Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận tốt nghiệp vận dụng quan điểm đại hội xiii của đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vào giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa quân sự ở đơn vị cơ sở trong quân đội n

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.05 KB, 28 trang )

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Vận dụng quan điểm Đại hội XIII của
Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vào giữ
gìn, phát huy giá trị văn hóa quân sự ở đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện na


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG

2

I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA

2

VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC

1. Khái quát quan điểm trước Đại hội XIII của Đảng về xây

2

dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

2. Quan điểm Đại hội XIII của Đảng về xây dựng nền văn hóa

5



3. Nhiệm vụ, giải pháp xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

11

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

13

VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HĨA VIỆT NAM VÀO GIỮ
GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA QUÂN SỰ Ở
ĐƠN VỊ CƠ SỞ TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

1. Quan niệm và đặc trưng giá trị văn hóa qn sự

13

2. Giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa quân sự ở đơn vị cơ sở
trong Quân đội nhân dân Việt Nam
3. Thực trạng và giải pháp vận dụng giữ gìn, phát huy giá

16
17

trị văn hóa qn sự ở đơn vị cơ sở hiện nay
4. Vận dụng giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa qn sự ở Lữ
đoàn 94/Tổng cục II hiện nay


21

KẾT LUẬN

24

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

25


MỞ ĐẦU
Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng
đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người và xã hội với vai trò là nền
tảng tinh thần, mục tiêu, động lực, sức mạnh nội sinh của sự phát triển. Phát huy
truyền thống văn hoá dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là nhân lên sức mạnh
của nhân dân ta để vượt qua khó khăn, thử thách, xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, tăng cường hội nhập quốc tế, tạo ra thế và
lực mới phấn đấu giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới tồn diện, đẩy mạnh cơng nghiệp hố
hiện đại hoá đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội”, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nền tảng tinh thần của dân tộc ta, coi
đó vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Trong quá trình nhận thức về xây dựng và phát triển nền văn hóa, Đảng ta đã
ý thức rất rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển
văn hóa. Với quan điểm đúng đắn đó, trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng, tư
duy về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc đã có sự phát triển qua các kỳ Đại hội Đảng, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị

quyết quan trọng liên quan đến lĩnh vực văn hóa. Đến Đại hội XIII của Đảng,
những vấn đề về văn hóa, con người ngày càng được hoàn thiện hơn, nhất là vai
trị của văn hóa đối với phát triển bền vững đất nước. Tiếp tục nghiên cứu, quán
triệt, vận dụng những quan điểm của Đại hội XIII nói chung và về xây dựng nền
văn hóa nói riêng vào xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần của quân nhân, nâng
cao hoạt động văn hóa văn nghệ ở đơn vị cơ sở là một vấn đề quan trọng. Do vậy,
tôi lựa chọn chủ đề “Vận dụng quan điểm Đại hội XIII của Đảng về xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vào giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
quân sự ở đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” làm tiểu luận
tốt nghiệp Hồn chỉnh chương trình cao cấp lý luận chính trị.

NỘI DUNG


I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT
NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
1. Khái quát quan điểm trước Đại hội XIII của Đảng về xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Trải qua quá trình nghiên cứu, thảo luận kỹ, nhìn lại tồn bộ lịch sử q trình
tiếp cận vấn đề văn hóa của Đảng ta, nhất là từ Đề cương về văn hóa Việt Nam
năm 1943 của Đảng, tham khảo các cách tiếp cận mới của UNESCO và của nhiều
nước, để phù hợp với chủ trương mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế trong xu thế
tồn cầu hóa. Đảng ta khẳng định nền văn hóa Việt Nam là: nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Nghị quyết Hội nghị TW 5 khóa VIII của Đảng đã các định những quan điểm,
nhiệm vụ, giải pháp để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Có thể nói, đây là một nghị quyết có ý nghĩa chiến lược đối với việc xây
dựng văn hóa nước ta thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Những bước tiến quan trọng
trong nhận thức về văn hóa được thể hiện ở một số nội dung cơ bản của Nghị quyết
TW 5 khóa VIII. Khi xác định động lực để xây dựng và phát triển nền văn hóa

Đảng ta chỉ rõ “Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng” 1. Quan điểm này đã khắc
phục lối tư duy bao cấp, gây nên tính thụ động, chờ đợi của người dân đối với Nhà
nước trong thời kỳ trước đây. Mọi người Việt Nam đều tham gia sự nghiệp xây
dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà. Cơng nhân, nơng dân, trí thức là nền
tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và
phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Đảng ta
cũng chỉ ra những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc và từng bước làm rõ nội hàm của các khái niệm “tiên tiến”, “đậm
đà bản sắc dân tộc”.
Tiên tiến: là yêu nước và tiến bộ, mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm
mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, tồn
1

Đảng Cơng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, BCHTW khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1998, tr.57.


diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã
hội và tự nhiên; Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức
biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u nước nồng nàn, y chí tự cường dân tộc,
tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ
quốc; lịng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo
trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản sắc văn
hố dân tộc cịn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc
đáo.

Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thụ có
chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hoá các dân tộc khác. Giữ gìn bản
sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề
thói cũ. Như vậy, có thể thấy rất rõ rằng, mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa kế thừa, vừa có sự phát triển quan điểm của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta từ trước đến nay.
Đảng ta nhấn mạnh các đặc trưng tiêu biểu: dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học.
Những đặc trưng này là sự phát triển, hoàn thiện các đặc trưng: dân tộc, khoa học,
đại chúng đã được Đảng ta xác định trong Đề cương văn hóa năm 1943 và kết tinh,
bổ sung những giá trị văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Bên cạnh đó, Đảng ta cũng chỉ ra một đặc trưng rất quan trọng của nền văn
hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam. Quan điểm này đòi hỏi và mở ra khả năng kế thừa và phát huy truyền
thống đại đoàn kết dân tộc, hỗ trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Một nền văn hóa vừa chú trọng việc giữ
gìn, phát triển các sắc thái văn hóa đa dạng của 54 dân tộc trong cộng đồng quốc
gia Việt Nam, vừa củng cố sự thống nhất và đoàn kết giữa các dân tộc, tạo cơ sở để
giữ vững bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của mỗi dân tộc, chống sự
phân hóa và chia rẽ dân tộc. Đây là tư tưởng tiến bộ và nhân văn, phù hợp với xu
thế chung của cộng đồng quốc tế đang hướng tới xây dựng một công ước quốc tế
về đa dạng văn hóa hiện nay.


Sự phát triển nhận thức quan niệm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng không chỉ dừng lại ở những quan điểm chỉ đạo,
mà cịn thể hiện sâu sắc và tồn diện ở việc xác định hệ thống mười nhiệm vụ và
bốn nhóm giải pháp lớn mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã nêu ra. Những
tư tưởng hợp lịng dân được nêu ra trong nghị quyết đã được triển khai một cách
sâu rộng trong xã hội gắn kết với cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước và
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, tạo nên những

thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Hệ thống pháp luật và các chính sách về văn hóa được ban
hành đã góp phần tạo động lực cho văn hóa nước ta phát triển lành mạnh, đáp ứng
nhu cầu tinh thần ngày càng cao của nhân dân.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Bảo
đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là
then chốt với phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội. Đặc biệt coi trọng
nâng cao văn hoá lãnh đạo và quản lý, văn hoá trong kinh doanh và văn hoá trong
nhân cách của thanh, thiếu niên; chống những hiện tượng phản văn hoá, phi văn
hoá..”2. Ngày 16 tháng 6 năm 2008, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 23, khóa X
về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục xác định: “xây dựng
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc;
con người phát triển tồn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý
thức công dân, tuân thủ pháp luật” 3. Theo đó, Cương lĩnh 2011, cũng chỉ rõ “Mục
tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn
hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn
vinh, hạnh phúc”. Tương ứng với mục tiêu tổng qt đó, 8 đặc trưng về mơ hình xã
hội XHCN được Đảng ta chỉ ra cụ thể, trong đó có đặc trưng “có nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết 33-NQ/TW, khóa XI, đưa ra 5 quan
điểm: (1) Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển
bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã
hội. (2) Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống
2
3

Đảng Công sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.213.
Đảng Công sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.19.



nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học. (3) Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách
con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa,
trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, có lối sống tốt đẹp, với các
đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng
tạo. (4) Xây dựng đồng bộ mơi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trị của gia
đình, cộng đồng. phát triển hài hịa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến
yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. (5) Xây dựng và phát triển
văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng.
Tiếp tục thực hiện những tư tưởng của Đại hội XI, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam
phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh”4. Sau đó là Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành
Trung ương Khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Kết luận 76-KL/TW của Bộ Chính trị
khóa XII về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 9
khóa XI chính là sự cụ thể hóa và nhấn mạnh hơn nữa vai trị của văn hóa và xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
2. Quan điểm Đại hội XIII của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Đến Đại hội XIII của Đảng, những vấn đề về xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ngày càng được hoàn thiện hơn, nhất là vai trị
của văn hóa đối với phát triển bền vững đất nước. Quan điểm về xây dựng nền văn
hóa Việt Nam trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là sự tiếp nối hợp lơgic tư
tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng về văn hóa từ khi mới thành lập đến nay. Đó là

q trình khơng ngừng bám sát thực tiễn ở từng giai đoạn, bổ sung, phát triển,
hoàn thiện một cách sát hợp. Đặc biệt từ khi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
4

Đảng Công sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016,
tr.126.


thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (năm 1991) đến nay, quan điểm về
văn hóa có nhiều nội dung, đặc điểm mới. Mặc dù ở từng giai đoạn, nhiệm kỳ có
những nội dung cụ thể khác nhau, nhưng là quá trình từng bước tiến sâu vào bản
chất và sự đánh giá vai trò ngày càng tăng của văn hóa đối với phát triển đất nước.
Đến Đại hội XIII của Đảng, những vấn đề về: Hệ thống chuẩn mực xã hội, chuẩn
giá trị văn hóa; quan hệ giữa truyền thống và hiện đại; thống nhất trong đa dạng;
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế
- xã hội; văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; là sức mạnh nội sinh quan trọng
v.v… được chuẩn hóa cơ bản.
Đại hội XIII đã phân tích, nhận định về ưu điểm trong lãnh đạo xây dựng và
phát triển nền văn hóa là: “Nhận thức về văn hóa, xã hội, con ngườ ngày càng tồn
diện, sâu sắc hơn. Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa phát triển ngày càng
đa dạng, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhiều giá trị văn
hóa truyền thơng và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Văn hóa
trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả tích
cực. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hóa khởi sắc. Phát
triển toàn diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc phê phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác,
cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây hại đến văn hóa, lối sống con
người được chú trọng”5; “Các hoạt động văn hóa tiếp tục được quan tâm; hoạt
động thể dục, thể thao được đầu tư, phát triển và có nhiều thành tích nổi bật, đặc
biệt là thể thao thành tích cao; lĩnh vực báo chí, xuất bản tiếp tục phát triển phong

phú và đa dạng”6;
Chúng ta cũng thấy rằng, năm 2021 trong bối cảnh cách ly, giãn cách xã hội
do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, đã nổi bật lên những giá trị văn hóa, đạo đức
xã hội, truyền thống gia đình tốt đẹp; nhiều gương người tốt, việc tốt được nhân
rộng, phát huy. Công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa tiếp tục được quan tâm,
góp phần thúc đẩy phát triển du lịch. Đảng, Nhà nước đã tổ chức tốt công tác thông
tin đối ngoại tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt
Nam ra thế giới.
5

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 64-65.
6
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 64-65.


Nếu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII của Đảng mới chỉ
dừng lại ở luận điểm: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc”, nay luận điểm mới của Đảng đã có sự mở rộng, gắn kết giữa xây dựng
văn hố với xây dựng con người, vì con người về mọi phương diện; mục tiêu xây
dựng văn hoá cũng là mục tiêu xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế, xã hội,
đồng thời là chủ thể của sự phát triển. Như vậy có thể thấy, quan điểm của Đại hội
XIII của Đảng về xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc được gắn kết chặt chẽ trong mối quan hệ với kinh tế, chính trị, xã hội
và sự phát triển bền vững. Văn hóa thực sự gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào đời
sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, từng bước phản ánh rõ hơn
tính chất của nền văn hóa tiến bộ, văn minh, khoa học, kế thừa các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, hướng đến hiện đại, theo xu thế phát triển của thời đại

và văn minh nhân loại. Vai trị của văn hóa trong dẫn dắt, điều tiết sự phát triển
kinh tế, xã hội bằng mục tiêu nhân văn, giá trị truyền thống và hiện đại, trở thành
nền tảng tinh thần, tự hào dân tộc, gắn kết cộng đồng, tạo nên sức mạnh nội sinh,
khát vọng vươn lên vì một nước Việt Nam XHCN phát triển theo hướng hiện đại.
Nhờ những định hướng đúng đắn đó, việc xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Thời gian qua Đảng, Nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước các cấp đã ban hành
nhiều văn bản pháp lý quan trọng về các lĩnh vực phát triển văn hóa. Đến nay, cả
nước có trên 40.000 di tích văn hóa được xếp hạng, trong đó có 3.491 di tích cấp
quốc gia, 105 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới và
12 di sản văn hóa phi vật thể, 7 di sản tư liệu được UNESCO cơng nhận, có 6 danh
nhân văn hóa được UNESCO cơng nhận (Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Nguyễn Du,
Chu Văn An, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu). Đáng chú ý là có 145/288 di
sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số, được đưa vào danh mục di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia; nhiều lễ hội, sự kiện văn hóa trong và ngồi nước
được tổ chức, trong đó có các lễ hội, liên hoan nghệ thuật truyền thống của các dân
tộc thiểu số; hệ thống bảo tàng tiếp tục được mở rộng và ngày càng đổi mới về nội
dung và hình thức trình bày, thực hiện tốt công tác giáo dục truyền thống, nâng cao
giá trị văn hóa, khoa học cho người dân, nhất là thế hệ trẻ; các thiết chế văn hóa
được quan tâm xây dựng và từng bước hiện đại, phát triển rộng khắp từ trung ương


tới cấp xã, bao gồm 21.084 thư viện, phòng đọc và hơn 26.000 thư viện các cơ
quan nhà nước, lực lượng vũ trang, hệ thống giáo dục quốc dân, thư viện chun
ngành. Trung tâm văn hóa, nhà văn hóa khơng chỉ được mở rộng ở một số quốc
gia, ở trong nước cũng được phát triển đến các thôn, bản; vai trị của gia đình, nhà
trường và xã hội trong xây dựng con người mới, gia đình hạnh phúc, mơi trường
văn hóa lành mạnh ln được quan tâm.
Đầu tư cho sự nghiệp văn hóa khơng chỉ được coi trọng từ nguồn ngân sách
nhà nước mà còn thu hút ngày càng lớn từ nguồn xã hội hóa. Đội ngũ cán bộ làm

cơng tác văn hóa khơng ngừng lớn mạnh, trong đó có cả văn hóa quần chúng, nghệ
nhân và văn hóa đỉnh cao. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa được mở rộng và từng bước đi vào chiều sâu, tạo sự chuyển biến tích cực về tư
tưởng, đạo đức, lối sống cho các tầng lớp nhân dân; hệ thống thơng tin, báo chí,
xuất bản phát triển rộng khắp từ trung ương đến địa phương với tất cả các loại hình
báo chí, đáp ứng nhu cầu về thơng tin trong nước và quốc tế cho người dân, cùng
với các lĩnh vực văn hóa khác, góp phần thu hẹp sự chênh lệch về hưởng thụ văn
hóa giữa các vùng miền. Trong điều kiện công nghệ thông tin, internet, mạng xã
hội phát triển mạnh mẽ, Việt Nam rất coi trọng bảo vệ, gìn giữ văn hóa truyền
thống, đấu tranh chống lại các sản phẩm phi văn hóa, các thơng tin sai trái, thù
địch. Ngoài ra, các lĩnh vực về quyền tác giả, các quyền liên quan, cơng nghiệp
văn hóa được xác định sớm, tầm nhìn đến năm 2030, với 12 ngành chính; hội nhập
quốc tế về văn hóa, thực hiện các điều ước quốc tế song phương và đa phương,
thông tin đối ngoại và hợp tác quốc tế về văn hóa tiếp tục phát triển sâu rộng.
Tuy nhiên, Đại hội XIII của Đảng ta cũng chỉ ra những hạn chế trong lãnh
đạo xây dựng và phát triển văn hóa là: “Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng
với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự
phát triển bền vững đất nước. Vai trị của văn hóa trong xây dựng con người chưa
được xác định đúng tầm, cịn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn
thuần. Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn phản ánh sinh động
tầm vóc cơng cuộc đổi mới, có tác dụng tích cực đối với con người. Mơi trường
văn hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực.
Chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền cịn lớn; đời sống văn hóa ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa cịn nhiều khó khăn. Cơng tác
lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa cịn nhiều lúng túng, chậm trễ trong việc thể
chế hóa quan điểm,


chủ trương của Đảng về văn hóa. Đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, cịn dàn trải,
hiệu quả chưa cao. Chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp

nghiêm trọng về một sô mặt văn hóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội. Hệ
thống thơng tin đại chúng cịn nhiều hạn chế; một số cơ quan báo chí xa rời tơn chỉ
và có biểu hiện thương mại hóa; quản lý mạng xã hội còn bất cập. Chất lượng và
số lượng đội ngũ cán bộ văn hóa chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển văn hóa
trong thời kỳ mới. Việc giới thiệu, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngồi chưa
mạnh; tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại có mặt cịn hạn chế” 7. “Lĩnh vực văn
hóa, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao; đời sống của một bộ phận
nhân dân cịn khó khăn”8.
Trên cơ sở đó, Đảng ta đề ra phương hướng xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam là: “Phát triển con người tồn diện và xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở
thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Muốn
đạt được mục tiêu đó, chúng ta cần: “Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa.
Xây dựng, phát triển, tạo mơi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy
truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là
trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước” 9. Quan
điểm này còn được thể hiện hết sức sâu sắc ở một trong mười hai định hướng phát
triển đất nước (2021-2030) của Đảng. Quá trình xây dựng, phát triển văn hóa và
phát huy giá trị con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
trong thời kỳ mới là nhằm: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân
dân. Xây dựng, phát huy yếu tố văn hóa để thực sự là đột phá phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế. Khơi dậy tinh thần yêu nước, tính cộng đồng, ý chí tự
cường, tự hào dân tộc và khát vọng vươn lên. Tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo
và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, các di tích lịch sử văn hóa. Phát
triển đi đơi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, khắc phục tình trạng lạm dụng
7

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 84-85.

8
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 320.
9
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 116.


tiếng nước ngoài. Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Từng
bước hạn chế, tiến tới xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu. Đề cao tính tiên phong,
gương mẫu trong văn hóa ứng xử của người lãnh đạo, cán bộ, công chức và đảng
viên; tăng cường giám sát việc thực hiện các chính sách văn hóa. Phát huy vai trị
của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa. Từng
bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nơng thơn, giữa
các vùng, miền và các giai tầng xã hội. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát
triển cơng nghiệp văn hóa; phát triển những sản phẩm, loại hình văn hóa độc đáo
có sức lan tỏa để quảng bá, giới thiệu ra thế giới”10.
Mặt khác, Đảng ta còn khẳng định: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân
tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp
quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất
nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh
tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng
tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên” 11. Qua đó cho
thấy quan điểm Đại hội XIII của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình đi lên CNXH ở Việt Nam
cịn thể hiện ở sự gắn bó hữu cơ, khơng thể tách rời giữa Việt Nam và thế giới,
giữa yêu cầu phát triển văn hóa và đóng góp của văn hóa trong từng bước đi, từng
giai đoạn phát triển từ thấp đến cao và cuối cùng là CNXH. Theo tiến trình phát
triển của lịch sử, văn minh của nhân loại, xét trên tổng thể, thế hệ sau phải hơn thế
hệ trước, đó là vấn đề mang tính quy luật. Đối với mỗi quốc gia, tùy theo đặc điểm

riêng có, khả năng vận dụng quy luật mà tạo ra sự phát triển cao thấp khác nhau
trên các lĩnh vực, trong đó có văn hóa. Như vậy, quan điểm trên có tính bao trùm,
xun suốt hàm chứa phản ánh sự nhận thức mới của Đảng ta về nền văn hoá mà
chúng ta tiến hành xây dựng.
3. Nhiệm vụ, giải pháp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc
Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư
10

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 324.
11
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 324.


Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa tồn quốc ngày 24/11/2021 tại Thủ đô Hà
Nội đã chỉ ra 6 nhiệm vụ trọng tâm. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng một
lần nữa khẳng định: Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta ln ln coi trọng vai trị
của văn hóa và hết sức quan tâm đến cơng tác xây dựng văn hóa trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Nhận thức của Đảng về văn hóa ngày càng tồn diện, đầy đủ và
sâu sắc hơn. Đảng ta xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước;
xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hịa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã
hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta. Nói sâu sắc, ngắn gọn như Bác Hồ là:
“Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”; Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ
đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; kế thừa những truyền thống văn hóa tốt
đẹp của dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hóa
của thế giới, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân
chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và
thẩm mỹ ngày càng cao. Con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược
phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự nghiệp đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là
quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống cịn, là tiêu
chí của phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành
mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là một tiêu chí của tiến bộ,
văn minh. Như vậy, nhận thức của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hóa
trong thời kỳ đổi mới đã từng bước được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn
thiện, toàn diện và sâu sắc hơn. Đây là tiền đề rất cơ bản để chúng ta quán triệt và
tổ chức triển khai thực hiện trong thực tế. Thời thời gian tới, chúng ta cần quan
tâm đến một số vấn đề sau:
Một là, khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh
thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân
tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của
mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện


thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà
Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Hai là, xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập
với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình
Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn
những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: u nước, đồn kết, tự cường, nghĩa
tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được ni
dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc,

tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên
nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta:
Hịa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, hạnh phúc.
Ba là, phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, mơi trường văn
hóa, đời sống văn hóa: Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các
giá trị văn hóa mới. Xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh, văn minh gắn liền
với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa;
bảo vệ những giá trị chân - thiện - mỹ. Nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân;
xây dựng đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh
lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền của đất nước.
Bốn là, phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hóa là nhân
dân; tơn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hóa, của người dân, các dân
tộc, các vùng, miền; phát triển các phong trào văn hóa sâu rộng, thực chất; cải
thiện điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, bảo đảm sự công
bằng. Đề cao, phát huy vai trị tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của
những người làm cơng tác văn hóa.
Năm là, chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo
đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ
thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri
và phẩm giá con người Việt Nam. Xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; phát
huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người
đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh.


Nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu quả quản lý của Nhà nước; sự
tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong sự
nghiệp phát triển văn hóa.

Sáu là, xây dựng mơi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số
và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất
nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các
ngành cơng nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh.
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG VỀ XÂY
DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM VÀO GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HĨA QN SỰ Ở ĐƠN VỊ CƠ SỞ TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
1. Quan niệm và đặc trưng giá trị văn hóa quân sự
Quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc Việt Nam đã làm nảy
sinh trong di sản dân tộc những nét đẹp văn hoá quân sự mà cho đến nay vẫn còn
nguyên giá trị, trở thành các giá trị phổ biến trong đời thường như: ra ngõ gặp anh
hùng, giặc đến nhà đàn bà phải đánh, trẻ thơ cũng là dũng sĩ, tiếng hát át tiếng
bom... Có thể nói rằng, ơng cha ta khơng chỉ thắng giặc ngoại xâm về qn sự,
chính trị, mà một lĩnh vực có ý nghĩa hết sức quan trọng là chiến thắng về văn hố,
và dân tộc ta cũng thắng giặc chính bằng sức mạnh văn hố giữ nước của mình.
Thực tiễn đã cho thấy, quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta
đã hình thành và phát triển những giá trị văn hóa quân sự đặc sắc, thể hiện tinh
thần yêu nước, nhân đạo, nhân văn và nghệ thuật quân sự độc đáo, mang đậm bản
sắc dân tộc Việt Nam. Do đó, có thể quan niệm: Văn hóa văn hóa quân sự là một
bộ phận của nền văn hóa dân tộc, là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần được
hình thành và phát triển gắn liền với quá trình xây dựng, trưởng thành, phát triển
của quân đội, đó là chủ nghĩa u nước, tinh thần đồn kết toàn quân, toàn dân,
mang bản sắc, âm hưởng hào hùng của lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng,
về đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, viết nên trang sử anh
hùng, bất khuất của “Bộ đội Cụ Hồ, Bộ đội của Nhân dân”. Giá trị văn hóa quân sự
là một hệ giá trị gắn với những đặc trưng tiêu biểu trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam. Đó là những giá trị cơ bản sau:
Thứ nhất, tinh thần yêu nước trong hoạt động quân sự.
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử



hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u nước nồng nàn,
ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia
đình - làng xã - Tổ quốc, lịng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức
tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối
sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng khẳng định: dân ta có một lịng nồng nàn
u nước, đó là một truyền thống quý báu và mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh
thần yêu nước lại kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Yêu nước
trong hoạt động quân sự được thể hiện qua tinh thần kiên cường, bất khuất, khơng
sợ khó khăn, gian khổ, dám xả thân vì nghĩa lớn, dám đứng lên chiến đấu, hy sinh
vì Tổ quốc, vì nhân dân … của những người lính trong suốt chiều dài lịch sử dựng
nước và giữ nước.
Thứ hai, tinh thần nhân đạo, nhân văn trong hoạt động quân sự.
Đây là một trong những giá trị văn hóa quân sự tiêu biểu, độc đáo mang đậm
bản sắc văn hóa Việt Nam. Với tinh thần đạo lý “lấy đại nghĩa thắng hung tàn”,
“lấy chí nhân thay cường bạo”, với ý thức cố kết cộng đồng “tướng sĩ một lịng
phụ tử”, “hịa nước sơng chén rượu ngọt ngào”… hay thể hiện sâu sắc đức bao
dung, độ lượng, kể cả sẵn sàng “mở lượng hiếu sinh” với kẻ thù khi chúng buông
giáo quy hàng, thể hiện tinh thần lạc quan tìm cái “thái lai” ngay trong cái “bĩ
cực”.
Thứ ba, nghệ thuật quân sự độc đáo.
Giá trị văn hóa quân sự Việt Nam cịn được thể hiện ở phương châm hướng
tồn bộ hoạt động quân sự đến chân - thiện - mỹ với nghệ thuật dựng binh (xây
dựng quân) độc đáo (tổ chức lực lượng vũ trang nhiều thứ quân làm nịng cốt cho
tồn dân đánh giặc); với nghệ thuật dụng binh (sử dụng quân) độc đáo (“dùng quân
mai phục”, “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”, “đoản binh chế trường trận”,
“đánh cốt đuổi, không cốt diệt”, “đánh lấy khéo, khơng lấy mạnh”…).
Thứ tư, văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”.

Đây là giá trị văn hóa quân sự tiêu biểu trong thời đại Hồ Chí Minh, được cấu
thành bởi những phẩm chất cơ bản, như trung với Đảng, trung với nước, hiếu với
dân; yêu thương đồng chí, đồng đội; kỷ luật tự giác, nghiêm minh; thủy chung, son
sắt với bạn bè quốc tế; có tinh thần lạc quan cách mạng; có tinh thần và ý chí khắc


phục khó khăn; ln hồn thành mọi nhiệm vụ được giao; khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Những giá trị văn hóa quân sự trên phản ánh bản chất, truyền thống vẻ vang
của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, quân đội kiểu mới của giai cấp công
nhân Việt Nam, quân đội của dân, do dân và vì dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì
độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
Giá trị văn hóa qn sự đó cũng chính là sự phản ánh tư tưởng, đạo đức và phong
cách Hồ Chí Minh, được thể hiện cụ thể ở tư tưởng, tình cảm, thái độ và hành động
của mỗi cán bộ, chiến sĩ qn đội. Giá trị văn hóa chung đó cịn thể hiện ở truyền
thống của các quân chủng, binh chủng, của các cơ quan, đơn vị và của cả Quân đội
ta. Giá trị văn hóa qn sự đó cịn được thể hiện trong quá trình hoạt động thực
tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ: đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội
quân lao động, sản xuất của Quân đội nhân dân Việt Nam cả trong thời chiến và
thời bình. Những giá trị văn hóa qn sự được hình thành, phát triển, giữ vững và
phát huy trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước oai hùng của dân
tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử. Nhờ vận dụng và phát huy những giá trị
văn hóa quân sự mà dân tộc Việt Nam đã luôn giành được thắng lợi vẻ vang trong
các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, có thể thấy giá trị văn hoá quân sự là sản phẩm sáng tạo văn hoá của
con người và tổ chức quân sự trong nền quốc phịng tồn dân, trong các lực lượng
vũ trang nhân dân nói chung và trong quân đội ta nói riêng. Những giá trị văn hố
mà cán bộ, chiến sĩ sáng tạo ra ở từng đơn vị quân đội ta gia nhập vào văn hóa
qn sự khi tích hợp được trong đó những giá trị nền tảng văn hóa quân sự, mang
đậm giá trị “Bộ đội Cụ Hồ, Bộ đội của Nhân dân”. Bên cạnh đó cịn những giá trị

mang tính đặc thù của các quân, binh chủng như: giá trị truyền thống “làm chủ bầu
trời Tổ quốc” ở Bộ đội Phịng khơng - Khơng qn; “cơ động nhanh, hoả lực
mạnh” ở Bộ đội Tăng - thiết giáp; “chân đồng vai sắt, đánh giỏi bắn trúng” ở Bộ
đội Pháo binh; “mở đường thắng lợi” ở Bộ đội Công binh... và những giá trị truyền
thống của từng đơn vị cơ sở.
2. Giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa quân sự ở đơn vị cơ sở trong Quân
đội nhân dân Việt Nam
Quân đội nhân dân Việt Nam đang được xây dựng theo hướng cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng,


binh chủng, lực lượng. Việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa quân sự trong xây
dựng quân đội tiến lên hiện đại nói chung và ở đơn vị cơ sở nói riêng là khâu quan
trọng, có ý nghĩa quyết định, bảo đảm cho quân đội hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa quân sự ở đơn vị cơ sở trong quân đội là
một trong những vấn đề cơ bản, quan trọng của q trình xây dựng, phát triển văn
hố qn sự Việt Nam. Đồng thời là vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với quá trình
xây dựng quân đội ta vững mạnh tồn diện, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở,
góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp của đơn vị cơ sở trước yêu cầu mới của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đó chính là q trình
làm cho nhiều đơn vị cơ sở trong quân đội ta phấn đấu trở thành “điển hình tiên
tiến”, thành đơn vị “vững mạnh tồn diện, mẫu mực tiêu biểu”; có mơi trường
văn hố qn sự trong sạch, lành mạnh, có đời sống văn hố phong phú, tốt đẹp,
từ đó nhân rộng ra tồn qn và các tổ chức qn sự trong nền quốc phịng tồn
dân.
Thực chất quá trình giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa quân sự ở đơn vị cơ sở
là làm cho hệ giá trị văn hoá quân sự tiêu biểu cho bản chất cách mạng của Quân
đội nhân dân Việt Nam thấm sâu vào phẩm chất nhân cách từng quân nhân, vào
các quan hệ văn hoá trong tập thể quân nhân, cũng như các hình thái hoạt động
văn hố và các thiết chế bảo đảm đời sống văn hoá của bộ đội lành mạnh, phong

phú, tiên tiến, đậm đà sắc dân tộc. Đó chính là q trình điển hình hố văn hoá
quân sự trên thực tế, phản ánh trực tiếp đời sống văn hố tinh thần của bộ đội.
Theo đó nhân rộng, lan tỏa, giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa qn sự trong tồn
bộ hoạt động qn sự như là sự chuyển hoá các dấu ấn quân sự thành giá trị văn
hố.
Q trình giữ gìn phát huy giá trị văn hóa quân sự ở đơn vị cơ sở trong quân
đội ta chịu tác động trực tiếp của quy luật tích hợp và lan toả văn hố, trong điều
kiện đặc thù của tổ chức và hoạt động quân sự cụ thể ở đơn vị cơ sở. Thực chất
của quá trình này là sự vận dụng phương thức đặc trưng của quy luật văn hóa để
giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá quân sự Việt Nam. Tác động của quy luật tích
hợp văn hố theo hệ quy chiếu “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội;
Tất cả để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Quá trình đó ln làm cho các giá trị
văn hố qn sự thấm sâu, lan tỏa trong đời sống tinh thần và hoạt động của từng
cơ quan, đơn vị, đến từng quân nhân. Qua đó, đưa tổ chức, con người mang đậm
giá trị văn hoá quân sự.


Q trình giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa quân sự ở đơn vị cơ sở, trước hết,
phải làm tốt việc tiếp nhận, lan tỏa các giá trị văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, đặc biệt là những định hướng Đại hội XIII của Đảng về xây dựng
nền văn hóa. Từ đó phát huy và điển hình hóa giá trị văn hóa dân tộc, văn hóa
quân sự ở từng đơn vị cơ sở theo quy luật tích hợp, lan tỏa văn hố. Bởi, giữ gìn,
phát huy những giá trị văn hố qn sự ở đơn vị cơ sở bao giờ cũng chứa đựng
những yếu tố chung văn hóa quân sự cho các đơn vị, dù khác nhau về chuyên
môn quân sự và những yếu tố riêng của từng đơn vị cơ sở cụ thể. Tất cả các đơn
vị cơ sở trong quân đội đều thực hiện chức năng bảo vệ Tổ quốc và là “Bộ đội Cụ
Hồ”. Do đó, mỗi đơn vị cơ sở trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa qn sự đều
có thể tích hợp được những giá trị văn hố chung điển hình từ văn hố qn sự
gắn với đời sống văn hoá của đơn vị cụ thể; và chỉ có tích hợp được như thế thì
mới làm phong phú thêm sắc màu văn hóa quân sự, góp phần vào giữ gìn, phát

huy văn hóa qn sự ở đơn vị cơ sở. Giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa qn sự ở
đơn vị cơ sở hiện nay, khơng chỉ xây dựng các đơn vị thành “điểm sáng văn hố”
mà cịn phải tạo dựng được giá trị văn hố qn sự điển hình trong hệ thống giá trị
văn hố mang tính đặc thù của từng đơn vị cơ sở trong quân đội gắn với quá trình
xây dựng đơn vị cơ sở thành điển hình về đời sống văn hố quân sự.
3. Thực trạng và giải pháp vận dụng giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
qn sự ở đơn vị cơ sở hiện nay
a) Thực trạng
Trong những năm qua, quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa quan điểm đường lối
văn hóa của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phịng, Tổng cục Chính trị đã
đề ra nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo công tác giữ gìn, phát huy giá
trị văn hóa qn sự. Kế hoạch hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí quân
đội đã cụ thể hóa, hiện thực hóa quan điểm, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về văn hóa trong quân đội. Hoạt động văn hóa quân sự thể hiện
tính chủ động, “tiên phong, gương mẫu đi đầu” góp phần quan trọng nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần của bộ đội, xây dựng quân đội vững mạnh tồn diện và
vững mạnh về chính trị.
Cơng tác quy hoạch tổ chức thiết chế văn hóa trong quân đội được quan tâm,
đảm bảo chính quy, cơ bản, hệ thống, thống nhất, chặt chẽ, phát huy tốt vai trò,
chức năng, hoạt động có chất lượng, hiệu quả. Cơng tác giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ văn hóa, văn nghệ sĩ có số lượng, cơ cấu hợp lý, chất lượng


hiệu quả hoạt động ngày càng cao; phát huy tốt vai trị, trách nhiệm, đóng góp
quan trọng vào việc đảm bảo đời sống văn hóa tinh thần của bộ đội và nhân dân.
Xây dựng mơi trường văn hóa qn sự gắn với Phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa” đã thu hút đơng đảo cán bộ, chiến sĩ tham gia, tạo
được cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp ở các đơn vị, tạo ấn tượng tốt, lan tỏa
đến các khu dân cư. Tổ chức Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài
năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, gắn với Cuộc vận động “Học tập và làm theo tư

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đặc biệt Chỉ thị 855-CT/QUTW của
Thường vụ QUTW về đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Phát huy truyền thống,
cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới, đã xác định được 5
phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới như: Bản lĩnh chính trị vững vàng, động cơ
trong sáng, trách nhiệm cao. Đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh. Có văn hóa,
tri thức khoa học, trình độ qn sự, năng lực, phương pháp, tác phong công tác và
sức khỏe tốt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thực hành dân chủ, kỷ luật tự giác,
nghiêm minh. Chăm lo xây dựng đoàn kết nội bộ tốt; tơn trọng, giúp đỡ, gắn bó
máu thịt với Nhân dân; có tinh thần quốc tế trong sáng.
Trong quân đội đã có nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, báo chí có giá trị tư
tưởng, nghệ thuật cao, có sức lan tỏa, hấp dẫn, lơi cuốn bộ đội và cơng chúng xã
hội. Hoạt động văn hóa văn nghệ ở đơn vị cơ sở trong quân đội góp phần đấu tranh
vạch trần âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; phịng,
chống suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ; phê phán những biểu hiện tiêu cực, bảo vệ các giá trị chânthiện-mỹ, góp phần xây dựng thế trận lịng dân, mối quan hệ đồn kết gắn bó qn
dân.
Đặc biệt giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” được khẳng định và tỏa sáng trong
thách thức an ninh phi truyền thống. Nhất là phịng chống lụt bão và “cuộc chiến
thời bình” phịng, chống đại dịch Covid-19 vừa qua. Toàn quân đã chủ động triển
khai nhiều biện pháp hiệu quả phòng, chống dịch; 100% cán bộ, chiến sĩ, y, bác sĩ
sẵn sàng lên đường vào vùng dịch với quyết tâm cao. Đồng hành cùng với lực
lượng tuyến đầu, đội ngũ văn nghệ sĩ, cán bộ, chiến sĩ quân đội đã sáng tác được
nhiều tác phẩm nghệ thuật, báo chí tuyên truyền, cổ vũ, động viên, cán bộ, chiến sĩ
vững tin vào thắng lợi.



×