là những chất xúc tác hữu cơ chuyên tính, đó là một hợp chất protein
gồm hai phần: phần protein chuyên tính (Apoenzyme) và phần phi protein
(Coenzyme) gồm các vitamin, vi lượng,…
Hệ thống enzyme của nấm rất phong phú, đa dạng bao gồm ngoại enzyme và nội
enzyme.
Ngoại enzyme được nấm tiết ra môi trường sống để phân giải các hợp chất phức
tạp thành các chất đơn giản dễ hấp thụ. Đó là các men thuỷ phân (cutinase, cellulase,
pectinase, amilase,…).
Nội enzyme bao gồm các men được tiết ra trong cơ thể của nấm để tổng hợp các
chất đã hấp thụ được thành những hợp chất cần thiết cho quá trình sinh trưởng và
sinh sản của nấm, chủ yếu là các enzyme oxy hoá khử (oxydase, dehydrase…).
Trong quá trình sinh trưởng, tế bào nấm cần hấp thụ nhiều nguyên tố khoáng (17
nguyên tố) như: C, N, O, S, H, P. Mg, Cu, Fe, Zn, Mn, Ca… các nguyên tố vi lượng
như Bo, Mo,… và một số Vitamin (B
1
, B
6
…). trong đó các nguồn dinh dưỡng chủ
yếu là cacbon (gluxit), nguồn đạm (axit amin) và những axit hữu cơ khác.
 Nguồn cacbon: nấm cần nhiều cacbon hơn đạm và các chất khoáng, chủ yếu
là các loại đường C
6
, C
5
, tinh bột, axit hữu cơ và axit béo. Đa số các loại nấm sử

dụng tốt nhất đường glucose (C
6
).
 Nguồn đạm rất quan trọng song số lượng cần cho nấm ít hơn nguồn cacbon.
Một số loài nấm như: helminthosporium, colletotrichum và rhizoctonia có khả năng
khử đạm Nitrat thành NH
3
:
NO
3
 NO
2
 NH
4
OH  NH3
Nấm Pyricularia chỉ sử dụng đạm ở dạng amon.
- 8 -

 Một số nấm có thể tự tổng hợp Vitamin cần thiết cho cơ thể nếu không có
trong môi trường. Ví dụ: nấm Pythium, nấm Aspergillus nhưng cũng có loại nấm
không tự tạo được vitamin cần thiết cho sự sinh trưởng (nấm Phytophthora infestans
cần vitamin B
1
).
 Ngoài hệ thống enzyme, nhiều loại nấm còn sản sinh ra các độc tố khác nhau
trong quá trình dinh dưỡng ký sinh.
 Độc tố (Toxin): là những sản phẩm trao đổi chất của nấm có tác động làm tổn
thương hoạt động sống của tế bào thực vật ở một nồng độ rất thấp.
Căn cứ vào phổ tác động của độc tố nấm người ta thường phân thành 2 nhóm
Pathotoxin và Vivotoxin. Độc tố của nấm có tác động kìm hãm hoạt động của hệ

thống men tế bào ký chủ, kìm hãm hoạt động hô hấp của cây, phá vỡ tính thẩm thấu
chọn lọc của màng tế bào chất, phá huỷ diệp lục và quá trình trao đổi chất của tế bào
làm giảm khả năng đề kháng của cây.
Về thành phần hoá học có thể phân chia độc tố của nấm hại cây thành các nhóm
axit hữu cơ (axit oxalic, axit fusarinic, axit alternaric, axit pycolinic), nhóm
polysaccarit (licomarasmin, colletotin, piricularin), nhóm protein và các sản phẩm
phân giải của protein (NH
3
, Victorin) và nhóm các chất bay hơi (axit xianic).
Một loài nấm có thể sản sinh nhiều độc tố ở các nhóm khác nhau. Ví dụ: nấm
đạo ôn (Pyricularia oryzae) có hai loại độc tố là axit pycolinic và pyricularin ở hai
nhóm khác nhau. Nấm Fusarium sp. có các loại độc tố như axit fusarinic, fumonisin
B
1
và fumonisin B
2
, licomarasmin.
1.1.2.5. Chu kỳ phát triển của nấm
Nấm không có diệp lục, sử dụng các chất hữu cơ sẵn có chủ yếu là các hợp chất
nguồn cácbon, nguồn đạm, chất khoáng và vitamin của cây thông qua tác động của
một hệ thống nội enzyme, ngoại enzyme và độc tố để hoàn thành chu kỳ phát triển
của chúng trên cây trồng. Chu kỳ phát triển của nấm là một vòng đời bao gồm các
giai đoạn sinh trưởng, phát dục sinh sản tiến hành tuần tự kế tiếp nhau theo một trình
tự nhất định để lắp lại giai đoạn ban đầu. Giai đoạn ban đầu của chu kỳ phát triển
thường là bào tử (mầm bệnh). Sau khi nảy mầm xâm nhập tiến tới giai đoạn sinh
- 9 -

trưởng thể dinh dưỡng (thể sợi) ký sinh phát ra triệu chứng bệnh rồi tới giai đoạn
phát dục hình thành các cơ quan sinh sản và tạo ra các bào tử thế hệ mới vô tính để
tái xâm nhiễm và hữu tính (bảo tồn). Đây là chu kỳ phát triển hoàn toàn của nấm có

sơ đồ chung như sau:
Tuy nhiên, do đặc điểm phát triển khác nhau và ảnh hưởng của các điều kiện địa
lý sinh thái mà trong chu kỳ phát triển nhiều loại nấm không thấy xuất hiện giai đoạn
hữu tính hoặc bỏ qua một giai đoạn phát triển nào đó gọi là chu kỳ phát triển không
hoàn toàn.
Chu kỳ phát triển của nấm có thể hoàn thành trên một loài cây ký chủ trong một
vụ, một năm (nấm sương mai) song có loại phải tiến hành trên cây ký chủ chính và
trên ký chủ trung gian (bệnh nấm gỉ sắt lúa mì).
Nắm được đặc điểm chu kỳ phát triển của nấm và các mặt biến động của nó có ý
nghĩa lớn làm cơ sở để hiểu rõ chu kỳ xâm nhiễm (chu kỳ bệnh) và tiến hành các
biện pháp phòng bệnh kịp thời, có hiệu quả.
Chu kỳ bệnh (còn gọi là chu kỳ xâm nhiễm): bao gồm tất cả các giai đoạn nấm
ký sinh bên trong ký chủ và giai đoạn không ký sinh ở bên ngoài ký chủ.
Chu kỳ bệnh là một chu kỳ bao gồm chu kỳ phát triển dinh dưỡng ký sinh và giai
đoạn bảo tồn của nấm, trong đó chu kỳ phát triển của nấm không chỉ phụ thuộc vào
đặc điểm sinh vật học của mỗi loại nấm mà còn chịu ảnh hưởng rất lớn của các yếu
tố sinh thái môi trường. Do vậy, chu kỳ bệnh của mỗi loại nấm có thể thay đổi trong
giai đoạn ký sinh hoặc giai đoạn bảo tồn ở mỗi vùng có điều kiện khí hậu và các yếu
tố sinh thái hoàn toàn khác nhau. Ở chu kỳ bệnh, giai đoạn ký sinh trong chu kỳ có
thể được lặp lại nhiều lần (tái xâm nhiễm) tuỳ thuộc vào đặc điểm và tốc độ sinh sản
nhiều thế hệ của ký sinh trong mùa, (vụ) sinh trưởng của cây ký chủ và các yếu tố
ngoại cảnh.
Nắm vững chu kỳ bệnh cụ thể có ý nghĩa lớn trong công tác phòng trừ bệnh nấm
đạt hiệu quả cao. Qua đó tìm được điểm yếu hoặc điểm quyết định để hình thành
bệnh trong chu kỳ và có thể lựa chọn biện pháp, thời điểm phòng trừ thích hợp nhất.


- 10 -

1.1.2.6. Quá trình xâm nhiễm và lan truyền của nấm

Quá trình xâm nhiễm gây bệnh của nấm vào cây trồng bao gốm các giai đoạn kế
tiếp nhau như sau:
 Giai đoạn tiếp xúc và xâm nhập của mầm bệnh (bào tử nấm)
 Giai đoạn tiềm dục của bệnh (giai đoạn của bệnh)
 Giai đoạn phát triển bệnh
a. Giai đoạn tiếp xúc – xâm nhập
Đây là giai đoạn đầu tiên kể từ khi mầm bệnh (bào tử nấm) tiếp xúc được trên bề
mặt cây trồng. Trước tiên bào tử tiến hành nẩy mầm khi có nhiệt độ và ẩm độ thích
hợp. Khác với vi khuẩn, nấm có thể xâm nhập được vào các bộ phận của cây để thiết
lập quan hệ ký sinh với cây ký chủ ngoài cách thụ động như qua các lỗ hở tự nhiên
(thủy khổng, khí khổng hoặc các vết thương cơ giới),… nấm còn có thể chủ động
xâm nhập trực tiếp qua lớp cutin, và biểu bì của lá nhờ các enzyme thủy phân. Trong
nhiều trường hợp để thực hiện xâm nhập dễ dàng nấm cần phải có số lượng mầm
bệnh nhất định gọi là “lượng xâm nhiễm tối thiểu”.
b. Giai đoạn ủ bệnh (tiềm dục)
Là thời gian từ sau giai đoạn nấm xâm nhập đến khi xuất hiện triệu chứng ban
đầu của bệnh. Trong giai đoạn này nấm gây bệnh sinh trưởng tiềm tang ở bên trong
mô cây, gây ra những biến đổi sâu sắc và phá hủy tế bào cây bệnh. Ngược lại cây
trồng có những phản ứng chống đối lại nhất là ở những giống cây có gen kháng
bệnh. Các phản ứng tự vệ của cây có thể là thụ động, hoặc chủ động nhờ các đặc
điểm cấu tạo hình thái, thành phần hóa học hoặc có những phản ứng siêu nhạy, phản
ứng phản độc tố, phản men (enzyme) hoặc phản ứng phytoalexin dẫn đến thời kỳ
tiềm dục của bệnh có thể ngắn hay dài, nhanh hay chậm cùng với sự tác động của các
yếu tố ngoại cảnh khác.
Mối quan hệ ký sinh – ký chủ xảy ra rất phức tạp. Để ngăn chặn hoặc làm giảm
khả năng xâm nhập của nấm các yếu tố cấu tạo hình thái như độ dày lớp biểu bì, lớp
sáp trên bề mặt biểu bì, số lượng và kích thước khí khổng, độ mở khí khổng, lớp lông
trên bề mặt, góc độ lá với thân cây,… đều có ảnh hưởng đến khả năng xâm nhập qua
bề mặt tế bào ký chủ của tất cả các loại nấm gây bệnh trên cây.
- 11 -


Cơ chế bảo vệ của cây gồm nhiều phản ứng và những biến đổi của tế bào cây
chủ như: tahy đổi độ pH tế bào, sản sinh phytoalexin và các chất hóa học độc có tác
dụng kháng nấm như: Glycoankaloid, Tanin, Phenol, Hydroquinol, Anthocyanin,…
Các cơ chế bảo vệ chủ động của cây như phản ứng siêu nhạy, hiện tượng tự chết của
mô tế bào nhằm bao vây, cô lập các loại nấm ký sinh chuyên tính, như hiện tượng tạo
lớp bám, lớp vỏ bao, tầng rơi,… để tách biệt với nấm gây bệnh.
c. Giai đoạn phát triển bệnh
Là giai đoạn tiếp theo sau giai đoạn tiềm dục, kể từ khi đã hiện rõ triệu chứng
bên ngoài, bệnh tiếp tục phát triển cho đến khi kết thúc. Đây là thời gian kéo dài để
nấm sinh sản hình thành các đợt bào tử mới, phát tán lây lan tạo tiền đề cho các đợt
tái xâm nhiễm tiếp theo làm bệnh gia tăng, phát triển thành dịch trên đồng ruộng.
Lan truyền của nấm: trong tự nhiên nấm được lan truyền bằng nhiều hình thức
khác nhau. Sự lan truyền của bào tử nấm có thể thực hiện một cách chủ động hay thụ
động tùy thuộc vào đặc điểm sinh vật học của mỗi loài nấm và chịu ảnh hưởng lớn
của các yếu tố môi trường.
Bào tử nấm lan truyền chủ động: bào tử hữu tính từ quả thể đĩa, quả thể bầu tự
phóng ra ngoài không khí.
Bào tử nấm lan truyền thụ động: mưa và tưới nước làm bào tử bị bắn tung tóe
(bào tử nấm Collectotrichum); gió, bão thổi bào tử nấm đi xa (bào tử nấm phấn
trắng); côn trùng mang truyền bào tử (ví dụ: bọ cánh cứng Carpophilus spp.); các
yếu tố lan truyền khác (tàn dư, đất, hạt giống, cây giống, vật liệu làm giốn, động vật
và con người).
1.1.2.7. Cấu trúc vách tế bào nấm bệnh
Thành tế bào nấm bệnh dày khoảng 0,2µm, có tính phản quang rất mạnh nên có
thể phân biệt rõ ràng với kính hiển vi quang học. Nhiều công trình nghiên cứu đã
chứng minh cấu tạo thành tế bào vi nấm vừa có cấu trúc bảng mỏng vừa có cấu trúc
dạng vách tế bào nấm có 3 lớp phân biệt nhau rõ rệt mỗi lớp có bảng mỏng chồng lên
nhau, ép chặt vào nhau.
Các bảng mỏng này lại có cấu tạo dạng sợi: phần nền không có cấu tạo gì đặc

biệt, trên phần nền có các sợi nhỏ ép sát vào nhau và song song nhau. Các sợi trên
- 12 -

hai bảng mỏng liên tiếp lại xếp chéo nhau. Thành phần chủ yếu cấu tạo nên vách tế
bào nấm là chitin. Ngoài ra phổ biến ở nhiều loại nấm là glucan, một số loại nấm còn
có hàng rào lipid, protid.
1.1.3. Đặc điểm sinh học của một số loài nấm bệnh
1.1.3.1. Nấm Fusarium sp.
a. Đặc điểm sinh học của nấm Fusarium sp.
Nấm Fusarium sp. là sợi nấm đa bào, có màu trắng phớt hồng, sinh sản vô tính
tạo ra hai loại bào tử nhỏ. Ngoài ra, nấm Fusarium sp. còn sinh sản bào tử hậu hình
cầu, màng dày hình nâu nhạt. Bào tử nấm lớn hình thành cành bào tử phân nhiều
nhánh trong bọc giả trên cành bào tử không phân nhánh nhiều sợi nấm.
Kích thước bào tử lớn 35 – 50 x 3,5 – 5,5mm và bào tử hậu 9 – 10mm. Nấm phát
triển ở nhiệt độ 25 – 30
0
C. Nấm Fusarium sp. là loại nấm sống trong đất và phân bố
rộng rãi trong đất trồng và đất cỏ. Loại nấm này gồm 100 chủng phân hóa khác nhau.
Chúng gây bệnh héo nhiều loại rau, chuối, hồ tiêu, cây họ dừa cây cảnh.

Hình 1.2: Nấm Fusarium sp.
b. Triệu chứng bệnh héo vàng do nấm Fusarium sp.
Nấm Fusarium sp. gây bệnh héo vàng trên một số loài cây trồng như:
 Trên cây chuối: ban đầu, mép lá của cây bị nhiễm có triệu chứng hóa vàng,
sau đó lá rũ xuống và héo. Ở giai đoạn phát triển tiếp theo, triệu chứng nứt thân thể
hiện rất rõ và cây chết. Thân bị hóa nâu là triệu chứng điển hình của bệnh.
- 13 -

 Trên cà chua: những triệu chứng đầu tiên thường là vàng lá sau đó là héo và
cây chết trong vài ngày. Hiện tượng hóa nâu ở phần ngoài của thân (triệu chứng hóa

nâu mạch dẫn) thường thể hiện rõ rệt.
 Trên bầu bí: cây bệnh có thể héo và chết rất nhanh khi thời tiết nóng, đặc biệt
là vào cuối vụ khi cây có nhiều quả. Hiện tượng vàng lá xảy ra ở một số giống dưới
các điều kiện mát hơn, ít stress hơn. Hóa nâu rễ và thân có thể không biểu hiện rõ rệt
cho đến khi héo trầm trọng xảy ra.
c. Cơ chế xâm nhiễm của nấm Fusarium sp.
Sợi nấm và bào tử vô tính nảy mầm trong tàn dư cây bệnh và đất xâm nhiễm vào
rễ non còn non hơn và lan dần vào các mạch xylem. Nấm bệnh sau đó sẽ phát triển
trong mạch xylem và lan lên hệ thống mạch dẫn trong thân. Quá trình này gây phản
ứng của cây, tạo ra các hợp chất phenol và thể sần có màu nâu. Những hợp chất này
gây hiện tượng hóa nâu của mạch dẫn, một dấu hiệu dễ nhận thấy của bệnh héo khi
cắt ngang thân. Hiện tượng tắc mạch xylem làm giảm lượng nước di chuyển lên cây,
khiến cho cây bệnh bị héo rồi chết.
Bệnh héo do Fusarium sp. thường liên hệ với tuyến trùng nốt sưng. Nấm
Fusarium sp. xâm nhiễm vào cây qua vết thương do tuyến trùng gây ra.
d. Phòng trừ
Các bệnh héo do Fusarium sp. rất khó phòng trừ do bào tử hậu tồn tại qua thời
gian dài trong đất. Luân canh các cây trồng có khả năng kháng bệnh ít nhất 2 năm
trước khi trồng lại các cây trồng mẫn cảm có thể giúp làm giảm nguồn bệnh. Tuy
nhiên, loại nấm này có thể tồn tại bằng cách xâm nhiễm vào vỏ rễ các cây trồng
không phải là ký chủ và không biểu hiện triệu chứng. Vì vậy rất khó quản lý được sự
tồn tại của chúng trong đất.
Có những giống cây trồng có khả năng kháng bệnh héo do Fusarium sp. Tuy
nhiên, một giống kháng bệnh không có nghĩa là có khả năng kháng với tất cả các
chủng của một dạng loài nào đó. Hiện chưa có thuốc trừ nấm hữu hiệu để phòng trừ
các bệnh do nấm Fusarium sp. gây nên, có thể sử dụng nấm đối kháng làm tác nhân
phòng trừ nấm bệnh.
- 14 -

1.1.3.2. Nấm Phytophthora sp.

a. Đặc điểm sinh học của nấm Phytophthora sp.
Sợi nấm Phytophthora sp. có cấu tạo đơn bào, hình thành vòi hút hình trụ hoặc
hình cầu trong quá trình ký sinh trong tế bào cây. Sinh sản vô tính của nấm tạo ra
cành bào tử phân sinh và bào tử phân sinh lộ ra trên bề mặt vết bệnh, đặc biệt là ở
mặt dưới lá bệnh. Cành bào tử không màu, phân nhiều nhánh so le với nhau, trên mỗi
nhánh có nhiều vết lồi lõm. Bào từ phân sinh hình trứng hoặc hình quả chanh yên có
núm nhỏ ở phía đỉnh bào tử. Kích thước trung bình của bào tử phân sinh là 22 – 32 x
16 – 24 µm. Bào tử phân sinh có hai kiểu nẩy mầm, nẩy mầm gián tiếp khi nhiệt độ
môi trường trong khoảng 12 – 18
0
C, thích hợp là 14 – 18
0
C và nảy mầm trực tiếp
thích hợp ở 20 – 24
0
C.

Hình 1.3: Bào tử nấm Phytophthora sp.
Sinh sản hữu tính tạo ra bào tử trứng, nhưng chỉ xảy ra trong điều kiện rất lạnh
và kéo dài. Ở các nước có điều kiện nhiệt đới nóng ẩm chưa tìm thấy giai đoạn hữu
tính trong chu kỳ phát triển của nấm. Nấm Phytophthora sp. có khả năng hình thành
nhiều chủng khác nhau.

Nấm Phytophthora sp. là nguyên nhân gây rất nhiều bệnh trên cây ăn quả, rau
màu, và cây công nghiệp ở Việt Nam. Các bệnh bao gồm thối rễ, thối thân và quả sầu
riêng; thối rễ ớt; thối nõn dừa; thối gốc (héo nhanh) hồ tiêu; mốc sương cà chua,
khoai tây; thối rễ, thân và quả đu đủ; tàn lụi cao su và các cây trồng khác.
- 15 -

b. Triệu chứng bệnh

Cây bị bệnh chết dần từ ngọn cây và có thể có triệu chứng thối rễ và nứt ở phần
thân gần mặt đất. Các cây rau bị thối rễ, như ớt, trở nên còi cọc và héo. Cây thường
chết nhanh sau khi các triệu chứng héo trầm trọng xảy ra.
c. Cơ chế xâm nhiễm
Cách thức xâm nhiễm tùy thuộc từng loài. Tuy nhiên, bào tử trứng, bọc bào tử
động và du động bào tử tạo điều kiện cho việc xâm nhiễm vào các bộ phận khác của
cây. Mưa tạt phân tán bào tử lên bộ lá của cây vì vậy quá trình xâm nhiễm có thể bắt
đầu từ thân, lá và quả, tùy thuộc loài Phytophthora sp. và ký chủ. Côn trùng bò hoặc
bay cũng có thể mang nấm từ đất tới các bộ phận phía trên của cây.
d. Phòng trừ
Để phòng trừ thành công các bệnh do nấm Phytophthora sp. thường phải có sự
kết hợp các biện pháp phòng trừ khác nhau: thoáng nước tốt, dùng giống sạch bệnh,
ngăn chặn Phytophthora sp., tiêm phosphonate vào cây, nhúng rễ cây con vào thuốc
trước khi trồng để giảm số cây con chết, sử dụng nấm đối kháng.
1.2. GIỚI THIỆU VỀ NẤM ĐỐI KHÁNG Trichoderma sp.
1.2.1. Lịch sử nghiên cứu nấm Trichoderma sp.
Lịch sử nghiên cứu về Trichoderma sp. đã được phát hiện ra gần 200 năm trước
nhưng không được chú ý đến cho đến khi Thế Chiến lần thứ II xảy ra Trichoderma
sp. được phát hiện ra và hiện nay loài đó được biết là Trichoderma viride.
Hơn 150 năm sau, Trichoderma sp. chỉ là đối tượng của vài nhà phân loại nấm
học nhưng không hấp dẫn được mối quan tâm của các ngành khoa học khác. Tình
hình thay đổi trong Thế Chiến lần thứ II, khi quân đội Mỹ cảnh báo về hiện tượng
các trang bị quân sự bị mục ở xứ nhiệt đới, đặc biệt là ở Nam Thái Bình Dương.
Chương trình điều tra của quân đội Mỹ chỉ ra rằng Trichoderma "viride" mã số QM
6a là loài nấm phân hủy cellulose ở khu vực này. Sự nhầm lẫn này kéo dài suốt 20
năm cho đến khi chủng Trichoderma QM 6a này được nhận diện và đặt tên lại là
Trichoderma reesei để tỏ lòng tôn kính người đã khám phá ra loài này là Elwyn T.
- 16 -

Reese, tác giả làm việc tại Viện nghiên cứu Natick với sự cộng tác của Mary

Mandels đã nghiên cứu nhiều đề tài về sinh tổng hợp, cơ chế phân hủy cellulose và
các hợp chất polysaccharides khác của chủng Trichoderma reesei này và các thể đột
biến trên chủng đó. Nhờ những công trình đó mà nhiều phòng thí nghiệm khác ở Mỹ,
Châu Âu và Châu Á tiếp tục nghiên cứu và khám phá ra hệ thống phân giải cellulose
của Trichoderma sp. vào cuối thập niên 60.
Cùng thời điểm đó, Rifai và Webster ở Anh lần đầu tiên phân loại và mô tả được
9 loài Trichoderma. Việc nuôi cấy dể dàng và không tốn kém các chủng
Trichoderma đã lôi kéo các nhà nghiên cứu đi vào các hướng nghiên cứu cơ bản về
Trichoderma hơn là ứng dụng về phân giải cellulose của chúng. Một phát hiện quan
trọng trong nghiên cứu về Trichoderma sp. là khả năng kích thích tăng trưởng cho
cây trồng và khả năng đối kháng với các loài nấm bệnh giúp Trichoderma sp. được
dùng như là tác nhân kiểm soát sinh học trong nông nghiệp. Ngày nay, lĩnh vực này
đã trở thành hướng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên thế giới.
1.2.2. Tiềm năng sử dụng nấm Trichoderma sp. trong đất
Trichoderma sp. có khả năng tái tạo quân thể, được xem là một hiện tượng
phòng trừ sinh học vẫn chưa được giải thích về cơ chế. Theo Bliss (1959)
Trichoderma sp. có khả năng thiết lập quần thể và tái hoạt động rất nhanh trên đất đã
được xử lý khử trùng xông hơi bằng cacbon disulfide để diệt nấm Armillaria mellea
trên cây cam, quýt, nhưng không công bố những bằng chứng quần thể nấm
Trichoderma sp. phòng bệnh. Ohr và cộng tác viên (1973), cung cấp bằng chứng
thuyết phục nhất quần thể Trichoderma sp. trong đất có khả năng phòng trừ nấm
Armillaria mellea trên đất đã được xử lý xông hơi bằng methyl bromide.
Khả năng phòng trừ bệnh của nấm Trichoderma sp. tăng lên trong môi trường
đất của acid. Theo Cook và Baker, 1983, khi bón thêm sulfur vào đất để duy trì pH <
3,9 nhằm hạn chế sự phát triển của nấm Phytophthora sp. gây bệnh thối rễ và ngọn
dưa, đồng thời lại làm tăng quần thể Trichoderma sp.
Khả năng thứ hai là kháng nấm: đánh giá khả năng kháng nấm Rhizoctonia
solani của chủng nấm T. hamatum phân lập từ đất vườn ươm ở California, Chet và
Baker (1980) cho biết, và T. harziannum được phân lập từ đất tại Mexico có khả
- 17 -


năng ngăn chặn nhiều loại nấm đất (Lumsden, 1977) nấm R. solani không bị tiêu diệt
bởi nhiệt độ và tia phóng xạ gamma nhưng bị diệt trên trên môi trường chứa nấm T.
harziannum (Nelson và ctv., 1983), đây là vai trò chính của Trichoderma sp. trong
việc phòng trừ sinh học.
Trichoderma sp. có khả năng khống chế các loại nấm gây bệnh trong đất như R.
solani, Phythium spp. theo Baker (1974, 1980), Barnett và ctv (1974), Cook và Baker
(1983).
1.2.3. Đặc điểm của nấm Trichoderma sp.
1.2.3.1. Vị trí phân loại
Trichoderma sp. là loại nấm phổ biến trong tự nhiên, tuy nhiên hệ thống phân
loại của chúng chưa rõ ràng và khá phức tạp, do đó có nhiều ý kiến khác nhau đưa ra
khi phân loại giống nấm này.
Theo Rifai (1996), H.Barnett và Barry Bhunter (1972), Trichoderma sp. thuộc
loại nấm toàn Deuteromycetes (Fungi Inperfect). Nhóm nấm bất toàn là những nấm
sinh sản bằng bào tử bởi những giá bào tử có hình dạng khác nhau xếp thành chuỗi
(đính bào tử) ở đầu ngọn có cuống bào tử, thứ tự phân loại như sau:
Ngành: Ascomycota
Lớp: Deuteromycetes
Bộ: Moniliaceae
Họ: Moniliaceae
Hai nhà khoa học Brazil là Esposito và Manuela da silva cho biết Trichoedrma
họ Hypocreaceea, lớp nấm túi Ascomycetes, cũng theo hai tác giả này, những loài
Trichoderma được phân thành 5 nhóm: Trichoderma, Longibrachiatum,
Satunisporum, Pachibarium, Hypocrenum.
1.2.3.2. Hình thái, sự sinh trưởng và sự hình thành bào tử của nấm Trichoderma
 Đặc điểm hình thái: Trichoderma sp. là một loại nấm đất, phát triển tốt trên
các loại đất giàu dinh dưỡng hoặc trên tàn dư thực vật. Đặc điểm hình thái của nấm
này là cành bào tử không màu, sợi nấm không màu, có vách ngăn, có khả năng phân
- 18 -


nhánh nhiều và cho lượng bào tử rất lớn. Bào tử thường có màu xanh, đơn bào hình
trứng, tròn, elip hoặc hình oval tùy theo từng loài. Bào tử đính ở đỉnh của cành.

Hình 1.4: Nấm Trichoderma sp.
 Sự sinh trưởng của Trichoderma: là loại nấm hoại sinh trong đất nên
Trichoderma sp. có khả năng sử dụng nguồn hỗn hợp cacbon và nitrogen. Nguồn
cacbon và năng lượng Trichoderma sp. sử dụng được là đường đơn và đường đa,
cùng với hỗn hợp purines, pyrimidines acid amin, tannins, aldehydes và acid hữu cơ.
Đặc biệt là acid béo, methanol methylamine, formate và NH
3
là nguồn đạm bắt buộc
phải có trong môi trường nuôi cấy Trichoderma sp. Môi trường có nhiều dinh dưỡng
muối, các nguồn sulfur và các hỗn hợp như vitamin cũng có ảnh hưởng lớn đến khả
năng sinh trưởng của Trichoderma sp. Nhưng muối sodium chloride sẽ làm giảm
sinh trưởng và phát triển của một số loài nấm Trichoderma sp. Do đó trong muôi
trường nuôi cấy không được có mặt của muối này. Nồng độ CO
2
trong môi trường
nuôi cấy cũng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của nấm Trichoderma sp. Tuy nhiên
ảnh hưởng của CO
2
đến sinh trưởng và sản xuất của Trichoderma sp. phụ thuộc vào
nồng độ pH của môi trường trong đất. Nồng độ CO
2
10% không ảnh hưởng đến tốc
độ sinh trưởng của Trichoderma sp. Tốc độ mọc nhanh của Trichoderma sp. ở nồng
độ CO
2
cao trong môi trường kiềm. Điều này có thể giải thích vì sao Trichoderma sp.

thường sống trong môi trường đất phèn, ẩm ướt, ít hiện diện trên đất kiềm. Vì thế
CO
2
có ảnh hưởng đến sinh trưởng của Trichoderma sp. tại độ pH có giá trị cao.
- 19 -

 Sự hình thành bào tử trên môi trường: phần lớn các loại Trichoderma sp. có
cảm quang, dễ nảy mầm ở nhiều điều kiện môi trường tự nhiên và nhân tạo dưới điều
kiện tối sáng lẫn lộn, hay bào tử có thể xuất hiện trong điều kiện sáng. Nhiều tác giả
công bố, Trichoderma sp. không hình thành bào tử ở bước sóng dưới 254 nm hoặc
trên 1.100 nm và hình thành nhiều bào tử ở bước sóng 380 – 440 nm. Các hỗn hợp
như azaguanie, 5 – fluororacil, actiomycin D, cycloheximide, phennethyl alcohol và
ethidium bromide ngăn cản sự hình thành các bào tử hậu, làm tăng khả năng phòng
trừ sinh học của các loài nấm T. hamatum, T. viride, T. virens.
1.2.3.3. Yếu tố môi trường ảnh hưởng đến nấm Trichoderma sp.
 Nhiệt độ: Trichoderma sp. có thể phát triển trong khoảng nhiệt độ khá rộng từ
15 đến 35
0
C; trong đó, ở nhiệt độ từ 15 đến 20
0
C Trichoderma sp. chậm hình thành
bào tử. Nhiệt độ 25 – 30
0
C là khoảng nhiệt độ tối ưu để Trichoderma sp. sinh trưởng
và phát triển nhanh, lượng bào tử nhiều và thời gian sinh sản bào tử sớm. Ở 35
0
C
Trichoderma sp. phát triển kém, khả năng sinh bào tử yếu.
 Ánh sáng: với cường độ chiếu sáng liên tục, nấm phát triển nhanh, nhưng mật
độ bào tử ít. Tối liên tục sợi nấm phát triển chậm, mật độ thưa, sợi nấm chưa hình

thành xong sau đó bào tử hình thành theo từng đợt rất rõ. Sáng tối xen kẽ sợi nấm
hình thành nhiều (chỉ sau 2 ngày), mật độ dày, sau đó xuất hiện nhiều bào tử.
1.2.3.4. Khả năng đối kháng nấm gây bệnh cây
Nấm đối kháng là những thành viên phổ biến của hệ vi sinh vật đất. Chúng
thường tiết ra các enzyme, kháng sinh gây độc cho nấm gây bệnh hoặc cạnh tranh
điều kiện sống với nấm gây bệnh. Nấm đối kháng có thể kìm hãm sự sinh trưởng và
sự phát triển của nấm gây bệnh, giúp cây hồi phục, sinh trưởng và phát triển. Một số
loài nấm đối kháng đã được tìm thấy trong đất là: Penicillium axalicum, P.
frequetans, P. vermiculata, P. nigricans, P. chergsogetum đối kháng với nấm
Pythium sp., Rhizioctonia solani, sclerotium cepivorum, verticillium alboatrum.
Trichoderma sp. cũng là một trong những loài nấm có khả năng ức chế một số
nấm gây bệnh khác như: Sclerotium rolfsii, Phytophthora sp., Fusarium sp., Pythium
- 20 -

sp., Rhizoctonia sp. gây bệnh trên nhiều loại cây trồng như: các cây họ đậu, cây ăn
trái, hòa thảo, cây công nghiệp và cây hoa kiểng.
1.2.3.5. Cơ chế đối kháng nấm gây bệnh cây của nấm Trichoderma sp.
 Cơ chế giao thoa sợi nấm:
Sự đối kháng của nấm Trichoderma sp. thông qua nhiều cơ chế. Weidling (1932)
đã mô tả hiện tượng nấm Trichoderma sp. ký sinh nấm gây bệnh và đặt tên cho hiện
tượng đó là “giao thoa sợ nấm”. hiện tượng giao thoa gồm 3 giai đoạn như sau:
(1) Sợi nấm Trichoderma sp. vây quanh sợi nấm gây bệnh.
(2) Sau sự vây quanh, sợi nấm Trichoderma sp. thắt chặt lấy các sợi nấm gây
bệnh.

Hình 1.5: Nấm Trichoderma sp. quấn lấy sợi nấm gây bệnh.
(3 ) Cuối cùng là sợi nấm Trichoderma sp. đâm xuyên làm thủng lớp tế bào của
nấm gây bệnh dẫn đến sự gây bệnh làm cho chất nguyên sinh trong nấm gây bệnh bi
phân hủy và dẫn đến nấm bệnh chết.
- 21 -



Hình 1.6: Cơ chế hoạt động của nấm Trichoderma sp.
Sau này quan sát dưới kính hiểm vi, hiện tượng ký sinh của nấm Trichoderma
sp. được mô tả như sau: tại những điểm nấm Trichoderma sp. tiếp xúc với nấm gây
bệnh dã làm cho nấm gây bệnh teo lại và chết. Ngược lại ở những điểm không có sự
tiếp xúc của nấm Trichoderma sp. với nấm gây bệnh vẫn chết thì các nhà nghiên cứu
cho là tác động của chất kháng sinh từ nấm Trichoderma sp. sinh ra gây độc cho nấm
gây bệnh.
 Cơ chế kháng sinh: nấm Trichoderma sp. có khả năng sinh ra một số kháng
sinh. Khả năng sinh ra chất kháng sinh của các loài, các chủng không giống nhau.
Chúng gồm:
 Gliotoxin: là chất kháng sinh được R.Weindling và O. Emerson mô tả năm
1936 do nấm Trichoderma lignorum tạo thành. Trichoderma sinh kháng sinh
Gliotoxin với điều kiện hàm lượng oxy phải cao. Chất Gliotoxin được tích luỹ nhiều
trong dịch môi trường. Sự tích luỹ tối đa chất Gliotoxin thường ở giai đoạn phát triển
sớm của nấm Trichoderma. Chất Gliotoxin có phổ tác động rộng lên nhiều vi sinh
vật: vi khuẩn, nấm (Ascochyta, pisi; Botrytis, R.solani).
 Viridin: là chất kháng sinh thứ hai do nấm Trichoderma sp. tạo thành trong
hoạt động sống của chúng.Chất kháng sinh này được phát hiện vào năm 1945.
Viridin độc hơn rất nhiều so với Gliotoxin và có hoạt tính chống nấm cao.
- 22 -

Ngoài ra, một số chất kháng sinh khác do nấm Trichoderma sp. sinh ra như: chất
kháng sinh U – 21693 được Meyer phát hiện năm 1996. Năm 1975, ở Nhật Bản, các
tác giả Atsushi, Shunsuke đã phát hiện được 2 chất kháng sinh: Trichodermin và
Dermadin có trong dịch nuôi cấy loài T.koningii và T.aureoviride. Nấm Trichoderma
còn có khả năng sinh ra một số chất kháng sinh dễ bay hơi có hoạt tính sinh lý cao.
Theo Hutchinson (1973) thì thành phần chính của những chất này là khí Cacbonic
(CO2) và ethanol (Seiketov, 1982).

 Tác động của enzyme: nhiều loài Trichoderma sp. có khả năng sinh ra enzyme
phân giải (như enzyme laminarinaza, chitinaza,…) (Score et al., 1994). Khi phát
triển ở trên thành tế bào nấm vật chủ thì nấm Trichoderma sp. có thể tiết ra những
loại enzyme gây suy biến thành tế bào của nấm gây bệnh cho cây như enzyme β -(1-
3)-glucanase và chitinase.
 Cơ chế cạnh tranh: nấm Trichoderma sp. có thể biểu hiện tính đối kháng
thông qua việc cạnh tranh với nguồn gây bệnh cây về dinh dưỡng, nơi cư trú. Nấm
Trichoderma sp. thường định cư trước so với các nguồn gây bệnh cây. Do đó, chúng
chiếm các chỗ định cư cũng như dinh dưỡng của nguồn gây bệnh (Green et al., 1996;
Martin et al., 1985).
Hầu hết các cơ chế nêu trên về tính đối kháng của nấm Trichoderma sp. được
quan sát trong điều kiện phòng thí nghiệm. Tại Viện Bảo Vệ Thực Vật đã có các thí
nghiệm về tính đối kháng của nấm Trichoderma sp. (khả năng ký sinh, khả năng sinh
các chất kháng sinh). Cơ chế tác động của nấm đối kháng Trichoderma sp. trong điều
kiện phòng thí nghiệm ở Việt Nam là rất có triển vọng cho việc nhân sinh khối
nguồn nấm tạo ra chế phẩm sử dụng phòng trừ bệnh hại cây trồng (Viện Bảo Vệ
Thực Vật, 2007).
1.3. MỘT SỐ ỨNG DỤNG CỦA NẤM Trichoderma sp.
1.3.1. Lĩnh vực bảo vệ thực vật
Trichoderma sp. có hiệu quả nhất trong việc phòng trừ bệnh chết cây non, tạo
sinh khối trong đất và hệ rễ ngăn cản sự phát triển của nấm gây hại cây trồng bằng
cách cạnh tranh, ký sinh trên nấm hoặc kháng sinh học. Ngoài ra, chúng còn gây ảnh
hưởng mạnh đến vi khuẩn (Hadar và ctv, 1984) và các loại nấm khác trong đất.
- 23 -

1.3.1.1. Bón vào đất
Đối với những bệnh hại do nấm, những bệnh liên quan dến các bộ phận nằm
trong đất (thân ngầm và rễ) rất khó xử lý bằng phương pháp hóa học truyền thống.
Trichoderma sp. là loại vi sinh vật đối kháng mạnh với nấm gây bệnh trong đất và
được nhiều nghiên cứu ứng dụng như là một yếu tố kiểm soát sinh học. Cơ chế này

chủ yếu nhờ vào độc tố (Trichodermin, viridian) do nấm tiết ra và ký sinh trực tiếp
trong nấm bệnh.
Phòng trừ bệnh chết ỉu trên cây họ đậu do nấm Rhizoctonia solani và Pythium
sp. gây ra. T. lignorum được bón vào trong các hốc cây con (7 – 8 tỷ bào tử/g chế
phẩm) cho thấy bệnh thối rễ giảm 2 – 3 lần và năng xuất tăng lên rõ rệt.
1.3.1.2. Xử lý hạt giống
Sử dụng Trichoderma sp. trong việc xử lý hạt giống có liên quan đến khả năng
xâm nhập của nấm Trichoderma sp. vào trong đất. Phương pháp này cần một số
lượng lớn bào tử nấm để áp dụng. Tuy nhiên, đây là một phương pháp rất có ý nghĩa
trong việc phòng trừ nấm bệnh ở giai đoạn từ khi gieo hạt đến giai đoạn cây con.
Khả năng phòng trừ sinh học của nấm T. hamatum có hiệu quả trên hạt giống đậu hà
lan và củ cải đường, làm giảm bệnh rạp cây con do nấm R.solani và Pythium.ssp.
(Haman và công tác viên năm 1980). Dòng nấm T.hazianum xử lý qua tia hồng ngoại
(Papavizas và Lewis 1982) và T.viride có hiệu quả trong phòng trừ sinh học
(Papavizas và Lewis, 1981). Hạt đậu nành được xử lý T.pseudokoningii và hạt bắp
được xử lý T.harzianum có hiệu quả ngăn chăn mần bệnh và làm tăng năng suất
trong việc phòng trừ nấm Rhizoctonia sp. Dùng T.harzianum xử lý hạt bông cho hiệu
quả cao trong phòng trừ nấm R. solani tại Israel.
Hiệu quả thành công trong việc dùng Trichoderma sp. xử lý hạt giống ảnh hưởng
nhiều từ yếu tố phân lập (Papavizas và Lewis, 1981) tuổi của hạt giống gieo trồng
(Kommedahi và Windels, 1981), nhiệt độ của đất (Harman và cộng tác viên, 1981),
loại đất và vi sinh vật hiện diện trong đất (Hadar và cộng tác viên,1981), dinh dưỡng
trong quá trình cấy nấm (Harman và ctv, 1981), mật độ nấm khi cấy vào đất (Nelson,
1975), tiềm năng gây bệnh hại cây trồng (Kommedahi và Windels,1981).
- 24 -

1.3.2. Lƣơng thực và ngành dệt
Trichoderma sp. là những nhà máy sản xuất nhiều enzyme ngoại bào tử có hiệu
quả. Chúng được thương mại hóa trong việc sản xuất các cellulase và các enzyme
khác phân hủy polysaccharide phức tạp. Nhờ vậy chúng được sử dụng trong thực

phẩm và ngành dệt.
1.3.3. Chất kiểm soát sinh học
Hiện nay loài nấm này được sử dụng một cách hợp pháp cũng như không được
đăng ký trong việc kiểm soát trên thực vật. Các chế phẩm Trichoderma sp. được sản
xuất và sử dụng như là chất soát sinh học một các hiệu quả. Hình thức sử dụng dưới
dạng chế phẩm riêng biệt hoặc được phối trộn vào phân hữu cơ để bón cho cây trồng
vừa cung cấp dinh dưỡng vừa tăng khả năng kháng bệnh cho cây.
1.3.4. Kích thích sự tăng trƣởng của cây trồng
Nhưng lợi ích mà loại nấm này mang lại đã được biết đến từ nhiều năm qua. Bao
gồm kích thích sự tăng trưởng và phát triển của thực vật do việc kích thích sự hình
thành nhiều hơn và sự phát triển mạnh hơn của bộ rễ thông thường. Những cơ chế
giải thích cho hiện tượng này chỉ mới được hiểu rõ hơn trong thời gian gần đây. Hiện
nay, một giống Trichoderma sp. phát hiện chúng có khả năng gia tăng số lượng rễ
mọc sâu (sâu hơn 1m dưới mặt đất). Những rễ sâu này giúp các loài cây như bắp, cây
cảnh có khả năng chống chịu được hạn hán.
Một số loài nấm Trichoderma sp. có khả năng kích thích sự nảy mầm và ra hoa.
Nhiều công trình nghiên cứu chứng minh rằng T.harzianum và T. konigii kích thích
sự nẩy mầm và sinh trưởng của cây.
1.3.5. Nguồn gen để sử dụng trong chuyển gen
Nhiều vi sinh vật có khả năng kiểm soát sinh học đều có chứa 1 số lượng lớn gen
mã hóa các sản phẩm có hoạt tính cần thiết sử dụng trong kiểm soát sinh học. Nhiều
gen có nguồn gốc từ Trichoderma sp. đã tạo dòng và có tiềm năng ứng dụng rất lớn
- 25 -

trong chuyển gen để tạo cây có khả năng kháng lại nhiều loại bệnh. Chưa có gen nào
được thương mại hóa, tuy nhiên có một số gen đang được nghiên cứu và phát triển.
1.3.6. Lĩnh vực xử lý môi trƣờng
T.hazianum có khả năng phân hủy các chất ô nhiễm trong đất rừng. Sự tồn tại
của các hợp chất chloroguaiacol, các hợp chất halogen thấm nước (AOX) trong chất
thải nhà máy sản xuất bột giấy ở hồ Bonney, vùng đông nam nước Úc và các sản

phẩm phân giải của T.hazianum đã được nhiều nhà khoa học Van Leeuwen cùng
công tác viên nghiên cứu.
Chất tẩy trắng chlor của nhà máy sử dụng sulfite hóa bột giấy được tháo ra hồ
một cách gián tiếp đã làm xuất hiện các hợp chất chlorophennol trong nước và cặn
bẩn. hợp chất chlorophennol rất độc. T.hazianum có khả năng làm giảm bớt sự tập
trung của các hợp chất tự do 2,4,6- tricholorophenol; 4,5 – di chlorophenol và cả
AOX trong môi trường chứa muối khoáng. Loại nấm này cũng có khả năng đề
halogen hóa tertra chloroguaiacol tự do trong môi trường khoáng mặn.
T.hazianum đã chứng tỏ khả năng phân giải hiệu quả của chủng trên ciliatin,
glycophosphat và amino methyphosphonic acid (3 - methoxyphenyl). T.hazianum
(khoa sinh lý Trường Đại học california) có thể phân giải DDT, endosufan,
pentachloronotrobenzen và pentachcholorophennol. Nấm này phân giải endosufan
trong điều kiện dinh dưỡng khác nhau trong suốt quá trình sinh sống của nó.
1.4. KHẢ NĂNG TẠO CHẾ PHẨM CỦA NẤM Trichoderma sp.
1.4.1. Phƣơng pháp lên men xốp tạo chế phẩm nấm Trichoderma sp.
Hiện nay trên thế giới có nhiều phương pháp lên men tạo chế phẩm sinh học để
trừ nấm bệnh, sâu hại cây trồng trong nông nghiệp. Người ta đã xây dựng những quy
trình để thu nhận sản phẩm lên men khá hoàn chỉnh và được áp dụng vào thực tế sản
xuất lớn ở quy mô công nghiệp. Tuy nhiên, quy trình lên men vẫn đang còn nằm
trong giai đoạn tim kiếm một phương pháp thích hợp, chọn lựa điều kiện và môi
trường nuôi cấy tối ưu để đạt số lượng bào tử gồm chất khô cao, giá thành sản phẩm
rẻ, đồng thời sản phẩm tạo ra rễ bảo quản, giữ được hoạt tính lâu bền ở nhiệt độ bình
thường.

×