Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tiểu luận tốt nghiệp tính tất yếu và

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.45 KB, 22 trang )

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

Người chấm
(Ký ghi rõ họ tên)

Số phách
(Do Ban Khảo thí ghi)

Điểm
Bằng số

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
Họ và tên: HỒNG KIM SANH
Ngày sinh: 18/6/1982.
Lớp, trường: Hồn chỉnh chương trình CCLLCT/ Trường
QSQK7.
Khóa: 11.
Ngày nộp: 24/8/2022.

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
Chủ đề: Tính tất yếu và cấp bách của đổi mới
ở Việt Nam.
Khoa: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lớp, trường: Hồn chỉnh chương trình cao cấp
lý luận chính trị/ Trường QSQK7.
Khóa: 11.
Ngày nộp: 24/8/2022.

Số phách
(Do Ban Khảo thí ghi)


Bằng chữ


2
MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU

3

NỘI DUNG

4

TÌNH HÌNH XÃ HỘI VIỆT NAM TRƯỚC ĐỔI MỚI (1975 I

4

1986).

TÍNH TẤT YẾU VÀ CẤP BÁCH PHẢI ĐỔI MỚI Ở
II

VIỆT NAM.

2

Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về CNXH và con đường đi lên CNXH.

Thực tiễn quá trình nhận thức của Đảng về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam thời kỳ trước đổi mới.

3

Xuất phát từ tình hình thực tiễn kinh tế - xã hội ở Việt
Nam sau năm 1975 đến trước đổi mới.

1

5
5
8

13

MỘT SỐ THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG QUÁ
TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM.

15

1

Về thành tựu.

15

2

Về hạn chế.


16

LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM BẢN THÂN.

18

III

IV

KẾT LUẬN.

20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

22


3
MỞ ĐẦU

Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ
đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”… Việt Nam kiên định đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa, là một hình mẫu đặc thù của chủ nghĩa xã hội với
điểm xuất phát thấp và phải gánh chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh. Mỗi nhiệm
kỳ đại hội của Đảng là một chặng đường, xác định đúng mục tiêu, nhiệm vụ và kết
quả đạt được của nhiệm kỳ trước tạo tiền đề phát triển cho nhiệm kỳ sau.
Hơn 35 năm đổi mới là giai đoạn quan trọng của sự nghiệp phát triển đất nước,

đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt của Ðảng, Nhà nước và nhân dân, là sáng tạo có
tính tất yếu, tồn diện để gạt bỏ, tháo gỡ những vướng mắc, giải phóng năng lực sản
xuất, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước. Quá trình hình thành và
phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là thành tựu lý luận to lớn của Đảng ta.
Nhìn lại hơn 35 năm thực hiện cơng cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, tồn
diện. Quy mơ, trình độ nền kinh tế được nâng lên, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đây là niềm tự hào, là động lực,
nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi
mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Ngày nay, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện
đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, bảo vệ
mơi trường,... khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự
phát triển nhanh và bền vững đất nước. Trước hết là tập trung hoàn thiện toàn
diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trên cơ sở thống
nhất nhận thức đây là mơ hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, việc nghiên cứu nắm vững “Tính tất yếu và
cấp bách của đổi mới ở Việt Nam” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc.


4
NỘI DUNG
I. TÌNH HÌNH XÃ HỘI VIỆT NAM TRƯỚC ĐỔI MỚI (1975 - 1986).

Sau ngày giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước 30 tháng 4
năm 1975, Việt Nam thống nhất về mặt lãnh thổ và tiếp sau đó là thống nhất về
chế độ chính trị. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt

Nam tự giải tán và chính thức hợp nhất với chính quyền Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa để ra đời chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam cũng tuyên bố hợp nhất với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.
Những năm đầu sau giải phóng, đất nước gặp mn vàn khó khăn, việc
thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm 1976-1980 không được như kỳ vọng mục tiêu
đặt ra. Bên cạnh đó, nguồn viện trợ từ phía các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN)
giảm sút. Đặc biệt, viện trợ từ Trung Quốc chấm dứt hoàn toàn từ năm 1977.
Các nguồn viện trợ này gồm những mặt hàng quan trọng như gạo,
sợi, đường, sữa, vải vóc, thuốc men, v.v… Sau khi tham gia Hội đồng Tương trợ
Kinh tế, Việt Nam phải theo thể chế giá của khối này, trong đó có nguyên tắc
giá trượt. Với nguyên tắc này, mức viện trợ 1,5 tỷ ruble cho Việt Nam chỉ có sức
mua bằng 600-700 triệu ruble trước khi vào khối. Thứ hai, từ năm 1978, Khmer
Đỏ tấn cơng Việt Nam trên tồn tuyến biên giới. Chi tiêu cho quốc phịng của
Việt Nam vì vậy tăng mạnh. Tháng 01 năm 1979, Việt Nam phản công đánh
sang Campuchia. Chiến sự ở biên giới phía Bắc bùng nổ. Chi phí quốc phòng lại
càng tăng vọt. Viện trợ cho Lào và Campuchia cũng tăng lên. Trong khi đó,
nhiều nước phương Tây và Nhật Bản vốn có viện trợ cho Việt Nam đã ngừng
cung cấp viện trợ. Thứ ba, cuối năm 1978 và cả năm 1979, đồng bằng sông Cửu
Long chịu những trận lũ lớn, diện tích canh tác bị ngập úng tới 5-6 tháng. Thứ
tư, và quan trọng nhất, là cơ chế kinh tế mới áp dụng ở miền Nam đã khiến cho
nền kinh tế miền Nam nói riêng và cả nước nói chung sa sút.
Sau những nỗ lực phát triển kinh tế theo đường lối cơng nghiệp hố, nền
kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm, thậm chí vào cuối thời kỳ kế hoạch 5 năm


5
lần thứ II, những năm 1979-1980, sản xuất công nghiệp lâm vào trì trệ, suy
thối. Trước tình hình đó, Hội nghị trung ương 6 khoá IV năm 1979 đã chỉ ra
những sai lầm trong lãnh đạo kinh tế, chủ yếu là quản lý kế hoạch hoá tập trung

bao cấp, chưa kết hợp kế hoạch với thị trường, chưa khai thác sử dụng các thành
phần kinh tế tư sản dân tộc và cá thể ở miền Nam, chậm khắc phục trì trệ, bảo
thủ trong xây dựng các chính sách cụ thể, trong đó có chính sách phát triển cơng
nghiệp, có biểu hiện giản đơn trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam.
Những điểm mới trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
về cơng nghiệp hố trong giai đoạn 1981-1985 là: điều chỉnh mối quan hệ giữa
công nghiệp và nông nghiệp, giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ; trong
cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với cơng nghiệp đã chú ý hơn tới các hình thức thích
hợp; trong cải tiến quản lý cơng nghiệp đã có những cải tiến theo hướng mở
rộng quyền tự chủ cho xí nghiệp và các hợp tác xã. Tuy nhiên, vẫn cịn hạn chế
là chưa thấy được sự cần thiết xố bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp. Nói cách khác, mặc dù có một số điều chỉnh trong đường lối
và chính sách, một số cải tiến về quản lý kinh tế, song về cơ bản, mơ hình kinh
tế và cơng nghiệp hố của nước ta vẫn chưa thay đổi. Đường lối, chính sách kinh
tế và cơng nghiệp hố đã có tác động mạnh mẽ đến phát triển cơng nghiệp trong
thời kỳ này.
II. TÍNH TẤT YẾU VÀ CẤP BÁCH PHẢI ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
CNXH và con đường đi lên CNXH.
Trước hết, các nhà kinh điển Mác - Lênin đã chỉ ra cho giai cấp vô sản và nhân
dân lao động thế giới thấy rằng: Đi lên CNXH và chủ nghĩa Cộng sản là yêu cầu
khách quan của cách mạng vô sản. Bởi vì, cách mạng vơ sản là cuộc cách mạng sâu
sắc, tồn diện và khó khăn nhất, hướng tới mục tiêu triệt để là giải phóng xã hội, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người; cách mạng vơ sản vừa nhằm cải tạo xã hội cũ,
đồng thời xây dựng một xã hội mới tốt đẹp, đó là cuộc biến đổi, cuộc đấu tranh gay


6
go, phức tạp giữa các tầng lớp nhân dân lao động với giai cấp tư sản, giữa con đường

XHCN và tư bản chủ nghĩa.
C.Mác và Ph.Ăngghen khi viết về chế độ phân phối theo lao động trong giai
đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, coi đó là tàn dư của pháp quyền tư sản đã chỉ rõ:
“Nhưng đó là những thiếu sót khơng thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội
cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những
cơn đau đẻ kéo dài”. Trong lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất bộ "Tư bản"
C.Mác viết: “Tơi coi sự phát triển của những hình thái KT-XH là một quá trình lịch
sử - tự nhiên”. Ph.Ăngghen cũng khẳng định: “Lịch sử từ xưa đến nay đã tiến triển
theo kiểu một quá trình tự nhiên, và về căn bản, cũng bị chi phối bởi quy luật vận
động như nhau”.
Dẫu luôn giữ quan niệm coi sự phát triển của các hình thái KT-XH là một quá
trình lịch sử - tự nhiên, song C.Mác và Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Nó có thể rút ngắn
và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ”. Điều đó có nghĩa rằng q trình lịch sử- tự
nhiên chẳng những có thể diễn ra tuần tự từ hình thái KT-XH này lên hình thái kinh tế
xã hội khác, mà cịn có thể diễn ra bằng con đường bỏ qua một giai đoạn phát triển nào
đó, bỏ qua một hình thái KT-XH nào đó trong những điều kiện khách quan và hoàn
cảnh lịch sử cụ thể. Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen cịn phân các hình thái KT-XH
thành các giai đoạn phát triển nhất định. Mỗi giai đoạn ấy lại được chia thành các giai
đoạn khác nhau. Hình thái KT-XH Cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp lên cao, từ giai
đoạn XHCN lên giai đoạn cộng sản chủ nghĩa.
Kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo những luận điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin trong khi chuẩn bị viết tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” đã
làm một tập bút ký nhan đề “Chủ nghĩa Mác và vấn đề nhà nước”. Trong tập ký đó,
ơng đã đã khái quát tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về các giai đoạn phát triển
của hình thái cộng sản chủ nghĩa: “Những cơn đau đẻ kéo dài”, “Giai đoạn đầu của
xã hội cộng sản chủ nghĩa”, “Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa”
Như thế, giữa C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin khơng có sự khác nhau căn
bản trong quan niệm về bước chuyển biến từ hình thái KT-XH tư bản chủ nghĩa sang



7
hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa. V.I.Lênin chỉ rõ: “Tính quy luật chung của sự
phát triển trong lịch sử tồn thế giới đó khơng loại trừ mà trái lại, cũng bao hàm một số
giai đoạn phát triển mang những đặc điểm, hoặc về hình thức, hoặc về trình tự của sự
phát triển đó”. Tính phong phú, đa dạng nói lên tính độc đáo riêng trong lịch sử phát
triển của mỗi dân tộc. Đồng thời, tính phong phú đa dạng đó một mặt thể hiện ở chỗ
cùng một hình thái KT-XH, nhưng ở các nước khác nhau, có những hình thức và bước
đi cụ thể khác nhau. Do đó, trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải vận dụng một cách
sáng tạo những quy luật chung vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc để tìm
ra con đường phát triển một cách đúng đắn nhất. V.I.Lênin đã chỉ ra: “Với sự giúp đỡ
của giai cấp vô sản tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô Viết và qua
những giai đoạn phát triển nhất định tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Trong “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa” Lênin đã đề cập nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề hết sức quan trọng là:
Các nước chậm tiến với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản có thể bỏ qua con đường tư bản
chủ nghĩa tiến thẳng lên CNXH, còn bằng phương pháp nào là tùy thuộc vào điều kiện
hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở từng dân tộc. Một nước mà càng xuất phát từ trình độ phát
triển thấp bao nhiêu thì càng phải chuẩn bị một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ và
phức tạp bấy nhiêu. Vì lợi ích cơ bản của CNXH, khắc phục nhanh chóng sự lạc hậu
về trình độ phát triển kinh tế, cách mạng phải biết sử dụng các lực lượng thị trường, sử
dụng ngay cả tư bản trong nước và ngoài nước để xây dung CNXH.
Như vậy, với quan điểm đúng đắn, khoa học, các nhà kinh điển Mác - Lênin đã
chỉ ra cho giai cấp vô sản và nhân dân thế giới thấy rằng đi lên CNXH và chủ nghĩa
cộng sản là tất yếu khách quan của xã hội loài người. Tuy nhiên, ở từng dân tộc cần có
sự vận dụng, phát triển, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với những hình
thức, bước đi phù hợp, chủ động, sáng tạo không rập khuôn, máy móc.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cần căn cứ vào đặc điểm
lịch sử cụ thể của mỗi nước để xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Người viết: “Tùy vào hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác



8
nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (Cộng sản),…Có nước thì phải
kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (Cộng sản)…”.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, trong đó bao trùm lớn nhất là đặc điểm từ một nước nông nghiệp
lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa. Vì vậy, khi nói về độ dài của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ: “Xây
dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu
dài”. Người chỉ rõ: “Ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì
khó khăn cịn nhiều và lâu dài”, “phải làm dần dần”, “không thể một sớm, một
chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh
về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước, “bước ngắn,
bước dài, tùy theo hoàn cảnh”, nhưng “chớ ham làm mau, ham rầm rộ……Đi bước
nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần dần”.
2. Thực tiễn quá trình nhận thức của Đảng về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam thời kỳ trước đổi mới.
Từ thực tiễn quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc, là quá trình Đảng từng
bước bổ sung, phát triển thêm những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam, thể hiện qua các Hội nghị Trung ương như: Hội nghị Trung ương
lần thứ 10 (1964) về lưu thông phân phối và hình thành tư tưởng về 3 cuộc cách mạng,
về mối quan hệ giữa công - nông nghiệp; Nghị quyết Trung ương 19 (1971) hình
thành lý luận về xây dựng CNXH trong điều kiện chiến tranh, về mối quan hệ giữa
chuyên chính vơ sản và quyền làm chủ của nhân dân; Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ 22 về khôi phục phát triển kinh tế miền Bắc... Như vậy, từ sau Đại hội
III, những vấn đề lý luận về xây dựng CNXH từng bước được Đảng ta bổ sung phát
triển phù hợp với thực tiễn xây dựng CNXH, trong hoàn cảnh chiến tranh của miền
Bắc. Đây là yếu tố quyết định tạo nên thắng lợi của sự nghiệp xây dựng miền Bắc
XHCN - hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền Nam thắng Mỹ, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc và đưa cả nước đi lên CNXH.

Thắng lợi này, một lần nữa chứng tỏ sức sống của CNXH, tỏ rõ sự lựa chọn đúng đắn


9
của Đảng về con đường phát triển của Việt Nam trong thời đại ngày nay. Con đường
ấy chính là con đường XHCN mà ngay trong cách mạng giải phóng dân tộc, độc lập
dân tộc đã gắn liền với CNXH. Sự lựa chọn ấy phản ánh sự nắm bắt một cách chính
xác quy luật vận động và phát triển của cách mạng nước ta trong thời đại mới.
Từ sau năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước quá độ lên CNXH, thực hiện
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội IV của Đảng (12/1976) đã phát triển
một bước quan trọng đường lối xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước do Đại hội lần
thứ III (9/1960) đề ra. Đó là đường lối: “Nắm vững chun chính vơ sản, phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng:
cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học- kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và
văn hố, trong đó cách mạng khoa học- kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp
hoá XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên CNXH, xây dựng chế
độ làm chủ tập thể XHCN, xây dựng nền sản xuất lớn XHCN, xây dựng nền văn hoá
mới, con người mới XHCN...”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982), quan niệm về con
đường đi lên CNXH của Đảng có sự phát triển. Đồng thời, với việc xác định đúng hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: xây dựng thành công CNXH và sẵn
sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; hai nhiệm vụ chiến lược
đó có quan hệ mật thiết với nhau. Đại hội V đã có nhận thức mới về sự phân kỳ của
thời kỳ q độ thấy được tính khó khăn, phức tạp, lâu dài của thời kỳ quá độ; do vậy,
phải trải qua nhiều chặng đường kế tiếp nhau, mà chúng ta còn đang ở dặng đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ. Bởi vậy, Đại hội xác định đường lối cơng nghiệp hố,
phải ưu tiên phát triển nơng nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; kết hợp
nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công
nghiệp hợp lý.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức V của Đảng, chúng ta đã ra các Nghị

quyết Trung ương 6 (1984); Nghị quyết Trung ương 8 (1985) tiếp tục bổ sung phát triển
tư duy mới, đặt nền móng cho việc hình thành đường lối đổi mới vào năm 1986.


10
Như vậy, trước thời kỳ đổi mới, nhận thức của Đảng ta về CNXH đã xác định
đúng mục tiêu, bản chất của CNXH và quy mô to lớn cùng với nội dung toàn diện của
sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Mục tiêu, bản chất ấy là hướng tới giải phóng
giai cấp, dân tộc và nhân dân ta, đưa nhân dân tới địa vị của người chủ và làm chủ xã
hội, đem lại cho họ cuộc sống vật chất và tinh thần ngày một đầy đủ và tốt đẹp hơn.
Đó là một xã hội khơng có áp bức, bóc lột, mọi người được hưởng những quyền tự do,
dân chủ và bình đẳng, được phát triển những khả năng của mình, có cuộc sống ấm no
và hạnh phúc, trong sự phát triển hài hòa các quan hệ cá nhân - tập thể và xã hội. Xây
dựng và phát triển kinh tế cũng như văn hóa chính là nhằm phục vụ cuộc sống của
nhân dân - những người chủ của xã hội mới, xã hội XHCN với tất cả tính ưu việt của
nó. Để đi tới chế độ xã hội tốt đẹp đó, đối với Việt Nam là cả một quá trình lịch sử lâu
dài, phải giải quyết nhiều khó khăn, phức tạp và mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ do
những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử đặc thù của Việt Nam quy định. Sự nghiệp đó là
một cuộc cải biến vĩ đại, phải xây dựng từ đầu cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, cả hạ tầng cơ sở lẫn thượng tầng kiến trúc, cả tiềm lực vật chất lẫn tinh thần, vừa
cải tạo cái cũ lỗi thời, lạc hậu vừa xây dựng cái mới, phù hợp với bản chất, mục tiêu
của CNXH. Quan niệm đó phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn, nguyện vọng
sâu xa của quần chúng, đó cũng chính là quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã nhận thức và vận dụng.
Cùng với những nhận thức đúng đắn đó, những nhược điểm và hạn chế về lý
luận cũng bộc lộ khơng ít. Kèm theo đó là những khuyết điểm, sai lầm trong chỉ đạo,
điều hành, trong lãnh đạo và quản lý, đặc biệt là quản lý kinh tế mà chúng ta mắc phải
trong một thời gian dài, chậm được phát hiện, lại chậm sửa chữa đã làm hạn chế kết
quả và thành tựu, làm chậm quá trình phát triển, thậm chí làm phát sinh thêm những
khó khăn, dẫn tới sự trì trệ và khủng hoảng KT-XH trước đổi mới. Có thể hình dung

những yếu kém và hạn chế trên nổi bật ở những điểm sau:
Một là, trong quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
thời kỳ trước đổi mới còn nhiều biểu hiện của nhận thức giáo điều, chủ quan, duy ý
chí, vi phạm quy luật, làm sai quy luật. Xây dựng quan hệ sản xuất mới với chế độ sở


11
hữu xã hội (nhà nước và tập thể) vượt quá xa, tách rời khỏi trình độ thực tế của lực
lượng sản xuất nên lực lượng sản xuất bị kìm hãm, không phát triển được mà quan hệ
sản xuất mới cũng chỉ là hình thức. Tư duy về CNXH trước đổi mới mang đậm dấu ấn
của tư duy kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, bình quân, kinh tế hiện vật chứ
khơng phải kinh tế hàng hóa. Quan niệm thơ sơ về cơng bằng là bình qn, chia đều
dẫn tới suy giảm và triệt tiêu động lực phát triển. Đồng thời, đã áp dụng một mơ hình
CNXH thiếu hụt các nội động lực để phát triển mà hạt nhân của nó là lợi ích. Đã
khơng quan tâm đúng mức tới lợi ích cá nhân của người lao động, lợi ích tập thể và xã
hội bị tuyệt đối hóa một cách trừu tượng, lại do quản lý yếu kém nên cũng rơi vào biến
dạng bởi quan liêu, lãng phí, tham ơ. Đó cịn là kiểu CNXH khơng đạt đúng vị trí hàng
đầu của lực lượng sản xuất, của giải phóng mọi tiềm năng xã hội để phát triển lực
lượng sản xuất; một CNXH vận động ở bên ngoài sản xuất hàng hóa, kinh tế hàng hóa
- thị trường, chưa tuân thủ quy luật giá trị và thị trường dẫn tới trì trệ, lạc hậu, chậm
phát triển. Điều này đã được Đại hội V của Đảng (3/1982) chỉ rõ: “Chúng ta chưa thấy
hết những khó khăn, phức tạp của con đường đi lên CNXH từ một nền kinh tế mà sản
xuất nhỏ cịn là phổ biến; thấy chưa hết quy mơ của những đảo lộn kinh tế và xã hội
sau cuộc chiến tranh lâu dài”.
Hai là, trong quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
thời kỳ trước đổi mới chưa đặt đúng vị trí, vai trị của dân chủ với tư cách là một trong
những động lực quan trọng hàng đầu và là mục tiêu của CNXH. Vấn đề dân chủ trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam có tầm quan trọng đặc biệt, đó khơng chỉ là dân
chủ trong chính trị, dân chủ trong thể chế Đảng và Nhà nước mà còn là dân chủ trong
kinh tế, là quyền dân chủ của công dân, của từng cá nhân thành viên trong cộng đồng

xã hội. Dân chủ gắn liền với pháp luật, kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của bộ máy,
trong tổ chức, trong quan hệ giữa người với người, giữa Nhà nước với cơng dân… mà
nội dung cốt lõi của nó là giải quyết mối quan hệ giữa quyền và lợi ích, quyền và
nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm, trước hết là lợi ích kinh tế, vật chất của con người
được pháp luật bảo vệ. Trước đổi mới, tư duy lý luận dường như rất ít bàn tới vấn đề
này. Cụ thể, dân chủ, nhất là dân chủ trong kinh tế, trong sản xuất kinh doanh đã


12
khơng được coi trọng trực hiện; dân chủ trong chính trị (nhất là trong bầu cử và tổ
chức các cơ quan quyền lực của dân) cịn nhiều biểu hiện hình thức; dân chủ trong ý
thức tư tưởng, trong văn hóa và đời sống tinh thần cũng chậm phát triển và không
được chú ý đúng mức… Do dân chủ không thực chất nên đồn kết cũng dễ rơi vào
hình thức hóa.
Ba là, trong quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thời
kỳ trước đổi mới đã khơng đánh giá đầy đủ vai trị của khoa học - kỹ thuật - công
nghệ, đặc biệt không thấy hết vai trò của lý luận, của khoa học xã hội - nhân văn đối
với việc tăng cường tiềm lực tư tưởng, trí tuệ của Đảng. Do đó, đã chậm tiếp thu và
ứng dụng các thành quả của cách mạng khoa học - công nghệ nên CNXH trở nên lạc
hậu so với các nước tư bản phát triển.
Bốn là, quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thời kỳ
trước đổi mới bị hạn chế bởi quan niệm tĩnh, khép kín, phát triển trong trạng thái đơn
tuyến, chỉ trong phạm vi hệ thống XHCN, thậm chí trong trạng thái biệt lập với thế
giới. Từ đó dẫn tới giáo điều về lý luận, sơ cứng và trì trệ trong tổ chức, trong quản lý
và hoạt động đã làm cho CNXH ở Việt Nam vốn ở điểm xuất phát thấp lại càng rơi
vào tính “chậm phát triển và thiếu triển vọng”.
Năm là, quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thời kỳ
trước đổi mới chưa xác lập và thực hiện được hệ chính sách và giải pháp để phát huy
nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ, chưa có cơ chế tạo động lực phát
triển để thu hút nhân tài, lãng phí chất xám trong xã hội.

Đây là 5 hạn chế, yếu kém nổi bật trong tư duy lý luận của Đảng về CNXH
và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thời kỳ trước đổi mới. Những hạn chế này
được biểu hiện rõ nét như: Sự vắng bóng của nền kinh tế hàng hóa thị trường làm
lực đẩy giải phóng, phát triển lực lượng sản xuất; hạn chế và yếu kém về dân chủ
làm suy yếu động lực phát triển; chậm chễ trong chiến lược phát triển khoa học công nghệ, trong sự mở cửa hội nhập quốc tế dẫn tới sự phát triển không đồng
thuận với xu hướng phát triển của thế giới hiện đại. Chưa có cơ chế và chính sách
hữu hiệu, đồng bộ để phát huy trí tuệ, tài năng, sáng tạo của con người - nguồn lực


13
quan trọng nhất trong mọi nguồn lực, giá trị cao nhất trong mọi giá trị văn hóa…
Vì vậy, việc đổi mới tư duy lý luận của Đảng về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam là tất yếu khách quan.
3. Xuất phát từ tình hình thực tiễn kinh tế - xã hội ở Việt Nam sau
năm 1975 đến trước đổi mới.
Với những bước đi đổi mới từng phần theo những chủ trương, chính sách
đúng đắn của Đảng và Nhà nước, những sáng kiến, sự năng động, sáng tạo của
nhân dân, của các địa phương, cơ sở sản xuất kinh doanh, đã làm cho nền kinh tế
Việt Nam những năm 1981-1985 có bước phát triển khá. Sản lượng lương thực
bình quân mỗi năm đạt 17 triệu tấn, sản lượng cơng nghiệp tăng bình qn
9,5%/năm. Thu nhập quốc dân tăng bình quân hàng năm 6,4%. Cơ sở vật chất
của chủ nghĩa xã hội được xây dựng đáng kể với hàng trăm cơng trình được cơ
khí hố và tự động hóa, và hàng nghìn cơng trình vừa và nhỏ, trong đó có những
cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt, giao thơng. Về năng lực
sản xuất, đã tăng thêm 456.000 kW điện, 2,5 triệu tấn than, 2,4 triệu tấn xi
măng, 33.000 tấn sợi, 58.000 tấn giấy, thêm 309.000 ha được tưới nước,
186.000 ha được tiêu úng. Tuy vậy, tình hình kinh tế-xã hội và đời sống nhân
dân vẫn cịn nhiều khó khăn, khủng hoảng kinh tế-xã hội vẫn trầm trọng mà biểu
hiện là: (1) kinh tế tăng trưởng thấp và thực chất là không phát triển. Nếu tính
chung từ năm 1976 đến 1985 tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân hàng

năm chỉ tăng ở mức 4,6%; thu nhập quốc dân tăng 38,8% bình quân hàng năm
chỉ tăng 3,7%, trong khi tỷ lệ dân số tăng trung bình hàng năm 2,3%; (2) khơng
có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế vì làm khơng đủ ăn, thu nhập quốc dân sản xuất
chỉ bằng 80 - 90% thu nhập quốc dân sử dụng; (3) “khoán 100” rồi đến “khoán
10” đã hết sự cuốn hút nhân dân tham gia; (4) siêu lạm phát hoành hành. Suốt
trong thời kỳ 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ hàng hóa năm sau so năm trước luôn
tăng ở mức hai con số và giao động ở mức 19-92%, năm 1986, lạm phát đạt đỉnh
điểm với tốc độ tăng giá 774,7% và (5) đời sống nhân dân hết sức khó khăn,
thiếu thốn.


14
Đứng trước đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn, do sản xuất ách
tắc, các cơ sở kinh tế và địa phương đã tìm những cách thức để giải quyết khó
khăn và ách tắc của mình. Nổi bật nhất là trường hợp khốn ở xí nghiệp đánh
cá Vũng Tàu - Cơn Đảo năm 1979, khốn ở xí nghiệp xe khách Thành phố Hồ
Chí Minh năm 1979, khốn nơng nghiệp ở Đồn Xá (Đồ Sơn, Hải Phịng) năm
1980, "phá giá thu mua" lúa của công ty lương thực Thành phố Hồ Chí Minh
năm 1979 và của An Giang năm 1980, áp dụng cơ chế giá thị trường và bù giá
vào lương ở Long An, sự bùng nổ của các công ty xuất nhập khẩu ở các tỉnh,
thành phố, nhập lậu hàng (đồ cũ, second hand) của các thủy thủ viễn dương,
bn bán hàng hóa của học sinh, cán bộ, lao động Việt Nam ở Đông Âu, chủ
động vay ngoại tệ từ Vietcombank để nhập nguyên liệu của xí nghiệp dệt Thành
Cơng (Thành phố Hồ Chí Minh), xí nghiệp thuốc lá Vĩnh Hội, xí nghiệp dệt lụa
Nam Định, xí nghiệp thuốc lào Bơng Sen (Thanh Hóa). Những điển hình "vượt
khó" này đã nhanh chóng được học tập, nhân rộng.
Đặc biệt, một số cố vấn Liên Xô đã đánh giá cao các cơ sở kinh tế phá rào
nói trên. Sau khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế, Liên Xô đã cử
các chuyên gia kinh tế sang giúp Việt Nam. Các chuyên gia này chia làm hai
loại. Một là các nhà kinh tế học từ các trường và viện nghiên cứu. Hai là các nhà

quản lý kinh tế. Trong khi các nhà quản lý cố vấn cho các bộ, ngành Việt Nam
cách thức quản lý kinh tế kiểu kế hoạch hóa tập trung, thì các nhà kinh tế học lại
mở những lớp giảng dạy về Chính sách kinh tế mới (NEP) của Lênin. Mặc dù
các lớp học về NEP đã làm mất lịng tổng cố vấn Liên Xơ, nhưng nó lại làm cho
các học viên Việt Nam thích thú. Nội dung của lớp học phù hợp với nhu cầu tìm
tịi hướng đi mới của các cán bộ Việt Nam, vừa là cái ơ che chở cho những cán
bộ có tinh thần đổi mới bởi lẽ NEP là sáng tạo của Lênin và người truyền bá lại
là các giáo sư Liên Xô. Ý kiến của các học giả-cố vấn Liên Xô đã cổ vũ các địa
phương, các cơ sở kinh tế mạnh dạn đi tới, đồng thời có tác dụng thuyết phục ít
nhiều đối với những người cịn phân vân.


15
III. MỘT SỐ THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM.

1. Về thành tựu.
Trước hết, tư duy lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
được hình thành và phát triển, gắn với quá trình phát triển, trưởng thành của Đảng ta
ngay từ ngày đầu thành lập. Nó khơng chỉ là kết quả của q trình tìm tịi, khảo
nghiệm, q trình tổng kết lý luận, tổng kết thực tiễn; mà còn là sự tổng kết trí tuệ,
cơng sức của tồn Đảng, tồn quân, toàn dân ta, trên cơ sở tuyệt đối trung thành với lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy truyền thống bản sắc của
dân tộc, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Lý luận về CNXH và
con đường đi lên CNXH ở Việt Nam có một giá trị, ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và
thực tiễn, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
trước hết là lý luận về con đường đi lên CNXH. Đồng thời nó cũng là nền tảng, cơ sở
vững chắc cho hoạch định đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng; là cơ sở
khoa học để xây dựng niềm tin vững chắc cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây; đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay.
Thực tiễn sau hơn 35 năm, đất nước đã đạt được những kết quả thiết thực, mà trước
hết là đổi mới tư duy để khắc phục được nhận thức lệch lạc, nhất là bệnh giáo điều, chủ
quan duy ý chí, vì thế vai trị lãnh đạo của Ðảng càng được tăng cường, định hướng XHCN
được giữ vững, hình thành quan niệm mới về mục tiêu, bước đi, cách thức phát triển đất
nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội, kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN từng bước hình thành, phát triển. Cơng cuộc đổi mới
đã giải phóng sức sản xuất, củng cố, tăng cường quan hệ sản xuất mới, đưa đất nước ra khỏi
tình trạng một nước có thu nhập thấp; đời sống nhân dân cải thiện đáng kể, ổn định chính trị
- xã hội được bảo đảm, an ninh quốc phòng được củng cố vững chắc, quan hệ hợp tác quốc
tế ngày càng sâu rộng. Ðổi mới đã đưa nước ta từ chỗ thiếu thốn, có khi phải nhập lương
thực, nay đã thành nước xuất khẩu gạo đứng ở tốp đầu thế giới. Chưa bao giờ nhịp độ phát
triển và đổi thay từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến đồng bằng lại nhanh chóng,


16
mạnh mẽ như hiện nay. Cũng chưa bao giờ phong cách sống, làm việc của mọi gia đình và
mọi người dân lại có nhiều nét mới mẻ, tươi tắn như hôm nay. Ðổi mới giúp chúng ta vừa
kế thừa và phát huy những thành quả tốt đẹp đạt được trước đây, vừa có cách nghĩ khác
trước, nghe khác trước, nhìn khác trước, làm khác trước, phù hợp với trạng thái phát triển
mới, vì thế, đã đem đến một sức vóc mới cho đất nước, tiếp sức chúng ta đi thêm những
bước dài trên con đường đã chọn.
Qua hơn 35 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng KT-XH và tình
trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bộ mặt đất nước, đời sống
của nhân dân thật sự thay đổi; dân chủ XHCN được phát huy và mở rộng; đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của
đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ
XHCN được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế,

uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao…
2. Về hạn chế.
Bên cạnh những thành tựu, cịn có hạn chế, khuyết điểm. Cụ thể:
Một là, chưa làm rõ các đặc điểm của nước ta trong bước quá độ tới
CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cũng như chưa làm rõ vấn đề phân kỳ
trong thời kỳ quá độ.
Các đặc điểm này là cả một tập hợp lớn các vấn đề kinh tế - chính trị - văn hóa xã hội, các quan hệ giai cấp và dân tộc, truyền thống và hiện đại, dân tộc với thế giới
nhân loại trong thời đại ngày nay. Nước ta đã trải qua một thời gian không ngắn, kể từ
khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH nhưng hiện nay vẫn đang ở trong khung cảnh
của thời kỳ quá độ, vẫn đang phải giải quyết hàng loạt những nhiệm vụ của thời kỳ quá
độ, mà nổi bật là đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điểm xuất phát của nước ta
khi bước vào thời kỳ quá độ, ở những năm 75 - 85 của thế kỷ XX là khác với trình độ
phát triển KT-XH của nước ta sau 1 thập kỷ đổi mới (1986-1996), càng khác so với hiện
nay khi Việt Nam đã mở cửa với thế giới bên ngoài, đã hội nhập quốc tế, đã thực hiện


17
hợp tác song phương và đa phương, đã từ một nước Việt Nam lạc hậu, chậm phát triển
chuyển sang một xã hội đang phát triển, đang nỗ lực đuổi kịp mặt bằng chung của các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Hai là, lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta mới chỉ bắt
đầu được nghiên cứu trong những năm gần đây và còn nhiều điểm chưa rõ.
Nhiều vấn đề về lý luận sở hữu, tính đa dạng và các hình thức sở hữu, hình thức
sở hữu với thành phần kinh tế, vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước (khu vực các
doanh nghiệp nhà nước trong kinh tế quốc doanh), sở hữu tư nhân với sở hữu cá nhân,
bóc lột và khơng bóc lột, cạnh tranh và hợp tác, quản lý hành chính nhà nước với
quyền tự do, tự chủ trong sản xuất- kinh doanh theo pháp luật của các doanh nghiệp và
doanh nhân… chưa có được những lý giải thấu đáo. Cũng như vậy, cơ chế thị trường
và kinh tế thị trường, thể chế kinh tế thị trường và thực thể nền kinh tế thị trường trong
cơ cấu thống nhất nền kinh tế quốc dân, kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại, các giải

pháp và mơ hình kinh tế trong q trình cổ phần hóa, hợp tác - liên doanh - liên kết,
hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực trong thế giới tồn cầu… đối với chúng ta cịn có
khơng ít sự bỡ ngỡ, những quan niệm rất khác nhau.
Ba là, lý luận về Đảng Cộng sản cầm quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân, những đảm bảo dân chủ và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong điều kiện một Đảng Cộng sản cầm quyền mới chỉ dừng lại ở hệ
quan điểm, nguyên tắc và phương hướng chỉ đạo.
Nhiều vấn đề bức xúc về lý luận và các giải pháp thực tiễn để có thể mơ hình
hóa, khoa học hóa và thực tiễn hóa trong lĩnh vực xây dựng Đảng, đổi mới Đảng và
đổi mới hệ thống chính trị để đổi mới xã hội cịn đang trong q trình tìm tịi, thể
nghiệm, chưa có được những kết luận thật rõ ràng. Đó là một hạn chế khá nổi bật
trong lý luận xây dựng chế độ chính trị xã hội thơng qua đổi mới chính trị, giải quyết
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị ở nước ta. Trong những vấn đề
này đang nổi lên các câu hỏi đòi hỏi trả lời như: Đổi mới nội dung, phương thức và
phương pháp lãnh đạo của Đảng trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hình thành nhà
nước pháp quyền, mở cửa và hội nhập quốc tế như thế nào? Đổi mới hệ thống tổ chức


18
bộ máy Đảng đồng thời với đổi mới nội dung, phương thức, phương pháp lãnh đạo,
nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng như thế nào để khắc phục tình trạng Nhà
nước hóa Đảng, hình thức hóa Nhà nước và hành chính hóa các tổ chức, đồn thể của
nhân dân? Xác lập cơ chế lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, làm chủ của
nhân dân ra sao để nhân dân và các tổ chức, đoàn thể của nhân dân trong Mặt trận và
trong hệ thống chính trị có thể tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, thực
hiện vai trò tư vấn, phản biện và giáp sát xã hội đối với quyền lực do nhân dân ủy
quyền? Để phịng tránh và khắc phục tình trạng thối hóa, tha hóa quyền lực của nhân
dân ?...
Bốn là, mặc dù đã nhận thức được vai trò quốc sách hàng đầu của khoa học công nghệ và giáo dục- đào tạo, đã thấy rõ văn hóa là động lực của phát triển KT-XH, là
nền tảng tinh thần của xã hội, song chúng ta vẫn chưa có được những chính sách và giải

pháp đột phá để thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ, đặc biệt là lý luận và khoa
học xã hội- nhân văn; chưa ngăn chặn được sự suy thối chất lượng của giáo dục- đào
tạo và tình trạng suy thoái ngày càng nghiêm trọng của đạo đức xã hội.
Như vậy, những hạn chế nêu trên cho thấy, dù lý luận qua hơn 35 năm đổi mới
đã có những khởi sắc, song tình trạng lạc hậu của lý luận vẫn chưa được khắc phục
một cách căn bản. Sự phát triển của thực tiễn đổi mới hiện nay và những xu hướng đã
được dự báo của sự phát triển xã hội trong thế giới tồn cầu đang địi hỏi lý luận phải
có những đột phá mới, nhất là tư duy lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu nắm vững, bảo vệ và không ngừng bổ sung phát triển lý
luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, mọi cấp, mọi ngành, của cả hệ thống chính trị.
IV. LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM BẢN THÂN

Việc làm rõ con đường đi lên CNXH ở Việt Nam có giá trị dẫn dắt trong tổ
chức quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng trong thực tiễn theo chức
năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức đảng, mỗi cơ quan, đơn vị, chức trách của mỗi cán
bộ, đảng viên. Trên cương vị là cán bộ chính trị Ban Chỉ huy quân sự huyện, chức
năng, nhiệm vụ trước hết phải tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, đường lối của


19
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về xây dựng khu vực phòng thủ. Nắm chắc
mục tiêu bảo bệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về “Chiến
lược BVTQ trong tình hình mới” là: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN;
bảo vệ sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định
chính trị và mơi trường hịa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng
XHCN”; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng tinh, gọn, mạnh... (Văn
kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng); Nghị quyết số 28 của Bộ Chính trị (khoá X) "Về

tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ
vững chắc trong tình hình mới";..., từ đó đẩy mạnh cơng tác tuyên truyền, giáo dục
nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, Lực lượng vũ trang và nhân
dân về xây dựng khu vực phòng thủ ở địa phương. Chủ động, tích cực đấu tranh với
các quan điểm sai trái, âm mưu thủ đoạn “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch…
Tham mưu trúng, đúng, kịp thời, thiết thực cho cấp ủy, chính quyền địa phương
lãnh đạo, chỉ đạo cơng tác quốc phịng, qn sự địa phương. Trên cơ sở nắm vững quan
điểm, đường lối của đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về quốc phịng, chú trọng
tham mưu cho cấp ủy, chính quyền tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành
cơng tác quốc phịng, qn sự địa phương bảo đảm tập trung, thống nhất, làm cơ sở để
các cấp, các ngành tổ chức triển khai thực hiện.
Phối hợp với các cấp, các ngành địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền
giáo dục nâng cao nhận thức về đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, Nhà nước
và tập trung xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, Mặt trận Tổ quốc, các ban,
ngành, đoàn thể, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội ngày càng vững mạnh. Tổ chức
quán triệt, giáo dục, tuyên truyền cho cán bộ các cấp, các ngành, nhân dân và Lực
lượng vũ trang nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược “xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, bảo
vệ chế độ XHCN, đường lối quốc phịng tồn dân, đường lối chiến tranh nhân dân,
chủ trương xây dựng khu vực phòng thủ của Đảng và Nhà nước. Phối hợp với cấp ủy


20
Đảng, chính quyền, các ban ngành đồn thể các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện đồng bộ các chính sách dân tộc, tơn giáo và các chính sách xã hội khác; nắm
vững và giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, củng cố nền tảng chính trị
tinh thần của nhân dân và Lực lượng vũ trang để tạo sức mạnh tổng hợp trong khu vực
phòng thủ. Phát huy vai trò của lực lượng 47 của các cơ quan, đơn vị trong đấu tranh
với các quan điểm sai trái, âm mưu thủ đoạn “Diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ của
các thế lực thù địch… giữ vững “trận địa” chính trị tư tưởng trong lực lượng vũ trang.

Tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện
có hiệu quả cơng tác quốc phòng, quân sự địa phương, xây dựng khu vực phòng thủ
vững chắc, kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh, bảo đảm giữ vững an
ninh chính trị - trật tự, an tồn xã hơi trên địa bàn. Thực hiện tốt công tác tuyển chọn
và gọi cơng dân nhập ngũ để khi hồn thành nghĩa vụ quân sự trở về đưa đi đào tạo,
bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ cho địa phương, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Phối hợp chặt chẽ với tổ chức đảng, chính quyền, đồn thể địa phương để tiến hành
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
KẾT LUẬN

Những thành tựu to lớn sau hơn 35 năm đổi mới đã khẳng định tính đúng đắn,
sáng tạo của đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo; đồng thời cũng
chứng tỏ năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, sự trưởng thành về tư duy lý luận
của Đảng ta. Những thành tựu trong nhận thức lý luận của Đảng ta về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam cần phải được nhìn nhận và đánh giá từ thực tiễn trên
cả hai mặt thành tựu và hạn chế, không chỉ dừng lại ở sự phân tích lý luận những
mệnh đề, câu chữ trên các văn kiện, nghị quyết theo cách phân tích văn bản học. Do
đó, câu hỏi CNXH là gì? Và xây dựng CNXH như thế nào trong điều kiện và hoàn
cảnh hiện nay của Việt Nam? Đã được Đảng ta giải quyết trong tính thống nhất hữu cơ
giữa lý luận với thực tiễn và giữa thực tiễn với lý luận.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng xác định định hướng tiếp tục
đổi mới là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể
chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo


21
gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực,
tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Đây là lần đầu
tiên, vấn đề “thể chế phát triển bền vững” được đặt ra trong một văn kiện đại
hội Đảng. Báo cáo chính trị của Đại hội XIII cịn đề cập “thể chế phát triển bền

vững”, tức là thể chế bảo đảm cho sự vận hành đồng bộ, thuận lợi, thúc đẩy sự
phát triển toàn diện của các lĩnh vực trong đời sống, từ kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại, hội nhập quốc tế, hướng tới
thực hiện yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước. Trong thể chế phát triển,
thể chế chính trị là yếu tố trung tâm, quyết định, chi phối đối với thể chế của các lĩnh
vực còn lại. Bằng sự quyết tâm tiếp tục đổi mới mạnh mẽ của Đảng ta, tin tưởng
rằng, nguồn lực xã hội Việt Nam sẽ được phát huy mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển
tồn diện của đất nước, nhanh chóng đưa nước ta sớm đạt được những mục tiêu
chiến lược mà Đảng ta đã đề ra trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.


22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ, Nxb Sự thật, H.1991.
2. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V,
Nxb Sự thật, H.1982.
3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, H.1987.
4. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb CTQG, H.1996.
5. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, H.2001.
6. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb CTQG, H.2006.
7. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb CTQG, H.2011.
8. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb CTQG, H.2016.

9. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb CTQG, H.2021.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, H.2005.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 47, Nxb CTQG, H.2006.
12 . Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb CTQG, H.2009.
13. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 9, Nxb CTQG, H.2009.
14. Học viện chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Q trình đổi mới
tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb CTQG, H.2009.
15. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976.
16. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978.
17. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978.
18. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H.1984.
19. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb CTQG, H.1993.



×