Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận tốt nghiệp vận dụng quan điểm triết học mác lênin về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội vào phát triển ý thức xã hội ở nước ta hiện nay ý nghĩa đối với cán bộ chính trị quân đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.76 KB, 28 trang )

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
Vận dụng quan điểm triết học Mác - Lênin về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
vào phát triển ý thức xã hội ở nước ta hiện nay. Ý nghĩa đối với cán bộ chính trị Quân
đội nhân dân Việt Nam.
Khoa: Triết học Mác - Lênin


2

Trang
MỞ ĐẦU
LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ TÍNH ĐỘC
I.
1.
2.
3.
4.
II.

LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Kết cấu của ý thức xã hội
Tính giai cấp của ý thức xã hội
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ
TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI VÀO
PHÁT TRIỂN Ý THỨC XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.

1. Đặc điểm của ý thức xã hội ở nước ta hiện nay
2. Bối cảnh thời đại và một số vấn đề đặt ra đối với việc phát
triển ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay


3. Một số giải pháp cơ bản trong việc phát triển ý thức xã hội ở
Việt Nam hiện nay
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÁN BỘ CHÍNH TRỊ TRONG QUÂN
III. ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

4
4
5
6
7
9

9
10
15
18

1.

Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng văn hóa chính trị cho đội
ngũ cán bộ, chiến sỹ

19

2.

Phát huy vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong nâng cao
ý thức chính trị của cán bộ, chiến sỹ

20


3.

Xây dựng mơi trường văn hóa chính trị lành mạnh, dân chủ
ở đơn vị cơ sở hiện nay

21

4.

Thường xuyên bồi dưỡng, rèn luyện, năng lực hoạt động
thực tiễn cho cán bộ, nhất là cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở

23

IV. TRÁCH NHIỆM CỦA BẢN THÂN
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

24
27
28


MỞ ĐẦU

Ở mọi thời đại, triết học ln có một vị trí, vai trị quan trọng trong cuộc
sống. Nghiên cứu, vận dụng lý luận triết học vào thực tiễn, giúp chúng ta hiểu
rõ hơn về thế giới, về vị trí vai trò của con người trong thế giới ấy. Thực tiễn
nhiều vấn đề của con người đã được triết học đề cập cụ thể, một trong số đó là

mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội, đặc biệt là tính độc lập tương
đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
Hiện nay, nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện
công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với
xây dựng ý thức xã hội mới thì vận dụng lý luận triết học Mác - Lênin về tính
độc lập tương đối của ý thức xã hội vào thực tiễn lại càng quan trọng hơn bao
giờ hết. Nhất là, trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi thì cũng khơng ít khó khăn, thách
thức đặt ra. Nhận thức rõ vấn đề, trong Đại hội Đảng và Hội nghị Trung ương
các khoá gần đây liên tục đề cập. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra:
“Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó,
ngại khổ, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”. Tại Hội nghị Trung ương 4 khố XIII, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã ban hành Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021, tiếp tục
nhấn mạnh: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo,
quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu,
phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đơi
với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật”.
Tiếp tục nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội và vận dụng lý luận triết học vào phát triển ý thức
xã hội ở nước ta hiện nay là việc làm cần thiết. Qua đó, giúp chúng ta nhận
thức đúng đắn về nó, đồng thời đề ra các chủ trương, giải phải hiệu quả xoá
bỏ những tàn dư cũ, lạc hậu của ý thức xã hội, góp phần xây dựng đất nước
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.


NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG

ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
1. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội

- Khái niệm tồn tại xã hội: Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và
những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Mác và Ănghen viết: “Sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất
ra chính đời sống vật chất của mình”. Khi nghiên cứu tồn tại xã hội với tính
cách vừa là đời sống vật chất, vừa là những quan hệ vật chất giữa người với
người, Lênin đã cho rằng: việc anh sống, anh hoạt động kinh tế, anh sinh con
đẻ cái và anh chế tạo ra các sản phẩm, anh trao tặng sản phẩm, làm nảy sinh
ra một chuỗi tất yếu khách quan gồm những biến cố, những sự phát triển,
không phụ thuộc vào ý thức xã hội của anh và ý thức này khơng bao giờ bao
qt được tồn vẹn cái chuỗi đó. Các yếu tố chính tạo thành tồn tại xã hội là
phương thức sản xuất, điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ
dân số… trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất.
- Khái niệm ý thức xã hội: Ý thức xã hội là khái niệm triết học dùng để
chỉ các hình thái khác nhau của tinh thần trong đời sống xã hội bao gồm
những tư tưởng, quan điểm, tình cảm, tâm trạng, thói quen, phong tục, tập
quán, truyền thống ... của cộng đồng xã hội được sinh ra trong quá trình xã
hội tồn tại và phản ánh tồn tại xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Ví dụ, trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sơng ngịi,...
tất yếu làm hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích hợp nhất
đối với người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm qua. Để
tiến hành được phương thức đó, người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ
chức dân cư làng, xã, có tính ổn định bền vững. Khi nghiên cứu về khái niệm
ý thức xã hội cũng cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý
thức cá nhân. Ý thức cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội ở những mức độ
khác nhau, do đó nó khơng thể khơng mang tính xã hội. Song, ý thức cá nhân
không phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của
một cộng đồng, một tập thể, một xã hội, một thời đại nhất định. Ý thức xã hội



và ý thức cá nhân cùng phản ánh tồn tại xã hội, chúng tồn tại trong mối liên
hệ hữu cơ, biện chứng, xâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau.
2. Kết cấu của ý thức xã hội

Tùy theo góc độ xem xét, có thể chia ý thức xã hội thành các dạng:
- Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận: Ý thức xã hội thong
thường là những tri thức, những quan niệm của con người hình thành một
cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hố,
khái qt hóa; Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống
hoá, khái quát hoá thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng
những khái niệm, phạm trù, qui luật. Ý thức xã hội thơng thường tuy trình độ
thấp hơn so với ý thức lý luận nhưng ý thức xã hội thông thường phản ánh
sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hàng ngày của con người, thường
xuyên chi phối cuộc sống đó. Ý thức xã hội thơng thường là tiền đề quan
trọng cho sự hình thành của học thuyết khoa học. Ý thức lý luận (lý luận khoa
học) có khả năng phản ánh khái quát, sâu sắc, chính xác, nó có khả năng vạch
ra mối quan hệ bản chất của sự vật trong tồn tại xã hội.
- Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng: Tâm lý xã hội bao gồm tồn bộ tình cảm,
ước muốn, thói quen, tập quán của con người, của một bộ phận xã hội hoặc
tồnbộ xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày
của họ vàphản ánh đời sống đó. Tâm lý xã hội có đặc điểm phản ánh trực tiếp
tồn tại xãhội, nhưng đó là trình độ phản ánh thấp, phản ánh tự phát tồn tại xã
hội. Tâm lý xã hội ghi lại những mặt bề ngồi của xã hội nên nó khơng vạch
ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội. Những quan niệm
của con người ở trình độ tâm lý xã hội mang tính chất kinh nghiệm, yếu tố trí
tuệ đan xen với yếu tố tình cảm chưa thể hiện về mặt lý luận. Nó có vai trị
quan trọng trong việc phát triển ý thức xã hội. Hệ tư tưởng là trình độ cao của
ý thức xã hội, hình thành khi con người nhận thức sâu sắc hơn về những điều

kiện sinh hoạt vật chất của mình. Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất
sự vật, vào các mối quan hệ xã hội. Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại


xã hội, là hệ thống những quan điểm tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức,
nghệ thuật, tơn giáo) là kết quả của sự khái quát hoá những kinh nghiệm xã
hội. Hệ tư tưởng được hình thành một cách tự giác, nghĩa là nó được hình
thành tự giác bởi các nhà khoa học và được truyền bá trong xã hội. Hệ tư
tưởng và tâm lý xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác
nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau.
Cả hai đều có nguồn gốc tự tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội. Nhưng
trong đó, tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây trở ngại cho sự hình
thành, sự truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất
định. Mối liên hệ giữa hệ tư tưởng (đặc biệt là tư tưởng khoa học, tiến bộ) với
tâm lý xã hội, với sự sinh động phong phú của đời sống thực tiễn sẽ giúp cho
hệ tư tưởng bớt xơ cứng, giảm sai lầm. Ngược lại, hệ tư tưởng, lý luận xã hội
sẽ làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng khoa học sẽ thúc
đẩy tâm lý xã hội phát triển theo hướng đúng đắn, lành mạnh. Hệ tư tưởng
phản khoa học sẽ kích thích những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát
triển.
3. Tính giai cấp của ý thức xã hội

Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật
chất khác nhau, có những lợi ích khác nhau, địa vị xã hội khác nhau, nên ý
thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức khác nhau. Tính giai
cấp của ý thức xã hội được biểu hiện ở tâm lý xã hội và hệ tư tưởng về tâm lý
xã hội: mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có thiện cảm
hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hay tập đoàn xã hội khác. Ở trình độ hệ tư
tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội được biểu hiện rất sâu sắc. Trong xã
hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng xuất hiện những quan điểm, tư tưởng

hoặc hệ tư tưởng đối lập nhau: đó là tư tưởng của giai cấp thống trị và giai cấp
bị trị, bao giờ bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Những tư tưởng thống trị thời đại
bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và thống trị về chính
trị ở thời đại đó. Sự đối lập đó thể hiện: nếu hệ tư tưởng của giai cấp thống trị,


bóc lột ra sức bảo vệ địa vị của giai cấp đó thì hệ tư tưởng của giai cấp bị trị,
bị bóc lột thể hiện nguyện vọng, lợi ích của quần chúng lao động chống lại xã
hội người bóc lột người để xây dựng xã hội cơng bằng, bình đẳng. Chủ nghĩa
Mác - Lênin là hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân,
ngọn cờ giải phóng của quần chúng bị áp bức, bóc lột, phản ánh tiến trình
khách quan của sự phát triển. Hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin ngay từ
khi hình thành đã đối lập với hệ tư tưởng tư sản-hệ tư tưởng bảo vệ lợi ích của
giai cấp tư sản, bảo vệ chế độ người bóc lột người. Cuộc đấu tranh giữa giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản diễn ra hàng thế kỷ nay và sẽ còn kéo dài trên tất
cả các lĩnh vực trong đó có hệ tư tưởng. Cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực
ý thức hệ vẫn đang tiếp tục diễn ra trong điều kiện xã hội hiện nay. Trước sự
biến động phức tạp của tình hình thế giới, các thế lực thù địch đang ra sức tiến
công vào chủ nghĩa Mác - Lênin, muốn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ
nhận chủ nghĩa xã hội. Do vậy bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
trong điều kiện hiện nay là một nhiệm vụ quan trọng của cuộc đấu tranh vì
mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta và
nhân dân tiến bộ nói chung trên thế giới.
4. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

Tuy khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã
hội, nhưng triết học Mác - Lênin không xem ý thức xã hội như một yếu tố
hoàn toàn thụ động mà trái lại cịn nhấn mạnh sự tác động tích cực trở lại của
ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

được thể hiện trên những điểm sau.
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội, bởi vì về mặt bản chất,
ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội nên với tư cách là cái phản ánh, nó
thường xuất hiện sau tồn tại xã hội - cái bị phản ánh. Ý thức xã hội thường lạc
hậu hơn so với tồn tại xã hội từ những nguyên nhân sau: Do tồn tại xã hội
thường xuyên vận động, biến đổi nhanh chóng nên ý thức xã hội không phản


ánh kịp và trở nên lạc hậu; Do sức mạnh của thói quen, phong tục, tập qn,
nếp nghĩ và tính bảo thủ, lạc hậu của một số hình thái ý thức xã hội (tư tưởng
trọng nam-khinh nữ; gia trưởng); Do sự tác động của quan hệ lợi ích (Giai cấp
thống trị lợi dụng và tìm mọi cách để duy trì và bảo vệ những tư tưởng, quan
niệm cũ, chống lại những lực lượng xã hội tiến bộ nhằm duy trì và bảo vệ
những lợi ích của họ).
- Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội: Trong những điều kiện
nhất định, một số yếu tố của ý thức xã hội có thể phản ánh vượt trước, dự báo
được tương lai của tồn tại xã hội và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động
thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm
vụ mới do sự phát triển của xã hội đặt ra, biểu hiện: Có những tư tưởng vượt
trước là khoa học khi nó xuất phát từ tồn tại xã hội tức là nó phản ánh đúng
được những mối liên hệ bản chất của tồn tại xã hội, tức là nó phản ánh được
logic khách quan, xu thế phát triển tất yếu của tồn tại xã hội; Có những quan
điểm vượt trước khơng khoa học, là phản khoa học, nó sẽ rơi vào sai lầm, ảo
tưởng, chủ quan khi nó xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người chứ
không phải xuất phát từ hiện thực khách quan.
- Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình: Kế thừa là
qui luật chung của các sự vật, hiện tượng nên trong quá trình vận động của ý
thức xã hội nó cũng phải có tính kế thừa. Trong xã hội có giai cấp, tính kế
thừa của ý thức xã hội thường gắn với tính giai cấp. Các giai cấp mới thường
tìm cách giữ lại những yếu tố tư tưởng cũ phù hợp và loại bỏ những yếu tố

khơng phù hợp với lợi ích của giai cấp đó. Mặt khác, sự tồn tại, phát triển của
ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội, mà tồn tại xã hội cũng có tính kế
thừa, nó vận động liên tục nên ý thức xã hội cũng phản ánh q trình đó, nó
có tính kế thừa.
- Theo ngun lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội thì khi tồn tại xã
hội thay đổi sẽ tất yếu dẫn tới sự biến đổi của ý thức xã hội. Tuy nhiên, không
phải trong mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn tại xã hội đều ngay lập tức dẫn


đến sự biến đổi của ý thức xã hội; trái lại nhiều yếu tố của ý thức xã hội có thể
còn tồn tại rất lâu dài ngay cả khi cơ sở tồn tại sản sinh ra nó đã thay đổi căn
bản.
- Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội: Đây là biểu hiện quan

trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin
không những chống lại quan điểm tuyệt đối hố vai trị của ý thức xã hội mà
cịn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường phủ nhận vai trị tích cực của ý
thức xã hội trong đời sống xã hội. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc
tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ TÍNH
ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI VÀO PHÁT TRIỂN Ý
THỨC XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Đặc điểm của ý thức xã hội ở nước ta hiện nay

Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói chung và
nước ta nói riêng là sự đan xen các yếu tố cũ và mới trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Nội dung đó phản ánh hiện thực xã hội với sự pha tạp,
đan xen những yếu tố của xã hội chủ nghĩa và xã hội tư bản, xã hội cổ truyền
rất lớn. Ý thức xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta có

bộ phận tiến bộ, có bộ phận lạc hậu sản phẩm của xã hội cũ như của chủ nghĩa
thực dân cũ, mới và của xã hội cổ truyền phương Đông. Sự đan xen giữa các
bộ phận này tạo nên diện mạo ý thức xã hội ở nước ta hiện nay phức tạp về
kết cấu, đa dạng về thành phần… Trong ý thức xã hội ở nước ta hiện nay, tư
tưởng Hồ Chí Minh có vị trí quan trọng đặc biệt. Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống quan điểm, tư tưởng về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam; là sự kế thừa, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, truyền thống yêu
nước Việt Nam; đồng thời là sản phẩm kế thừa, phát triển tinh hoa văn hoá
của dân tộc và nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đèn soi sáng con
đường cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Hiện nay,
Đảng ta xác định chủ nghĩa Mác- Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh là


nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của cách
mạng Việt Nam. Tư tưởng yêu nước của dân tộc ta là nội dung quan trọng
trong ý thức xã hội ở nước ta hiện nay. Ý thức xã hội chủ nghĩa không chỉ là
sản phẩm của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà cịn có nội dung tư
tưởng sản phẩm kế thừa di sản văn hoá, truyền thống dân tộc.
Hiện thực xã hội ta hiện nay vẫn còn những khuynh hướng khác nhau
trong lựa chọn giá trị, hệ giá trị xã hội và cá nhân. Biểu hiện ở nhận thức chưa
thống nhất về giá trị xã hội; nhận thức, đánh giá khác nhau về chủ nghĩa tư
bản; về nhận thức, quan điểm, ý chí, niềm tin vào sự tất thắng của sự nghiệp
đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Một bộ phận có xu
hướng tư tưởng đề cao giá trị vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần; chú trọng lợi
ích trước mắt, hạ thấp lợi ích cơ bản, lâu dài. Ý thức xã hội ở nước ta hiện nay
đang trong các trạng thái biến đổi nhanh chóng. Điều đó khơng chỉ ở từng bộ
phận, mà trong cả hệ thống. Mỗi tư tưởng đều có những cơ sở kinh tế, xã hội
tương ứng để tồn tại, có xu hướng, quy luật phát triển riêng, có tính độc lập
tương đối của nó. Ý thức xã hội ở nước ta hiện nay vận động theo hai xu
hướng cơ bản, xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Xu hướng xã hội chủ

nghĩa là chủ đạo, nhưng nó ln phải đối mặt với nhiều lực cản tiêu cực từ
nhiều phía bên trong và bên ngồi, khách quan và chủ quan.
2. Bối cảnh thời đại và một số vấn đề đặt ra đối với việc phát triển ý

thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay tồn cầu hố là một xu thế khách quan đã và đang tác động đến
mọi mặt trong đời sống xã hội của các quốc gia, dân tộc. Nó khơng chỉ tạo cơ
hội cho các quốc gia, dân tộc mở rộng sự giao lưu, hiểu biết và xích lại gần
nhau mà cịn đặt những giá trị tinh thần truyền thống của mỗi dân tộc trước
nhiều thách thức to lớn. Ý thức xã hội là một bộ phận thuộc đời sống tinh thần
của xã hội nên đương nhiên cũng chịu sự tác động này.
Từ giữa thế kỷ XIX, khi đưa ra dự báo về sự vận động và phát triển của
tồn cầu hố kinh tế, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã nói đến sự vận động,


biến đổi của các giá trị tinh thần dân tộc và sự hình thành các giá trị văn hố
tinh thần nhân loại. Tồn cầu hố là q trình đấu tranh để xác lập những giá
trị và chuẩn mực trên phạm vi tồn cầu. Đây cũng là q trình đấu tranh để
khẳng định các giá trị đặc thù của các nền văn hố dân tộc. Q trình tồn cầu
hố vừa là quá trình phổ biến những giá trị chung trên phạm vi tồn cầu mang
tính nhất thể hố, vừa là q trình đa dạng hố, q trình tự khẳng định bản
lĩnh và bản sắc của các nền văn hố, trong đó bao hàm các giá trị truyền thống
dân tộc. Đây là quá trình đấu tranh giữa các mặt đối lập, đầy mâu thuẫn, đa
dạng và phức tạp.
Sự tác động mạnh mẽ, toàn diện và sâu sắc của xu thế toàn cầu hoá đối
với các nền văn hoá dân tộc thể hiện rõ thông qua các lĩnh vực sau đây:
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và hệ thống viễn thơng
tồn cầu. Thơng qua khoa học và kỹ thuật cơng nghệ. Thông qua phát triển
thương mại và xuất nhập khẩu văn hố phẩm. Thơng qua dịch vụ giải trí và du
lịch. Thơng qua giao lưu văn hố chính thức và phi chính thức…

Sự tác động này có thể làm biến đổi lối sống, ngơn ngữ, phong tục tập
qn, tín ngưỡng, tôn giáo… của một số cộng đồng dân tộc nhất định. Nó sẽ
tạo ra cả những mặt tích cực cũng như những mặt tiêu cực đối với các giá trị
truyền thống của mỗi quốc gia, dân tộc.
Từ giữa thế kỷ XIX, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác khi đưa ra dự báo
về sự hình thành và phát triển của nền kinh tế tồn cầu đã nói đến nguy cơ áp
đặt các giá trị văn hoá tinh thần của những nước tư bản phát triển đối với các
quốc gia, các dân tộc lạc hậu, chậm phát triển. Trong tác phẩm Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết: “Do bóp nặn thị trường
thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước
mang tính chất thế giới… Nhờ cải tiến mau chóng cơng cụ sản xuất và làm
cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi
cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh. Giá rẻ của
những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn


lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan
cường nhất cũng phải hàng phục. Nó buộc tất cả các dân tộc phải thực hành
phương thức sản xuất tư sản, nếu không sẽ bị tiêu diệt; nó buộc tất cả các dân
tộc phải du nhập cái gọi là văn minh, nghĩa là phải trở thành tư sản. Nói tóm
lại, nó tạo ra cho nó một thế giới theo hình dạng của nó”.
Thực tế hiện nay, nguy cơ áp đặt các giá trị văn hoá tinh thần của các
nước tư bản phát triển đối với các quốc gia, dân tộc chậm phát triển tuy khơng
diễn ra hồn toàn như dự báo của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, song
khơng phải vì thế mà nguy cơ đó khơng tồn tại. Có thể nói một cách chính xác
rằng, bên cạnh những nguy cơ tiềm ẩn cịn có cả những cơ hội cho sự phát
triển những giá trị tinh thần dân tộc, trong đó bao gồm cả ý thức xã hội.
Những mặt tích cực của ý thức xã hội truyền thống nói riêng cũng như
những giá trị tinh thần dân tộc nói chung sẽ có điều kiện để phát triển, nâng
cao lên một bước mới. Sự tác động của tồn cầu hố đó dẫn đến sự hình thành

các giá trị văn hố tinh thần nhân loại chung đó tạo ra những điều kiện và môi
trường thuận lợi cho việc hiện đại hoá, tiên tiến hoá các giá trị văn hoá tinh
thần dân tộc. Tuy nhiên, sự lấn lướt và áp đặt các giá trị văn hoá tinh thần do
các nước tư bản phát triển thực hiện lại đang gây trở ngại khơng nhỏ cho các
giá trị văn hố tinh thần ở các nước chậm phát triển. Vì vậy, việc bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hoá tinh thần ở các nước này trở thành vấn đề nan giải
và là một thách thức lớn. Các giá trị văn hoá tinh thần do các nước tư bản phát
triển áp đặt vào các nền văn hoá của các quốc gia, các dân tộc chậm phát triển
rất có thể làm cho sắc thái văn hoá của các dân tộc này bị mai một, bị phai
nhạt khi ở các quốc gia đó thiếu chiến lược bảo tồn và phát huy các giá trị
truyền thống dân tộc.
Tồn cầu hố kinh tế và sự gia tăng kinh tế tri thức trong thời đại ngày
nay, một khi vượt ra khỏi sự kiểm sốt ở cả bình diện dân tộc lẫn bình diện
quốc tế cịn dẫn đến nguy cơ xáo trộn một cách tự phát trong đời sống văn
hố tinh thần dân tộc. Sức ép tồn cầu hoá và kinh tế tri thức đang trở thành


thách thức đối với thói quen sinh hoạt, lối sống, phong cách tư duy truyền
thống không chỉ đối với mỗi người, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mà còn đối
với cả cộng đồng nhân loại. Những địi hỏi phải thích nghi với các giá trị văn
hoá tinh thần nhân loại chung thậm chí cịn đang tạo nên sự mất phương
hướng trong hoạt động văn hoá tinh thần dân tộc. Một khi định hướng chuẩn
mực trong hoạt động văn hoá tinh thần dân tộc khơng được giữ vững thì nguy
cơ tha hố và tự tha hố của nó là điều khó tránh khỏi. Nguy cơ này gắn với
ảo tưởng về sức mạnh cải tạo, hiện đại hoá diệu kỳ của các giá trị văn hoá tinh
thần nhân loại chung đối với các giá trị văn hoá tinh thần dân tộc do tồn cầu
hố mang lại (nhiều người gọi đây là chủ nghĩa lạc quan khơng tưởng). Khát
vọng giải thốt khỏi mặc cảm của một quốc gia, một dân tộc chậm phát triển
nhờ tiếp nhận các giá trị văn hoá tinh thần nhân loại chung luôn đi kèm với
nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc trong các giá trị văn hoá tinh thần truyền

thống. Trái ngược với nguy cơ tha hoá này nhưng lại cùng song hành vói nó
là nguy cơ “biệt lập hoá” các giá trị văn hoá tinh thần dân tộc trước những giá
trị văn hoá tinh thần nhân loại chung. Sự biệt lập hoá này làm mất đi cơ hội
nhanh chóng hiện đại hố, tiên tiến hố các giá trị văn hoá tinh thần dân tộc
và khả năng hội nhập, tiếp biến các giá trị văn hoá tinh thần nhân loại chung
để làm giàu thêm bản sắc văn hố dân tộc.
Trước nguy cơ tha hố đó, để khơng tự đánh mất mình, khi hội nhập, mở
rộng, giao lưu văn hoá, tiếp biến các giá trị văn hoá trong khu vực và trên
phạm vi quốc tế, việc tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại phải được đặt
trên cơ sở của việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá tinh thần truyền
thống và bản sắc dân tộc.
Tồn cầu hố với xu hướng gia tăng kinh tể tri thức trong bối cảnh đầy
những biến động sâu sắc, khó lường, trên cả phạm vi khu vực lẫn quốc tế. Nó
đang có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội, tới hệ thống các
giá trị, các quy phạm đạo đức, tới đời sống tâm hồn, tình cảm và nhân cách
con người trong mọi quốc gia, dân tộc. Q trình này khơng chỉ làm nảy sinh


sự xâm nhập, bổ sung lẫn nhau giữa các hệ thống giá trị, các chuẩn mực đạo
đức, các quy tắc ứng xử truyền thống mà còn xuất hiện cả sự tác động, xung
đột lẫn nhau giữa các giá trị đó. Điều đó địi hỏi mỗi quốc gia, mỗi dân tộc
phải có cách thức riêng của mình để vừa có thể hội nhập, tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại làm phong phú thêm đời sống tinh thần dân tộc mà vẫn bảo tồn
được bản sắc và các giá trị tinh thần truyền thống.
Đối với Việt Nam hiện nay, quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường và tham gia hội nhập quốc tế nó tạo cho nền kinh tế nước ta có những
bước phát triển đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
nâng cao và điều này nó góp phần ổn định chính trị - xã hội. Song, những mặt
trái của tồn cầu hố đang làm chao đảo nhiều giá trị tinh thần nói chung,
nhân cách con người nói riêng. Đặc biệt, một số giá trị đạo đức tốt đẹp, thiêng

liêng… vốn có vị trí quan trọng trong hệ giá trị văn hố truyền thống của dân
tộc đang có nguy cơ bị mai một và tha hố.
Tồn cầu hố kinh tế nó mang lại một thị trường hàng hố vơ cùng đa
dạng, phong phú, giá rẻ… vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của con người, vừa
kích thích tâm lý tiêu dùng trong mọi tầng lớp xã hội, tạo tâm lý hưởng thụ,
xa hoa, lãng phí, xa lạ với lối sống giản dị, tiết kiệm - những phẩm chất quý
báu của con người Việt Nam. Thêm vào đó là sự xuất hiện của lối sống chạy
theo vật chất, coi thường các giá trị tinh thần, tâm lý hướng ngoại, thích dùng
hàng ngoại… Điều này nó tác động tiêu cực đến tư duy và lối sống của một
bộ phận lớn nhân dân, nhất là thanh niên. Thực tế cho thấy trong thời gian
qua, trong thanh thiếu niên đã có những biểu hiện coi nhẹ hoặc không quan
tâm đến các giá trị truyền thống của dân tộc, chạy theo lối sống, thị hiếu
không lành mạnh, xa lạ với con người Việt Nam. Lối sống thực dụng, cá nhân
vị kỷ, coi trọng đồng tiền, sự xuống cấp về đạo đức, tệ nạn xã hội gia tăng
đang đe dọa, làm xói mịn những giá trị truyền thống dân tộc.
Với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều sản phẩm văn hố từ
bên ngồi được du nhập vào Việt Nam trên các mạng thơng tin tồn cầu,


trong đó có những sản phẩm có giá trị, song cũng khơng ít những sản phẩm
độc hại… Những sản phẩm độc hại này đã góp phần hình thành ở một bộ
phận thanh thiếu niên lối sống buông thả, bạo lực, tình dục… xa lạ, trái với
những giá trị nhân văn lâu đời của dân tộc. Tội phạm xã hội gia tăng, trong đó
có những tội danh mới và rất nguy hiểm như: khủng bố cá nhân, tống tiền, bắt
cóc trẻ em, buôn bán phụ nữ, buôn bán ma túy, môi giới mại dâm… Đặc biệt,
số phụ nữ phạm tội và các vụ phạm tội do lứa tuổi vị thành niên thực hiện có
chiều hướng gia tăng.
Từ thực trạng trên cho thấy, xu thế tồn cầu hố đang tác động đến
những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam theo cả hướng tích
cực lẫn tiêu cực. Một mặt, nó “góp phần nâng cao trình độ tư duy khoa học

của xã hội công nghiệp, thể hiện ở việc phổ biến các giá trị văn hố cơng
nghệ, văn hố thơng tin cùng các hoạt động và loại hình văn hố mới phục vụ
cho việc nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân”. Mặt khác, nó cũng đang
đặt ra trước dân tộc ta những thách thức lớn trong việc giữ gìn và phát huy
những giá trị văn hố truyền thống. Vì vậy, giữ gìn và phát huy những giá trị
tốt đẹp trong đời sống tinh thần dân tộc trong xu thế tồn cầu hố hiện nay là
một u cầu tất yếu, một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay.
3. Một số giải pháp cơ bản trong việc phát triển ý thức xã hội ở Việt

Nam hiện nay
- Tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử và truyền thống cách
mạng của dân tộc cho các thế hệ trẻ: Với sự phát triển mạnh mẽ của các
phương tiện thông tin đại chúng hiện đại như hiện nay, với sự không kiểm
sốt nổi nhiều nội dung mà các phương tiện đó chuyển tải nó ảnh hưởng đến
việc nhận thức các giá trị truyền thống của dân tộc. Khơng ít người đã bị
những lợi ích vật chất cám dỗ, chạy theo lối sống hưởng thụ, không quan tâm
hoặc coi thường các giá trị văn hố truyền thống dân tộc, cho đó là những cái
xưa cũ, lỗi thời. Do vậy, cần tuyên truyền giáo dục truyền thống cách mạng,
truyền thống lịch sử nhằm vun đắp và phát huy niềm tự hào dân tộc, đặc biệt


là cho lớp trẻ, những người chủ tương lai của đất nước, hướng họ đến với các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, cội nguồn tạo nên bản sắc văn hoá,
cốt cách và sức mạnh của con người Việt Nam. Lớp trẻ hiện nay thường có xu
thế hướng sự chú ý vào các ngôi sao màn bạc hay những ca sỹ nổi tiếng mà ít
quan tâm đến các sự kiện lịch sử trọng đại và truyền thống văn hoá dân tộc.
Do vậy, cần khai thác lợi thế do các phương tiện truyền thông hiện đại đem lại
để giáo dục truyền thống lịch sử và truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ.
Đây là giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng hiện nay.
- Xác lập bản lĩnh văn hố dân tộc Việt Nam trong q trình hội nhập

quốc tế: Trong xu thế tồn cầu hố hiện nay, chúng ta đang có những cơ hội,
điều kiện thuận lợi để tiếp nhận các giá trị, tinh hoa văn hoá nhân loại nhằm
làm giàu thêm, phong phú thêm các giá trị văn hố của dân tộc mình. Nhưng,
như đã phân tích ở trên, tồn cầu hố khơng những tạo ra những cơ hội, điều
kiện thuận lợi mà cịn đặt ra vơ vàn thách thức, khó khăn đối với mọi quốc
gia, dân tộc. Để tồn tại và phát triển trong bối cảnh tồn cầu hố, trên phương
diện ý thức tinh thần, chúng ta cần tiếp cận các giá trị văn hoá của nhân loại
để hiện đại hoá nền văn hoá dân tộc, song cũng cần giữ gìn, phát huy các giá
trị truyền thống để khơng bị hồ tan, khơng đánh mất bản thân mình. Hơn
nữa, phải biến các giá trị đó thành sức mạnh nội sinh để nâng đất nước ta lên
tầm cao mới. Chính vì vậy, chúng ta cần phải xác lập được bản lĩnh văn hoá
Việt Nam, khẳng định được những giá trị tốt đẹp trong ý thức truyền thống
dân tộc, làm phong phú thêm nội dung các giá trị truyền thống đó, tạo nền
tảng văn hố tinh thần cho sự phát triển bền vững của đất nước. Việc bảo vệ,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố dân tộc khơng có nghĩa là chỉ quay về
bảo vệ các giá trị văn hố đó có trong lịch sử mà điều cốt lõi là phải sáng tạo
các giá trị văn hoá mới phản ánh bản lĩnh, cốt cách, lối sống của dân tộc. Một
trong những trọng tâm để bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc hiện nay là phải
sáng tạo các giá trị văn hoá mới khẳng định tầm vóc, sức sống và truyền thống
bất diệt của dân tộc.


- Tăng cường mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế về văn hố: Trong xu
thế tồn cầu hố hiện nay, chủ động giao lưu hợp tác quốc tế về văn hố là
u cầu cấp thiết để vừa có thể giới thiệu những thành tựu văn hoá của Việt
Nam với cộng đồng quốc tế, vừa có thể tiếp nhận những thành tựu tiến bộ và
tích cực của văn hố thế giới, làm giàu cho nền văn hoá dân tộc. Bảo vệ và
phát huy bản sắc văn hố dân tộc khơng có nghĩa là biến văn hố dân tộc
thành “bảo tàng”, “cố định hố”, “khép kín”, mà phải “năng động hố”, tạo
cho nó một nguồn lực mới có khả năng thích nghi với sự biến đổi của thời đại

để phát triển liên tục. Đó là một thách thức lớn đối với nền văn hố Việt Nam
hiện nay. Q trình giao lưu văn hoá quốc tế hiện nay cũng diễn ra hết sức
phong phú và đa dạng bằng nhiều con đường khác nhau. Đặc biệt, sự phát
triển của công nghệ thông tin nó làm biến đổi cách thức giao lưu văn hố giữa
các dân tộc khác nhau. Vì vậy, cần phải lưu ý tới sự biến đổi của các hình
thức giao lưu văn hố trong xu thế tồn cầu hố để có thể xử lý một cách khoa
học các tình huống xảy ra nhằm đảm bảo giữ vững định hướng phát triển và
bảo tồn những giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Khơng ngừng hồn thiện ý thức xã hội mới theo hướng khoa học,
cách mạng, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội mới, con người mới:
Sự phát triển xã hội khơng chỉ có đời sống vật chất mà cịn có đời sống văn
hố tinh thần. Đó là hai mặt khơng thể thiếu và giữa chúng có sự gắn bó, tác
động tương hỗ lẫn nhau và cũng có thể kìm hãm nhau trong q trình phát
triển. Từ trong bản chất, những giá trị văn hoá tinh thần đó mang tính nhân
văn chứa đựng những cái đúng, cái đẹp được cộng đồng dân tộc sáng tạo, lưu
giữ, truyền lại cho thế hệ sau thành truyền thống văn hoá, thành hồn thiêng
dân tộc. Các truyền thống này được chuyển tải vào trong các lĩnh vực chính
trị, đạo đức, pháp luật, nghệ thuật, tôn giáo, phong tục tập qn… tạo thành
mơi trường văn hố ni dưỡng đời sống tinh thần mỗi cá nhân và cộng đồng.
Muốn xây dựng ý thức xã hội mới theo hướng tiến bộ, trước hết, cần đẩy
mạnh công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. Nghiên cứu sự vận động của


lịch sử qua các thời kỳ, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát: “Không phải ý
thức của con người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại, tồn tại xã hội của họ
quyết định ý thức của họ”. Ý thức xã hội luôn bị chi phối bởi điều kiện sinh
hoạt vật chất, điều kiện kinh tế của xã hội mới. Muốn xây dựng ý thức xã hội
mới phải bắt đầu từ việc xây dựng đời sống vật chất của xã hội. Đây chính là
nền tảng của việc xây dựng ý thức khoa học, tiến bộ, lành mạnh trong xã hội.
- Phát triển ý thức xã hội mới cần kết hợp chặt chẽ với việc khắc phục

những biểu hiện lệch lạc về tư tưởng và sự lạc hậu trong lĩnh vực tâm lý xã
hội: Cần chủ động xây dựng ý thức xã hội mới đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, cần trang bị cho con người những tri
thức mới của thời đại, tri thức về kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đặc biệt
là những tri thức về khoa học và cơng nghệ… Đi cùng với nó là việc bồi
dưỡng lý tưởng sống, hoài bão, ước mơ, khát vọng cống hiến, đặc biệt là đối
với thế hệ trẻ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc xây dựng và phát huy ý thức làm
chủ trong nhân dân, bồi dưỡng và phát huy lòng yêu nước, ý thức về dân tộc
và tinh thần đoàn kết dân tộc; nâng cao ý thức phòng chống tham nhũng, lãng
phí, trước hết là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cùng với việc xây dựng ý
thức xã hội mới, cần chống những biểu hiện cản trở sự nghiệp xây dựng đó.
Về hệ tư tưởng, cần tập trung khắc phục tình trạng suy thối về tư tưởng chính
trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên với các biểu hiện như: dao động về lý
tưởng, mục tiêu và con đường phát triển của dân tộc, phủ nhận thành quả cách
mạng và giá trị truyền thống của dân tộc, không thực hiện đúng chính sách
của Đảng và Nhà nước, mất cảnh giác trước âm mưu của các lực lượng thù
địch…
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, phát huy vai trị của các
phương tiện thơng tin đại chúng trong việc xây dựng ý thức xã hội mới:
Trong công tác tư tưởng, chúng ta cần bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư,
nguyện vọng và tìm ra những vướng mắc trong tư tưởng của cán bộ, đảng
viên và nhân dân để kịp thời giải đáp. Tăng cường vai trò của báo chí và các


phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước, định hướng dư luận theo hướng tích cực. Tăng
cường cơng tác tun truyền, giáo dục các giá trị truyền thống cho toàn xã
hội, đặc biệt là cho thế hệ trẻ thông qua gia đình, nhà trường và các phương
tiện truyền thơng đại chúng. Giải pháp này nhằm giữ gìn, phát huy các giá trị
truyền thống Việt Nam và hình thành nên những con người có phẩm chất đạo

đức, biết yêu quê hương đất nước, quyết tâm đưa đất nước thốt khỏi đói
nghèo, lạc hậu. Các giá trị truyền thống như lòng yêu nước, lịng nhân ái, tinh
thần đồn kết cộng đồng, tinh thần hiếu học… có được trong mỗi con người
khơng thể tách rời quá trình giáo dục, trước hết là giáo dục trong gia đình. Gia
đình là mơi trường gần gũi nhất của con người, là tế bào của xã hội.
III. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÁN BỘ CHÍNH TRỊ TRONG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM

Cán bộ chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận cán
bộ của Đảng, hoạt động trên lĩnh vực quân sự; là đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam, sĩ quan quân đội, được giao nhiệm vụ, chức trách chủ trì về chính
trị, tiến hành cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong qn đội, nhằm xây dựng
tổ chức đảng, đơn vị trong sạch, vững mạnh toàn diện, bảo đảm cho quân đội
mang bản chất giai cấp cơng nhân, tính nhân dân, tính dân tộc, trung thành
tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc, với nhân dân; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Theo đó, các đơn vị
trong quân đội có đội ngũ cán bộ chính trị được bố trí từ cấp đại đội đến cấp
quân khu, quân chủng, bộ đội biên phòng, quân đoàn, binh chủng và các cấp
tương đương. Đội ngũ cán bộ chính trị trong qn đội có trình độ, chun sâu
về lĩnh vực chính trị, am hiểu về quân sự và một số công tác chuyên môn
được đảm nhiệm ở đơn vị. Trước yêu cầu mới, Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ
xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một
số quân chủng, binh chủng thực hiện tiến thẳng lên hiện đại, lấy xây dựng về
chính trị làm cơ sở. Do đó, để giữ gìn và xây dựng ý thức xã hội mới trong


Qn đội thì vai trị của đội ngũ cán bộ chính trị hết sức quan trọng; cần thực
hiện tốt một số giải pháp sau:
1. Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng văn hóa chính trị cho đội ngũ cán
bộ, chiến sỹ

Thứ nhất, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nội dung cốt lõi của văn hóa chính trị. Do
vậy, để nâng cao văn hóa chính trị cho cán bộ, chiến sỹ ở đơn vị, trước hết
phải học tập, nắm vững tư tưởng, lý luận chính trị của Đảng. Một trong những
nguyên nhân dẫn tới tình trạng suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng của một bộ phận cán bộ, đảng viên là
ngại học lý luận chính trị. Do đó, cần qn triệt, truyền bá, xác lập, duy trì và
bảo đảm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính
trị của Đảng giữ vị trí, vai trị chủ đạo trong đời sống tư tưởng của cán bộ,
chiến sỹ ở đơn vị. Cùng với đó: “Tăng cường đổi mới nội dung, phương thức
và nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo sự chuyển
biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên về tầm
quan trọng của nghiên cứu, học tập lý luận chính trị, đề cao trách nhiệm tự
học, tự nghiên cứu của cá nhân”. Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao
trình độ lý luận bắt buộc đối với cán bộ, chiến sỹ. Phát huy ý thức tự giác của
cán bộ chính trị ở đơn vị trong học tập chủ nghĩa Mác - Lênin: “Có học tập lý
luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường,
nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm được tốt cơng tác Đảng
giao phó cho mình”.
Thứ hai, chú trọng giáo dục, bồi dưỡng niềm tin, hành vi chính trị chuẩn
mực cho cán bộ, nhất là cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở hiện nay. Cán bộ
chính trị ở đơn vị cơ sở chủ trì về chính trị thì yếu tố đầu tiên phải vững vàng
về tư tưởng chính trị, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Bởi
vì: “Chính trị viên là người giữ kim chỉ nam cho đơn vị mình đi đúng hướng



×