Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu luận tốt nghiệp chủ đề quan điểm của lênin về trập trung sản xuất và tổ chức độc quyền ý nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.93 KB, 27 trang )

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
Chủ đề: Quan điểm của V.I. Lênin về trập trung sản xuất và tổ chức độc
quyền. Ý nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam

3


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
I.

QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ TẬP TRUNG SẢN

6

XUẤT VÀ CÁC TỔ CHỨC ĐỘC QUYỀN

1.

Nguyên nhân hình thành và tác động của độc quyền

6

2.

Tập trung sản xuất

9


3.

Tổ chức độc quyền

12

II.

Ý NGHĨA QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ TẬP

20

TRUNG SẢN XUẤT VÀ CÁC TỔ CHỨC ĐỘC QUYỀN
ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

1.

Tập trung sản xuất là điều kiện quan trọng để xây dựng

21

nền kinh tế lớn, phát triển nhanh và bền vững
2.

Tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng cho

23

các chủ thể tham gia trong nền kinh tế

KẾT LUẬN

25

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

27

4


MỞ ĐẦU

Vào những năm 1860- 1870, ở các nước Tây Âu, chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh phát triển đến một trình độ cao nhất, trong giai đoạn này bắt đầu xuất
hiện mầm mống của chủ nghĩa tư bản độc quyền (CNTBĐQ). Khi nghiên cứu
chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, Mác- Ăngghen đã dự báo rằng: tự do canh
tranh sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất. Tích tụ và tập trung sản xuất phát triển
đến một mức độ nào đó, sẽ dẫn đến độc quyền. Đến cuối thế kỷ 19, đặc biệt là
cuộc khủng hoảng kinh tế 1900- 1903 thì chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh thực
sự chuyển sang CNTBĐQ, sự ra đời của nó đã làm cho chủ nghĩa tư bản mang
những đặc điểm kinh tế, chính trị mới khác biệt so với thời kỳ Mác, thực tế đã
xuất hiện cách hiểu và khái quát khác nhau về chủ nghĩa tư bản như: Causki
trong tác phẩm “ Chủ nghĩa siêu Đế quốc” đã cho rằng chủ nghĩa đế quốc là một
phương thức sản xuất mới mà ở đó những đặc tính căn bản của chủ nghĩa tư bản
khơng cịn nữa. Hin-phec-dinh cho rằng chủ nghĩa đế quốc là một chính sách
của một “giai đoạn kinh tế” của tư bản tài chính. …
Đứng trước thực tế đó, để đấu tranh chống lại tư tưởng cơ hội, xét lại
nhằm bảo vệ, phát triển học thuyết kinh tế của Mác trong hoàn cảnh lịch sử mới,
Lênin đã tiến hành nghiên cứu một cách toàn diện về chủ nghĩa tư bản và cho ra

đời tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” vào
tháng 6 năm 1916. Học thuyết về CNTBĐQ là sự kế thừa và vận dụng một cách
sáng tạo cả trong điều kiện lịch sử mới, thấy được sự vận động nội tại và mâu
thuẫn vốn có của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Các tổ chức độc quyền chính là
hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trước sự phát triển
của lực lượng sản xuất, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản là một tất yếu khách
quan, CNTBĐQ phát triển cũng là một tất yếu khách quan. Đến nay, quan điểm
của V.I. Lênin về CNTBĐQ và các đặc điểm kinh tế cơ bản của nó vẫn cịn giữ
ngun giá trị, chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản, mặc dù bọn chúng đã có
nhiều sự điều chỉnh, trong đó có đặc điểm về tập trung sản xuất và các tổ chức
độc quyền là nổi bậc nhất. Vì thế, việc nghiên cứu vấn đề tập trung sản xuất và
các tổ chức độc quyền theo quan điểm của V.I. Lênin có ý nghĩa rất quan trọng


trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay.


I. QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ TẬP TRUNG SẢN XUẤT VÀ CÁC
TỔ CHỨC ĐỘC QUYỀN

1. Nguyên nhân hình thành và tác động của độc quyền
* Nguyên nhân hình thành độc quyền
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong nền kinh tế thị trường các nước
tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện các tổ chức độc quyền. Sự xuất hiện các tổ chức
độ quyền đánh dấu chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn phát triển mới,
giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Độc quyền xuất hiện do những nguyên
nhân chủ yếu sau:
Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ
khoa học kỹ thuật, đòi hỏi các doanh nghiệp phải ứng dụng những tiến bộ kỹ

thuật mới vào sản xuất kinh doanh. Điều đó, địi hỏi các doanh nghiệp phải có
vốn lớn mà từng doanh nghiệp khó đáp ứng được. Vì vậy, các doanh nghiệp
phải đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các doanh
nghiệp quy mô lớn.
Hai là, cuối thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện
như lò luyện kim mới, các máy móc mới ra đời, như: động cơ điêzen, máy phát
điện; phát triển những phương tiện vận tải mới, như: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện,
máy bay, tàu hỏa ...Những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện này,
một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới địi hỏi các doanh nghiệp
phải có quy mô lớn; mặt khác thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng khả năng
tích lũy, tích tụ và tập trung sản xuất, thúc đẩy phát triển sản xuất quy mô lớn.
Ba là, trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, cùng với sự tác
động của các quy luật kinh tế thị trường, như: quy luật giá trị tăng dư, quy luật
tích lũy, tích tụ, tập trung sản xuất ... ngày càng mạnh mẽ, làm biến đối cơ cấu
kinh tế của xã hội theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.
Bốn là, cạnh tranh gay gắt làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản
hàng loạt, còn các doanh nghiệp lớn tồn tại được, nhưng cũng đã bị suy yếu, để


tiếp tục phát triển họ phải tăng cường tích tụ, tập trung sản xuất, liên kết với
nhau thành các doanh nghiệp với quy mô ngày càng to lớn hơn. V.I. Lênin
khẳng định:"... tự do cạnh tranh để ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất
này, khi phát triển đến mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền".
Năm là, do cuộc khủng hoảng kinh tế lớn năm 1873 trong toàn bộ thế giới
tư bản chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh
nghiệp lớn tồn tại, nhưng để tiếp tục phát triển được, họ phải thúc đẩy nhanh q
trình tích tụ và tập trung sản suất hình thành các doanh nghiệp có quy mơ lớn.
Sáu là, sự phát triển của hệ thống tín dụng trở thành địn bẩy mạnh mẽ thúc
đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành, phát triển các cơng ty có phần,
tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền. Khi các tổ chức độc quyền

xuất hiện các tổ chức độc quyền có thể ấn định giá cả độc quyền mua, độc quyền
bán để thu lợi nhuận độc quyền.
* Tác động của độc quyền với nền kinh tế:
Những tác động tích cực:
Độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển khai các
hoạt động khoa học kỹ thuật, thức đẩy sự tiến bộ kỹ thuật. Độc quyền là kết quả
của q trình tích tụ, tập trung sản xuất ở mức độ cao. Do đó, các tổ chức độc
quyền có khả năng tập trung được các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực về tài
chính trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học kỹ thuật, thúc
đẩy sự tiến bộ kỹ thuật. Tuy nhiên, đây chỉ là khả năng, cịn khả năng có trở
thành hiện thực hay khơng cịn phụ thuộc và nhiều yếu tố, nhất là phụ thuộc vào
mục đích kinh tế của các tổ chức độc quyền trong nền kinh tế thị trường.
Độc quyền có thể làm tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh
tranh của bản thân tổ chức độc quyền. Là kết quả của tập trung sản xuất và sự
liên minh các doanh nghiệp lớn, độc quyền tạo ra được ưu thế về vốn trong
việc ứng dụng những thành tựu kỹ thuật, công nghệ sản xuất mới, hiện đại, áp
dụng những phương pháp sản xuất tiên tiến, làm tăng năng suất lao động,


giảm chi phí sản xuất, do đó nâng cao được năng lực cạnh tranh trong hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Độc quyền tạo được sức mạnh kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển theo hướng sản xuất lớn hiện đại. Với ưu thế tập trung được sức mạnh kinh
tế to lớn vào trong tay mình, nhất là sức mạnh về tài chính, tạo cho độc quyền có
điều kiện đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế trọng tâm, mũi nhọn, do đó thúc đẩy
nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng sản xuất tập trung, quy mô lớn, hiện
đại. V.I. Lênin viết: “Nhưng trước mắt chúng ta cạnh tranh tự do biến thành độc
quyền và tạo ra nền sản xuất lớn, loại bỏ nền sản xuất nhỏ, thay thế nền sản xuất
lớn bằng một nền sản xuất lớn hơn nữa”.
Những tác động tiêu cực:

Độc quyền xuất hiện làm cho cạnh tranh khơng hồn hảo gây thiệt hại cho
người tiêu dùng và xã hội. Với sự thống trị của độc quyền và vì mục đích lợi
nhuận độc quyền cao, mặc dù như đã phân tích ở trên, độc quyền tạo ra sản xuất
lớn, có thể giảm chi phí sản xuất và do đó giảm giá cả hàng hóa, nhưng độc
quyền không giảm giá, mà họ luôn áp đặt giá bán hàng hóa cao và giá mua thấp,
thực hiện sự trao đối không ngang giá, hạn chế khối lượng hàng hóa tạo ra sự
cung cầu giả tạo về hàng hóa, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội.
Độc quyền có thể kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm sự phát
triển kinh tế, xã hội. Độc quyền tập trung được các nguồn lực lớn, tạo ra khả
năng nghiên cứu, phát minh các sáng chế khoa học, kỹ thuật. Nhưng vì lợi ích
độc quyền, hoạt động nghiên cứu, phát minh, sáng chế chỉ được thực hiện khi vị
thế độc quyền của chúng khơng có nguy cơ bị lung lay. Do vậy, mặc dù có khả
năng về nguồn lực tài chính tạo ra khả năng nghiên cứu, phát minh các sáng chế
khoa học, kỹ thuật, nhưng các tổ chức độc quyền khơng tích cực thực hiện các
cơng việc đó. Điều này chứng tỏ, độc quyền đã ít nhiều kìm hãm thúc đẩy sự
tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm sự phát triển kinh tế, xã hội.


Độc quyền chi phối các quan hệ kinh tế, xã hội, làm tăng sự phân hóa giàu
nghèo. Với địa vị thống trị kinh tế của mình và mục đích lợi nhuận độc quyền
cao, độc quyền có khả năng và khơng ngừng bành trướng sang các lĩnh vực
chính trị, xã hội, kết hợp với các nhân viên chính phủ để thực hiện mục đích lợi
ích nhóm, kết hợp với sức mạnh nhà nước hình thành độc quyền nhà nước, chi
phối cả quan hệ, đường lối đối nội, đối ngoại của quốc gia, vì lợi ích của các tổ
chức độc quyền, khơng vì lợi ích của đại đasố nhân dân lao động.
2. Tập trung sản xuất
V.I. Lênin đã nghiên cứu, phân tích rất rõ những đặc điểm kinh tế cơ bản
của CNTBĐQ, bao gồm: Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền, các
ngân hàng và vai trò mới của chúng, tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính,
xuất khẩu tư bản, việc phân chia thế giới giữa các liên minh của bọn tư bản, việc

phân chia thế giới giữa các đại cường quốc, chủ nghĩa đế quốc giai đoạn đặc biệt
của chủ nghĩa tư bản, tính ăn bám và sự thối nát của chủ nghĩa tư bản, phê phán
chủ nghĩa đế quốc. Trong đó, Lênin đã tập trung phân tích sâu đặc điểm tập
trung sản xuất và các tổ chức độc quyền của CNTBĐQ.
Theo V.I. Lênin, tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ
chức độc quyền là đặc điểm cơ bản, quan trọng nhất của CNTBĐQ: Lênin
khẳng đinh: “Sự phát triển rất lớn của cơng nghiệp và q trình tập trung cực kỳ
nhanh chóng của sản xuất vào trong các xí nghiệp ngày càng to lớn, là một trong
những đặc điểm tiêu biểu nhất của chủ nghĩa tư bản”.
Tập trung sản xuất là sự tăng thêm quy mô của sản xuất bằng cách kết
hợp nhiều xí nghiệp nhỏ thành xí nghiệp lớn.
Là sự tăng lên về quy mô sản xuất, ở đây không chỉ tăng lên về tư liệu sản
xuất, nhà xưởng máy móc, nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho q trình sản xuất,
mà cịn bao hàm cả sự tăng lên về cả lao động mà trước hết về số lượng. Sự tăng
lên về quy mô sản xuất thực hiện bằng việc hợp nhất các xí nghiệp trong xã hội.


Như vậy nói đến tập trung sản xuất là nói tới việc tập trung các yếu tố của
sản xuất (tư liệu sản xuất và sức lao động) vào trong các xí nghiệp, làm cho quy
mơ các xí nghiệp ngày càng lớn, từ đó có điều kiện để tăng năng xuất lao động,
giành ưu thế trong sản xuất - kinh doanh, thu được khối lượng giá trị thặng dư
lớn hơn. Biểu hiện cụ thể trong thực tế của tập trung sản xuất, chính là sự xuất
hiện cuả các xí nghiệp lớn.
Lênin đã đưa ra một loạt các con số thống kê để minh chứng cho quá trình
ấy: “ ở Đức, chẳng hạn, cứ một nghìn xí nghiệp cơng nghiệp thì năm 1882 có 3
xí nghiệp lớn, nghĩa là có trên 50 cơng nhân làm th; năm 1895 có 6 cái, và
năm 1907 có 9 cái. Cứ một trăm cơng nhân thì có 22, 30 và 37 người làm trong
các xí nghiệp ấy. Nhưng so với mức tập trung cơng nhân thì mức tập trung sản
xuất cịn mạnh hơn nhiều, vì lao động trong các xí nghiệp lớn có năng suất cao
hơn nhiều. Những con số về máy chạy bằng hơi nước và về động cơ điện đều

chứng tỏ điều đó. Nếu chúng ta xét cái mà ở Đức người ta gọi là công nghiệp
theo nghĩa rộng của danh từ, nghĩa là gồm cả thương nghiệp và đường giao
thông v.v., chúng ta sẽ thấy tình hình như sau Trong tổng số 3 265 623 xí nghiệp
thì số xí nghiệp lớn là 30 588, tức là chỉ có 0,9%. Các xí nghiệp này dùng 5,7
triệu công nhân trong tổng số 14,4 triệu công nhân, tức 39,4%; dùng 6,6 triệu
mã lực hơi nước trong tổng số 8,8 triệu mã lực, tức 75,3%, và dùng 1,2 triệu kilơ-ốt điện trong tổng số 1,5 triệu kw, tức là 77,2%.
Khơng đầy một phần trăm các xí nghiệp mà chiếm hơn 3/4 tổng số sức
hơi nước và điện lực! 2,97 triệu xí nghiệp nhỏ (dùng từ 5 cơng nhân làm thuê
trở xuống), tức 91% tổng số xí nghiệp, mà chỉ dùng có 7% sức hơi nước và
điện lực! Hàng vạn xí nghiệp thật lớn là tất cả, cịn hàng triệu xí nghiệp nhỏ
chỉ là số khơng.
Năm 1907, ở Đức, số xí nghiệp dùng từ 1 000 cơng nhân trở lên là 586.
Các xí nghiệp này dùng gần một phần mười (1,38 triệu) tổng số công nhân và
gần một phần ba (32%) tổng số sức hơi nước và điện lực. Như chúng ta sẽ thấy,
tư bản tiền tệ và các ngân hàng làm cho ưu thế đó của một nhóm những xí


nghiệp rất lớn càng có tính chất áp đảo hơn nữa; đó là nói hồn tồn đúng với
nghĩa thật của danh từ, tức là có hàng triệu "chủ xí nghiệp" hạng nhỏ, hạng vừa
và ngay cả một phần thuộc hạng lớn nữa, trên thực tế đều hoàn toàn bị vài trăm
tên tư bản tài chính triệu phú nơ dịch”.
Ở Mỹ: “sự tập trung sản xuất còn phát triển mạnh hơn nữa. Ở đây, thống
kê chỉ xét riêng công nghiệp hiểu theo nghĩa hẹp của danh từ này, và xếp loại
các xí nghiệp theo giá trị sản lượng hàng năm. Năm 1904, đã có 1 900 xí nghiệp
lớn nhất (trong số 216 180 cái, tức là 0,9%), giá trị sản lượng của mỗi xí nghiệp
này là 1 triệu đơ-la và hơn nữa, các xí nghiệp này đã dùng 1,4 triệu cơng nhân
(trong số 5,5 triệu, tức 25,6%); và giá trị sản lượng của 1909, thì số liệu tương
ứng là: có 3 060 xí nghiệp lớn nhất (trong số 268 491 cái, tức là 1,1%), những xí
nghiệp này dùng 2 triệu cơng nhân (trong số 6,6 triệu, tức là 30,5%), và giá trị
sản lượng của chúng là 9 tỷ đôla (trong số 20,7 tỷ, tức là 43,8%).

Sự tập trung sản xuất đã dẫn tới sự ra đời các tổ chức độc quyền. Bởi vì
một mặt do chỉ có một số ít các xí nghiệp lớn nên có thể rễ ràng thoả thuận với
nhau (so với trước nhiều xí nghịêp), mặt khác các xí nghiệp có quy mơ lớn cạnh
tranh trở lên khốc liệt hơn, khó phân thắng bại, vả lại nếu có sự rủi ro thì sức phá
hoại sẽ lớn, từ đó để ra xu hướng liên minh với nhau để nắm độc quyền. Gần
một nửa tổng sản lượng của tất cả các xí nghiệp trong nước nằm trong tay một
phần trăm tổng số các xí nghiệp! Và ba nghìn xí nghiệp khổng lồ ấy bao gồm
258 ngành công nghiệp. Do đấy, ta thấy rõ rằng khi phát triển đến mức độ nhất
định, thì có thể nói, sự tập trung tự nó sẽ dẫn thẳng đến độc quyền. Vì vài chục
xí nghiệp khổng lồ có thể dễ dàng thoả thuận với nhau; mặt khác chính quy mơ
to lớn của các xí nghiệp làm cho cạnh tranh ngày càng khó khăn và làm nảy sinh
ra khuynh hướng đi đến độc quyền. Sự cạnh tranh biến thành độc quyền, đó là
một trong những hiện tượng quan trọng nhất”.
Tập trung sản xuất là vấn đề có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn. Nhưng chỉ đến cuối thế kỷ XIX, quá trình tập trung sản xuất ở các nước tư
bản chủ nghĩa mới diễn ra mạnh mẽ, do các nguyên chủ yếu sau:


Một là, do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, một mặt địi hỏi phải có sự tích
tụ và tập trung tư bản, mặt khác đã thúc đẩy sản xuất phát triển tạo ra năng xuất
lao động cao nên bóc lột được nhiều giá trị thặng dư, dẫn đến tích luỹ tư bản
tăng, do đó tích tụ và tập trung tư bản tăng, tạo ra sự tập trung sản xuất.
Hai là, sản xuất phát triển làm cho cạnh tranh tự do diễn ra mạnh mẽ thúc
đẩy quá trình tập trung sản xuất tăng lên
Ba là, do tác động của khủng hoảng kinh tế trong các nước tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt là các cuộc khủng hoảng 1873, 1900 – 1913 góp phần đẩy nhanh
q trình tập trung sản xuất.
Bốn là, do sự ra đời của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa đã góp
phần thúc đẩy tích tụ, tập trung tư bản, do đó tạo điều kiện cho tập trung sản
xuất tăng nhanh.

Các nguyên nhân trên làm cho quá trình tập trung sản xuất diễn ra mạnh
mẽ. Tập trung sản xuất tới mức độ nhất định sẽ dẫn tới độc quyền. Bởi vì, một
mặt, quy mơ to lớn của các xí nghiệp làm cho cạnh tranh trở lên gay gắt hơn, từ
đó nảy sinh khuynh hướng thoả hiệp, liên minh với nhau làm cho số lượng xí
nghiệp trong mỗi ngành ít đi; mặt khác, do trong mỗi ngành chỉ cịn lại một số ít
các xí nghiệp lớn nên có thể dễ dàng thoả thuận với nhau để độc quyền về giá
mua, giá bán, thị trường. Từ đó hình thành nên các tổ chức độc quyền.
3. Tổ chức độc quyền
Tổ chức độc quyền là sự liên minh giữa các nhà tư bản dưới những hình
thức khác nhau, nắm phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hố nào
đó, nhằm mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao.
Tập trung sản xuất đến một mức độ nhất định mới cho ra đời tổ chức độc
quyền chi phối cả sản xuất và lưu thông nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao. Tổ
chức độc quyền là liên minh giữa các nhà tư bản dưới những hình thức khác
nhau, nằm phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một hay một số loại hàng hóa nào
đó nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.


Sự liên minh này thể hiện hình thức sở hữu mới, đó là tập thể tư bản nắm
giữ tư liệu sản xuất, việc sở hữu tư liệu sản xuất này giờ đây khơng cịn là cá
nhân các tư bản nữa.
Mục đích của sự liên minh thoả hiệp là tăng cường bóc lột lao động làm
thuê, hạn chế cạnh tranh, quy định giá cả độc quyền, thống trị nền kinh tế để thu
lợi nhuận dộc quyền cao. Mục đích ở đây là hồn tồn rõ ràng đó là lợi nhuận
cho các nhà tư bản chứ khơng phải vì sự phát triển chung của xã hội, càng khơng
phải vì sự phát triển toàn diện cho người lao động trong xã hội tư bản.
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản cho thấy, đến giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa, độc quyền trở thành cơ sở, tế bào kinh tế của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Độc quyền tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, từ thấp đến
cao, từ lưu thông đến sản xuất, từ một ngành đến nhiều ngành. Độc quyền ở đây

nó khác hình thức độc quyền trước đó, nó độc quyền cả 4 khâu của q trình tái
sản xuất xã hội (sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng), tức tập trung lực lượng
kinh tế vào tay một số người, là cho họ một quyền lực vô hạn, chi phối đời sống
xã hội. Đây là cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản và các hình thức cơ bản của tổ
chức độc quyền trong chủ nghĩa tư bản tồn tại dưới các hình thức sau:
Cácten: Là hình thức đầu tiên của độc quyền. Đây chính là sự thoả hiệp
giữa các nhà tư bản về giá cả, kì hạn trả tiền, thị trường tiêu thụ, khối lượng
hàng bán ra trên thị trường…Việc sản xuất và thương nghiệp vẫn do bản thân
mỗi thành viên đảm nhiệm.
Với hình thức Cácten giới hạn của sự liên minh chỉ trong phạm vi hẹp,
như giá cả, thị trường tiêu thụ, khối lượng hàng hóa bán ra mà thơi. Ở đây các
nhà tư bản cam kết làm đúng hiệp nghị, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy
định. Vì vậy, Cácten là liên minh độc quyền không bền vững. Trong nhiều
trường hợp những thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi đã tự rút khỏi Cácten, làm
cho Cácten tan vỡ trước kì hạn, Lênin chỉ rõ: “Những cácten thoả thuận với
nhau về các điều kiện bán hàng, về kỳ hạn trả tiền, v. v.. Chúng chia nhau các


khu vực tiêu thụ. Chúng quyết định số lượng sản phẩm cần chế tạo. Chúng quy
định giá cả. Chúng chia lãi cho các xí nghiệp v. v”.
Trong thực tiễn lịch sử, sau khủng hoảng kinh tế 1873, hình thức cácten
xuất hiện và phát triển. Đến cuối thế kỉ 19 Cácten trở thành một trong những cơ
sở của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của chủ nghĩa tư bản. Ở Đức năm 1896 có
khoảng 250 Cácten, đến 1905 đã lên tới 385 bao gồm 12.000 XN.
Xanhđica: là hình thức độc quyền cao hơn, ổn định hơn Cácten. Những
người tham gia Xanhđica vẫn độc lập về sản xuất, nhưng việc mua bán hàng
hoá do một ban quản trị chung của Xanhđica đảm nhiệm.
Rõ ràng với hình thức Xanhđica thì phạm vi, giới hạn của sự liên minh
đã được mở rộng, phát triển cao hơn Cac1ten, đó là sự mua bán hàng hóa.
Mục đích của Xanhđica là thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên

liệu với giá rẻ, bán hàng hóa gía đắt để thu lợi nhuận độc quyền.
Lênin đã dẫn chứng: Ở Đức : “Xanhđica than đá miền Ranh - Ve-xtơpha-li, khi được thành lập năm 1893, đã nắm được 86,7% tổng số than đá sản
xuất ở vùng này, và đến năm 1910, thì Xanhđica ấy đã nắm được 95,4%”.
Có thể thấy 2 hình thức độc quyền trên là những hình thức tồn tại trên
cơ sở liên kết trong lĩnh vực lưu thơng, vì vậy khơng có tính bền vững.
Tờrớt: Là hình thức độc quyền cao hơn Xanhđica, nó thực chất là cơng
ty cổ phần. Những người tham gia Tờrớt mất độc lập về sản xuất và thương
nghiệp, họ trở thành cổ đông và thu lợi tức cổ phần. Lúc này tồn bộ q
trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa do một ban quản trị chung thống nhất điều
hành. Như vậy đến Tờrớt thì phạm vi, giới hạn của sự liên kết, thoả hiệp được
mở rộng hơn trong cả sản và lưu thơng. Theo đó sự thống trị của nó đối với
xã hội trở lên lớn hơn.
Tờrớt ra đời đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa, chuyển từ nhà tư bản nhỏ chiếm hữu tư liệu sản xuất sang tập
thể tư bản chiếm hữu tư liệu sản xuất.


Trong thực tiễn lịch sử loại, Tờrớt đầu tiên xuất hiện tại Mỹ vào những
năm 1891-1899, ngay sau khi ra đời, các Tờrớt đã nắm và chi phối hoạt động
sản xuất và mua bán hàng hóa tại khu vực, trong nước mình.
Có thể nhận thấy 3 hình thức liên kết trên là liên kết theo chiều ngang
tức liên kết trong một ngành (như sản xuất thép, khai thác than, cơ khí..).
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện hình thức liên kết
theo chiều dọc đó là:
Cơngxcxiom: Là hình thức độc quyền có quy mơ lớn hơn các hình
thức độc quyền trên, là hình thức tổ chức độc quyền đa ngành, thường tồn
tại dưới dạng một hiệp định ký kết giữa một số ngân hàng hoặc công ty công
nghiệp để cùng nhau tiến hành các nghiệp vụ tài chính lớn do một tập đồn
tài chính điều hành và khống chế. Với sự liên minh này, Cơngxcxiom đã
làm tăng vai trò thống trị các nghành kinh tế và bóc lột lao động làm th.

Với các hình thức tổ chức độc quyền trên, độc quyền đi vào mọi ngành,
mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Nó nắm hầu hết các mạch máu kinh tế nên có
sức mạnh rất to lớn. Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và
lưu thông, các tổ chức độc quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền, qua đó
thu lợi nhuận độc quyền. Vì vậy, trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền,
quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền, còn quy luật giá trị
thặng dư biểu hiện thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao. Độc quyền ra đời từ
cạnh tranh, đối lập với cạnh tranh, nhưng vẫn không thủ tiêu được cạnh tranh tự
do, trái lại còn làm cho cạnh tranh thêm gay gắt, tạo một cơ chế hỗn hợp giữa
độc quyền và cạnh tranh. Trong giai đoạn độc quyền cịn có các loại cạnh tranh:
Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngồi độc quyền
bằng rất nhiều thủ đoạn khác nhau như: tìm mọi cách để độc quyền về
nguyên liệu, lao động, phương tiện giao thơng, tín dụng, thị trường tiêu thụ,
giá cả; dùng các biện pháp ám sát kỹ sư, chuyên gia giỏi, ăn cắp kỹ thuật và
bí quyết cơng nghệ; Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau; Cạnh
tranh giữa các xí nghiệp, cơng ty trong nội bộ độc quyền.


Kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, độc quyền đã có những biểu
hiện mới cả về hình thức, cơ cấu và cơ chế.
Về hình thức: do sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự tác động
của cách mạng khoa học, công nghệ, đã diễn ra quá trình hình thành sự liên
kết giữa các độc quyền theo cả chiều dọc và chiều ngang, ở cả trong và
ngồi nước. Từ đó dẫn đến sự ra đời những hình thức tổ chức độc quyền
mới. Đó là các consơn (concern) và các côngơlômêrết (conglomerate).
Consơn, là tổ chức độc quyền đa ngành và thành phần của nó có hàng
trăm xí nghiệp có quan hệ với các ngành khác nhau và được phân bố ở nhiều
nước. Trong số 500 công ty lớn nhất của Mỹ hiện nay có tới 94% là các
consơn so với 49% năm 1949. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến độc quyền đa
ngành, một mặt, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức độc

quyền, việc kinh doanh chun mơn hố hẹp dễ bị phá sản; trái lại việc kinh
doanh tổng hợp tạo điều kiện di chuyển vốn vào những lĩnh vực có lợi nhuận
cao, lấy lãi ở ngành hàng này bù cho những ngành hàng khác gặp khó khăn.
Mặt khác, do tác động của cách mạng khoa học - công nghệ ngày càng làm
cho tư bản cố định bị hao mòn nhanh, một số ngành nhanh chóng trở nên lạc
hậu. Do vậy, trong khi chưa giải toả được những ngành lạc hậu, để tồn tại vẫn
phải phát triển thêm những ngành mới, từ đó làm cho cơ cấu của tập đồn
phình to ra và bao gồm nhiều ngành khác nhau.
Conglomerate, đó là sự liên hợp các tập đồn tài chính ngân hàng khơng
có bất kỳ sự liên quan nào về sản xuất hoặc dịch vụ cho sản xuất. Mục đích chủ
yếu của các cơngơlơmêrết là chiếm đoạt lợi nhuận bằng kinh doanh chứng khốn.
Hình thức độc quyền này xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ XX.
Về cơ cấu: Do sự tác động của cách mạng khoa học - công nghệ, cơ cấu
độc quyền có sự thay đổi. Đó là sự liên kết của các hãng vừa và nhỏ với các
hãng lớn trong một tổ chức độc quyền. Chẳng hạn, vào những năm 1990, số
hãng vừa và nhỏ chiếm hơn 90% tổng số hãng có đăng ký ở các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển và ngày càng có vai trị quan trọng trong nền kinh tế.


Về cơ chế: Cơ chế độc quyền ngày càng bị chi phối bởi cơ chế thị trường
cạnh tranh và cơ chế điều tiết của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Bằng
các chính sách điều tiết đã làm giảm hiệu lực của cơ chế độc quyền, buộc nó
phải tuân thủ cơ chế cạnh tranh. Tuy nhiên, đối với các độc quyền xuyên quốc
gia thì cơ chế này trong chừng mực vẫn còn phát huy tác dụng.
Độc quyền cũng xuất hiện ở cả những nước đang phát triển. Đó là kết
quả của q trình quốc tế hố được đẩy mạnh với sự thâm nhập mạnh mẽ của
công ty xuyên quốc gia vào các nước này, sự ứng dụng những thành tựu của
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, sự hỗ trợ của nhà nước khiến cho
năng lực sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp tăng lên, trở thành
những tổ chức độc quyền.

Có thể thấy rằng các hình thức độc quyền ra đời, tồn tại và phát triển từ
thấp đến cao, độc quyền đi vào mọi nghành, mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh,
nó nắm hầu hết các mạnh máu kinh tế, nên có sức mạnh to lớn. Nhờ nắm được
địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu thơng, các tổ chức độc quyền có
khả năng định ra giá cả độc quyền (giá cả độc quyền thấp đối với những hàng
hóa mua, cao với những hàng hóa bán) qua đó thu được lợi nhuận độc quyền.
Sự ra đời thống trị của các tổ chức độc quyền đánh dấu sự ra đời của
CNTBĐQ, nấc thang phát triển cao của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Đồng thời sự xuất hiện của các tổ chức độc quyền cũng làm biến dạng các quy
luật kinh tế: Quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền; Quy luật
giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật lợi nhận độc quyền.
Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn khơng thốt ly và phủ nhận cơ sở của
nó là giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành giá cả độc quyền chẳng qua là
chiếm đoạt một phần giá trị và thặng dư của người khác. Nếu xét trong toàn bộ
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá trị.
Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động khơng cơng của các
xí nghiệp độc quyền, một phần lao động khơng cơng của các xí nghiệp khơng


độc quyền, một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất do
thua thiệt trong cạnh tranh, lao động thặng dư và đôi khi cả một phần lao động
tất yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động các nước tư bản và các
nước thuộc địa phụ thuộc.
Ở các nước tư bản phát triển hiện nay, bên cạnh các tổ chức độc quyền
lớn lại ngày càng xuất hiện nhiều doanh nghiệp (công ty, hãng) vừa và nhỏ có
vai trị quan trọng trong nền kinh tế. Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và
nhỏ là do: Thứ nhất, việc ứng dụng thành tựu khoa học và cơng nghệ cho phép
tiêu chuẩn hố và chun mơn hố sản xuất sâu, dẫn đến hình thành hệ thống gia
cơng. Đây cũng chính là biểu hiện của độc quyền dưới một dạng mới, thể hiện ở
chỗ là: các hãng, công ty vừa và nhỏ phụ thuộc vào các Consơn và

Conglomerate về nhiều mặt. Sự kiểm soát của độc quyền được thực hiện dưới
những hình thức mới thơng qua quan hệ hợp tác giữa độc quyền lớn với các
hãng vừa và nhỏ. Thông qua quan hệ hợp tác này, các độc quyền lớn sẽ mở rộng
khả năng kiểm sốt sản xuất nói chung, tiến bộ khoa học và cơng nghệ nói riêng.
Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những thế mạnh của nó, đó là: nhạy
cảm đối với thay đối trong sản xuất; linh hoạt ứng phó với sự biến động của thị
trường; mạnh dạng đầu tư vào những ngành mới đòi hỏi sự mạo hiểm; dễ đổi
mới trang thiết bị, kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí bổ sung; có thể kết hợp
nhiều loại hình kỹ thuật để sản xuấtra những sản phẩm có chất lượng cao trong
điều kiện kết cấu hạ tầng hạn chế. Ngoài ra, độc quyền cũng bắt đầu xuất hiện cả
ở những nước đang phát triển. Đó là kết quả của sự thâm nhập của các công ty
xuyên quốc gia vào các nước này và sự ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ
thuật hiện đại khiến cho chỉ một doanh nghiệp lớn cũng đủ sức mạnh chi phối
việc sản xuất và tiêu thụ của cả một ngành mới ra đòi ở mộtnước đang phát triển
và tới mức độ nhất định có thể bành trướng ra bên ngồi. Các tổ chức độc quyền
ln có xu hướng bành trướng quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, xu hướng vận
động của chúng là trở thành các công ty xuyên quốc gia và liên minh với nhà
nước hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đó là biểu hiện mới của


độc quyền và là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
trong những điều kiện mới.
Ngày nay chủ nghĩa tư bản độc quyền đã tiến lên một nấc thang mới đó là
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Khi chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
chuyển sang giai đoạn độc quyền, nó đã tìm thấy khả năng phát triển mới do
thích ứng được với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất vào cuối thế
kỷ XIX. Nhưng sự phát triển đó khơng lâu nó đã khơng đáp ứng được nhu cầu
phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó xuất hiện hình thức mới đó là chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước, lúc này xuất hiện nhà nước tư sản như một chủ sở
hữu tư bản, một nhà tư bản xã hội, đồng thời lại là người quản lý xã hội bằng

pháp luật với bộ máy bạo lực to lớn. Chính điều đó càng làm sáng tỏ bộ mặt của
giai cấp tư sản đã sử dụng bộ máy nhà nước để làm cơng cụ tăng cường bóc lột
lao động làm thuê để tồn tại.
Thực tiễn phát triển của chủ nghĩa tư bản thế giới những thập kỷ gần đây
cho thấy, chủ nghĩa tư bản không thể là con đường để nhân dân ta có thể lựa
chọn. Quả thật những thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học, công nghệ và quản
lý mà chủ nghĩa tư bản đạt được trong những thập kỷ gần đây nhờ ứng dụng
nhanh chóng những tiến bộ của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là
điều chúng ta không thể phủ nhận. Đó là những đóng góp mới của chủ nghĩa tư
bản vào lịch sử phát triển của nhân loại mà trong sự nghiệp xây dựng đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải biết tiếp thu, kế thừa và sử dụng
có chọn lọc. Chủ nghĩa tư bản cũng đạt được một số tiến bộ đáng ghi nhận về
một số lĩnh vực văn hóa, văn minh trong khn khổ chế độ tư bản. Tuy nhiên,
những phát triển, tiến bộ đó khơng làm thay đổi được bản chất của xã hội tư sản
hiện đại, đó vẫn là một xã hội bóc lột và bất cơng. Trên thực tế, ách áp bức bóc
lột của tư bản với người lao động tăng lên gấp nhiều lần nhưng lại được che giấu
vô cùng tinh vi. Sự chênh lệch giữa giàu và nghèo đầu thế kỷ XX là 10 lần thì
hiện nay đã là 50 lần. Chủ nghĩa tư bản ngày nay càng cột chặt người lao động
vào guồng máy sản xuất ra lợi nhuận cho nó bằng những xiềng xích vơ hình


mới. Giai cấp tư sản đang tạo ra những công bằng giả trên nền tảng của những
bất công thật. Chủ nghĩa tư bản ngày nay trong khi còn khả năng tạo ra những
điều “thần kỳ mới” thì mặt phản phát triển của nó cũng ngày càng lộ rõ. Sự vận
động của “xã hội tiêu dùng” kiểu phương Tây gắn với sự lãng phí về của cải và
nguồn lực xã hội làm gay gắt thêm tình trạng cạnh tranh, tác động xấu đến đạo
đức, môi trường. Các nước tư bản phát triển đều công khai thừa nhận không thể
giải quyết được vấn đề xã hội. Đặc biệt là những vấn đề đạo đức, văn hóa, gia
đình do sự thống trị của chủ nghĩa cá nhân cực đoan và lối sống thực dụng. Bởi
vậy, sống trong sự đầy đủ vật chất mà con người vẫn không thấy hạnh phúc.

Trong một xã hội đầy ắp thơng tin và nhộn nhịp đều chóng mặt mà nhiều khi
con người vẫn cảm thấy cô đơn bao giờ hết. Trước đây, nhà bác học vĩ đại Anbe
Anhstanh đã từng lên án chủ nghĩa tư bản luôn phạm phải một tội ác là hủy hoại
con người, biến con người thành nô lệ cho chủ nghĩa vị kỷ trong một cuộc tìm
kiếm sự yên ổn của tâm hồn mình. Trên phạm vi thế giới, chủ nghĩa tư bản ngày
nay là kẻ thống trị, bóc lột, nơ dịch các nước đang phát triển bằng các loại thực
dân kinh tế, công nghệ thơng tin, mơi trường trong q trình tồn cầu hóa hiện
nay và bằng cả các biện pháp bạo lực của chủ nghĩa cường quyền vô liêm sỉ và
trắng trợn nhất như đối với Nam Tư và Irắc vừa qua. Rõ ràng, chủ nghĩa tư bản
dù có những biến đổi, phát triển mới nhưng bản chất của nó vẫn là chế độ bóc
lột, bất cơng đầy những nghịch lý và mâu thuẫn.
II. Ý NGHĨA QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ TẬP TRUNG SẢN
XUẤT VÀ CÁC TỔ CHỨC ĐỘC QUYỀN ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trong xu thế tồn cầu hóa, hội
nhập quốc tế và dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0) hiện nay luôn là vấn đề trở nên cấp
thiết, mang tính tồn cầu, là u cầu khách quan và thách thức lớn của sự phát
triển, được các nước trên thế giới đặc biệt quan tâm. Việt Nam cũng không
ngoại lệ, nhất là chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định


hướng xã hội chủ nghĩa, là một nền kinh tế vừa tuân theo những quy luật kinh tế
khách quan của kinh tế thị trường, vừa được sự dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên
tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Tức là các yếu tố của kinh tế thị trường
phải hình thành đầy đủ, các loại thị trường phát triển đồng bộ với độ minh bạch
cao, được quản lý và giám sát tốt. Từ đó, thị trường xác lập sự cân bằng động
trong phân bố nguồn lực vào các ngành sản xuất và dịch vụ theo tín hiệu thị
trường, bảo đảm hiệu quả kinh tế. Vì thế, trong nền kinh tế của nước ta tất yếu

có sự tập trung sản xuất và sự thâm nhập của các tổ chức độc quyền thế giới,
thậm chí có sự tồn tại, chi phối của các tổ chức độc quyền trong nước. Nghiên
cứu quan điểm của V.
I. Lênin về tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền có ý nghĩa vô cùng quan
trọng, thiết thực đối với nền kinh tế Việt Nam. Là cơ sở lý luận và thực tiễn
quan trọng cho Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển đất
nước, nhất là xây dựng nền kinh tế thị trường có sự định hướng của Nhà nước xã
chủ nghĩa. Ý nghĩa ấy được thể hiện rõ như sau:
1. Tập trung sản xuất là điều kiện quan trọng để xây dựng nền kinh
tế lớn, phát triển nhanh, bền vững
Trong xu thế hội nhập, tồn cầu hóa hiện nay, để ổn định và phát triển
thì nền kinh tế nước ta cần phải đảm bảo có quy mơ lớn, tăng trưởng mạnh
cả về số lượng và chất lượng, đủ sức đứng vững và cạnh tranh với các đối
tác trên thị trường trong và ngoài nước. Đây cũng là quan điểm phát triển
kinh tế của Đảng và Nhà nước ta thời gian qua, chẳng hạn để tạo điều kiện
phát triển kinh tế tư nhân, văn kiện Đại hội Đảng XI nêu rõ: “Hồn thiện cơ
chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong
những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư
nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của
pháp luật. Tạo điều kiện hình thành một số tập đồn kinh tế tư nhân và tư
nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế Nhà nước”.



×