Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự bộ luật dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.48 KB, 32 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giao dịch dân sự là một mảng quan hệ pháp luật vô cùng quan trọng, là một
trong những chế định pháp lí cổ xưa nhất, xuất hiện sớm nhất trong nội dung luật
dân sự. Giao dịch dân sự là sự khái quát một cách tồn diện các hình thức giao lưu
dân sự phong phú của con người, là một trong những phương thức hữu hiệu để các
chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Từ những năm đầu của thời kì đổi mới một loạt các văn bản pháp luật điều
chỉnh quan hệ Giao dịch dân sự đã ra đời như: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (1989);
Bộ luật dân sự 1995 ra đời và được sửa đổi, bổ sung tại Bộ luật dân sự 2005.
Cho tới khi Bộ luật dân sự 2015 được Quốc hội thơng qua ngày 24/11/2015,
có hiệu lực ngày 01/01/2017, đã tạo ra một hành lang pháp lí quan trọng cho giao
lưu dân sự, thể hiện một bước tiến cao hơn trong tư duy lập pháp, hành pháp và tư
pháp của những nhà làm luật. Các nhà lập pháp Việt Nam đã có sự tiếp thu, học hỏi
những quy định pháp luật từ thực tiễn cũng như luật pháp của các nước trên thế
giới, cân nhắc chúng cùng với hoàn cảnh thực tế tại Việt Nam để đưa ra một văn
bản có tính chuẩn mực pháp lí cao trong hệ thống pháp luật dân sự. Chế định hợp
đồng dân sự chiếm tới khoảng 200 điều trong tổng số 689 điều của Bộ luật dân sự.
Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu
đảm bảo công bằng xã hội. Hơn nữa, Việt Nam đang trên đà hội nhập nền kinh tế
tồn cầu, q trình hội nhập mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng có nhiều thách thức.
Chừng nào pháp luật nói chung và những quy định về giao dịch dân sự nói riêng
chưa trở thành cơng cụ cơ bản để điều chỉnh quan hệ xã hội thì chừng đó Việt Nam
vẫn cịn đứng ngồi sự phát triển chung của thế giới. Các tranh chấp về giao dịch
dân sự cũng ngày một gia tăng và mức độ phức tạp ngày càng cao đòi hỏi pháp luật
về giao dịch dân sự phải hoàn thiện hơn để giải quyết một cách triệt để. Khó khăn
trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến giao dịch dân sự là do các bên

Trang 1



khơng tn thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Để giải quyết được các
tranh chấp đó một câu hỏi đặt ra: “Liệu có tồn tại giao dịch dân sự hay khơng?” và
“Giao dịch dân sự có hiệu lực hay khơng?” để từ đó xác định các bên có quyền và
nghĩa vụ gì. Vì vậy, những quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
có vai trị quan trọng trong việc điều chỉnh những quan hệ giao lưu dân sự của xã
hội. Các quy định này khơng tồn tại độc lập mà có sự liên hệ chặt chẽ với các quy
định khác trong Bộ luật dân sự 2015. Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
góp phần nâng cao ý thức cuả các chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự, giải quyết
các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết, thực hiện giao dịch
dân sự cũng như bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia vào quan hệ đó, tạo nên
sự bình đẳng trong giao lưu dân sự. Vì những lí do trên mà em đã lựa chọn đề tài:
“Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự” nhằm góp phần làm sáng tỏ
những quy định của Bộ luật dân sự 2015 về những điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự và đưa ra một số phân tích, bình luận về vấn đề này.
2. Mục đích, đối tượng và phạm vi của đề tài
Đề tài có các mục đích sau đây: Nghiên cứu các cơ sở lý luận, phân tích đánh
giá các quy định của pháp luật hiện hành và thực tế áp dụng pháp luật, từ đó đưa ra
các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về giao dịch dân
sự.
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu giao dịch dân sự bao gồm cơ sở lý
luận, đánh giá pháp luật thực định.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận quy định pháp luật về
giao dịch dân sự trong Bộ luật dân sự 2015 và các văn bản liên quan khác. Đề tài
nghiên cứu giữa các chủ thể trong nước, khơng có yếu tố nước ngồi.
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi cả nước, trong thời gian từ năm 2017 đến
năm 2020.

Trang 2



CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ
1. Khái niệm giao dịch dân sự và đặc điểm của giao dịch dân sự
Điều 121 Bộ luật dân sự 2015 xác định: Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc
hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự.
Như quy đinh trên ta có thể nhận thấy, có 2 loại giao dịch dân sự:
- Hành vi pháp lý đơn phương: Là giao dịch thể hiện ý chí của một bên chủ
thể nhằm phát sinh quan hệ dân sự mà khơng cần ý chí của các chủ thể khác.
Hành vi pháp lý đơn phương có thể do một hoặc nhiều chủ thể ở cùng một bên bày
tỏ ý chí. Ví dụ: Lập di chúc chung. Trong nhiều trường hợp hành vi pháp lý đơn
phương chỉ phát sinh hậu quả pháp lý khi có điều kiện do chủ thể bày tỏ ý chí đặt
ra, phía bên kia phải đáp ứng mới làm phát sinh nghĩa vụ của bên bày tỏ ý chí đơn
phương. Ví dụ: phát sinh nghĩa vụ trả lương.
- Hợp đồng dân sự: là giao dịch thể hiện sự thống nhất ý chí của hai hay
nhiều bên chủ thể ở hai phía của giao dịch, làm phát sinh, thay đổi . chấm dứt quyền
và nghĩa vụ dân sự. Ví dụ: hợp đồng mua bán xe đạp.
Quyền dân sự là khả năng xử sự theo ý chí tự do của chủ thể nhằm đạt được
mục đích của mình. Tuy nhiên, khơng phải xử sự nào cũng phù hợp với quy định
của pháp luật, mà quyền dân sự được xác lập trên căn cứ được quy định tại Điều 8
Bộ luật Dân sự 2015.
Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi
chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc
giấy tờ có giá, thực hiện cơng việc khác hoặc khơng được thực hiện cơng việc nhất
định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)
(Điều 274 Bộ luật dân sự 2015)
Từ quy định này ta thấy giao dịch dân sự được xác định là kết quả của việc
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong
quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lí (hành vi pháp lí


Trang 3


đơn phương hoặc đa phương – một bên hoặc nhiều bên) làm phát sinh hậu quả pháp
lí. Tuỳ từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật
dân sự. Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất
định, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao
dịch, với những mục đích và động cơ nhất định.

Trang 4


CHƯƠNG II
ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ
Giao dịch dân sự là hoạt động phổ biến giữa người với người nhằm đạt được
mục đích minh mong muốn trong nội dung cụ thể của giao dịch, những giao dịch
này thường mang trong mình tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Ngoài ra,
Giao dịch dân sự còn phải đáp ứng các điều kiện của pháp luật mới có thể phát sinh
hiệu lực. Đó là các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Bộ luật dân sự Việt
Nam 2015 quy định điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực bao gồm:
- Người tham gia giao dịch dân sự có năng lực hành vi dân sự;
- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hồn tồn tự nguyện;
- Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự trong trường hợp pháp luật có quy định.
Như vậy, theo Bộ luật dân sự Việt Nam điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự bao gồm các điều kiện về chủ thể tham gia giao dịch dân sự; mục đích, nội
dung của giao dịch dân sự; điều kiện về sự tự nguyện và điều kiện về hình thức của

giao dịch dân sự.
1. Điều kiện về chủ thể tham gia giao dịch dân sự
Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự mà cụ thể ở đây là quan hệ giao dịch
dân sự là những tổ chức, cá nhân, … tham gia vào quan hệ đó. Phạm vi chủ thể
tham gia quan hệ giao dịch dân sự bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp
tác. Điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực là “Chủ thể tham gia giao dịch dân sự
có năng lực hành vi dân sự”.
1.1. Chủ thể tham gia giao dịch dân sự là cá nhân
Pháp luật dân sự quy định chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải có năng lực
hành vi. Điều 19- Bộ luật dân sự 2015 quy định: “năng lực hành vi của cá nhân là
khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ
dân sự”. Nếu như năng lực pháp luật dân sự là tiền đề, là quyền dân sự khách quan

Trang 5


của chủ thể thì năng lực hành vi là khả năng hành động của chính chủ thể để tạo ra
các quyền, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ.
Như đã phân tích, bản chất của giao dịch dân sự là sự thể hiện ý chí, sự bày
tỏ ý chí ra bên ngoài của các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự. Do vậy, chỉ có
những người có năng lực hành vi mới có ý chí riêng và khả năng nhận thức được
hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự
phát sinh từ giao dịch dân sự và tự mình chịu trách nhiệm trong giao dịch dân sự.
Bộ luật dân sự Việt Nam cũng không quy định cá nhân tham gia giao dịch dân sự
phải có năng lực hành vi dân sự đẩy đủ mà đối với cá nhân ở các độ tuổi khác nhau
sẽ có năng lực hành vi dân sự khác nhau và từ đó sẽ có khả năng tham gia xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự khác nhau.
Đối với những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là những người đã
thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) trừ trường hợp bị Toà Án tuyên bố mất năng lực
hành vi, tuyên bố hạn chế năng lực hành vi thì được tồn quyền xác lập mọi giao

dịch dân sự. Như vậy, pháp luật chỉ quy định độ tuổi tối thiểu mà không quy định
độ tuổi tối đa của người tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Họ có đủ tư
cách chủ thể, toàn quyền tham gia xác lập giao dịch dân sự và tự mình chịu trách
nhiệm về những hành vi do họ thực hiện. Tuy nhiên, theo quy định của Luật hơn
nhân và gia đình đối với nữ từ 18 tuổi (17 tuổi + 1 ngày) trở lên có quyền kết hơn
nhưng người phụ nữ dù đủ tuổi kết hơn vẫn chưa có đủ năng lực hành vi dân sự. Vì
vậy, khi họ tham gia vào quan hệ giao dịch dân sự phải được sự đồng ý của người
đại diện theo pháp luật nếu không giao dịch dân sự sẽ bị vơ hiệu.
Mặt khác, quy định có người năng lực hành vi là một trong những điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự không được hiểu theo nghĩa cứ có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ thì có thể tham gia mọi giao dịch mà trên thực tế vẫn có những quy
định mang tính hạn chế người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ tham gia vào một
số giao dịch nhất định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của những người liên quan. Đó
là các trường hợp được quy định tại Điều 141 - Bộ luật dân sự 2015 về người đại
diện không được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người

Trang 6


thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó hay các giao dịch dân sự giữa
người giám hộ và người được giám hộ đều vô hiệu chỉ trừ trường hợp giao dịch
được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám
sát việc giám hộ. Hay tại khoản 1, Điều 59 - Bộ luật dân sự 2015 quy định: “các
giao dịch dân sự giữa người giám hộ và người được giám hộ có liên quan đến tài
sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện
vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám
hộ”.
Ngồi ra, đối với những cá nhân tuy có đủ năng lực hành vi dân sự nhưng có
thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện theo quy
định của pháp luật trừ trường hợp pháp luật quy định cá nhân đó phải tự mình tham

gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự đó.
Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần chỉ có thể xác lập, thực
hiện quyền và nghĩa vụ trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định.
Đó là những người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi tham gia xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Cá nhân từ đủ
6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi là những người có năng lực hành vi một phần. Họ có thể
bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải chịu những nghĩa vụ khi tham gia giao
dịch dân sự để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi. Nhưng
pháp luật lại không quy định rõ những giao dịch nào là giao dịch “phục vụ nhu cầu
sinh hoạt hằng ngày và phù hợp với lứa tuổi” nhưng có thể hiểu rằng đó là các giao
dịch mang các đặc điểm sau :
- Có giá trị nhỏ;
- Mục đích của giao dịch dân sự là phục vụ nhu cầu sinh hoạt, học tập hằng
ngày.
Đối với các giao dịch này được coi là những người đại diện của họ cho phép
thực hiện mà không cần sự đồng ý trực tiếp của những người đại diện. Trừ các giao
dịch có tính chất trên, các giao dịch do người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi xác
lập, thực hiện phải được người đại diện đồng ý - đồng ý việc thực hiện giao dịch

Trang 7


cũng như nội dung của giao dịch đó. Thời điểm đồng ý khơng có ý nghĩa quyết
định. Nếu người được đại diện đã thực hiện giao dịch khơng có sự đồng ý của người
đại diện thì với tư cách là người đại diện, họ có quyền u cầu Tồ án tuyên bố giao
dịch vô hiệu theo quy định của pháp luật.
Tại khoản 4 - Điều 21 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Người từ đủ mười
lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ
giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch
dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”.

Quy định này xuất phát từ thực tế người từ đủ 15 tuổi có quyền giao kết giao dịch
dân sự và có thu nhập riêng hợp pháp, tạo điều kiện cho họ thực sự trở thành chủ
thể độc lập trong đời sống kinh tế - xã hội.
Nhưng cũng cần lưu ý pháp luật dân sự quy định một số giao dịch cụ thể chỉ
có thể do người đã thành niên xác lập mới có hiệu lực, đặc biệt là các giao dịch dân
sự pháp luật bắt buộc phải có cơng chứng. Trong trường hợp đó người chưa thành
niên dù có tài sản riêng cũng khơng có năng lực hành vi dân sự để thực hiện giao
dịch dân sự.
Đối với người khơng có năng lực hành vi dân sự là người chưa đủ 6 tuổi. Họ
khơng có quyền tham gia bất cứ một giao dịch nào. Mọi giao dịch của những người
này phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Nguyên nhân là do họ
chưa đủ ý chí cũng như lý trí để hiểu được hành vi và hậu quả của những hành vi
đó.
Đối với người bị mất năng lực hành vi theo Điều 22 - Bộ luật dân sự 2015 là
người “do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình”. Như vậy, người thành niên có thể bị tuyên bố mất năng lực
hành vi khi có những điều kiện, với trình tự, thủ tục nhất định và trên cơ sở kết luận
của tổ chức giám định có thẩm quyền, Tồ án có thể tun bố một người bị mất
năng lực hành vi theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Vì vậy, với
những người bị mất năng lực hành vi khi tham gia xác lập, thực hiện giao dịch họ
đều phải thông qua người đại diện theo pháp luật.

Trang 8


Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo Điều 24 Bộ luật dân
sự 2015 là người “nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán
tài sản của gia đình” thì giao dịch dân sự liên qua đến tài sản của người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ
giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày. Người đại diện theo pháp luật

của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện do Toà án quyết
định.
Đại diện theo pháp luật của cá nhân có năng lực hành vi dân sự một phần, cá
nhân khơng có năng lực hành vi dân sự, cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự hay
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được xác lập theo quy định của pháp luật hoặc
theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thẩm quyền đại diện theo
pháp luật được pháp luật quy định hoặc thể hiện trong quyết định cử đại diện của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Việc xác lập đại diện này thường khơng phụ thuộc
vào ý chí cuả người được đại diện. Người đại diện theo pháp luật có thẩm quyền
xác lập, thực hiện mọi giao dịch vì lợi ích của người được đại diện trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyết định
khác.
Tuy nhiên, trường hợp đại diện người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có
một số nét đặc biệt riêng. Thẩm quyền đại diện đối với người bị hạn chế năng lực
hành vi khác thẩm quyền đại diện đối với người bị mất năng lực hành vi dân sự
hoặc có năng lực hành vi dân sự một phần. Người đại diện cho người bị hạn chế
năng lực hành vi khơng thể tự mình xác lập giao dịch thay cho người bị hạn chế mà
chỉ có quyền “đồng ý” hay “ khơng đồng ý”. Chính người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự vẫn trực tiếp tham gia giao dịch dân sự nhưng với sự chấp thuận của
người đại diện. Người đại diện chỉ đóng vai trị giám sát, đồng ý hay khơng đồng ý
mà thơi. Nếu giao dịch đó khơng làm ảnh hưởng đến lợi ích của chính người đại
diện của những người thân thích trong gia đình của người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự thì người đại diện theo pháp luật cho phép người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự được xác lập, thực hiện giao dịch.

Trang 9


Tuy nhiên, một trường hợp đã được dự liệu trong pháp luật dân sự tại điều
128 là trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, khơng bị hạn chế năng

lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập, thực hiện giao dịch vào đúng thời điểm khơng
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì sẽ bị tun là vơ hiệu. Đây có thể
được coi là trường hợp ngoại lệ của trường họp người có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ không bị mất năng lực hành vi dân sự hay bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự song đã xác lập giao dịch trái với ý chí của họ nên họ có quyền u cầu Tồ án
tun bố giao dịch vơ hiệu để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình bởi khi đó đã
vi phạm tính tự nguyện khi tham gia giao dịch.
Như vậy, nếu cá nhân tham gia giao dịch dân sự khơng có năng lực hành vi
dân sự thì giao dịch dân sự sẽ vô hiệu. Trong trường hợp này giao dịch dân sự vô
hiệu tương đối (vô hiệu bị tuyên) chỉ khi các bên hoặc những người đại diện của họ
u cầu Tồ án tun bố vơ hiệu thì Tồ án mới xem xét và quyết định. Bên u cầu
phải có nghĩa vụ chứng minh trước Tồ cơ sở của yêu cầu là do đã tham gia xác lập
giao dịch dân sự với người khơng có năng lực hành vi dân sự. Điều 125- Bộ luật
dân sự 2015 quy định giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện sẽ
vô hiệu. Theo Điều 132- Bộ luật dân sự 2015 thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu trong trường hợp này là 2 năm kể từ ngày xác lập giao dịch
dân sự. Về nguyên tắc, giao dịch dân sự dân sự vô hiệu không phát sinh quyền,
nghĩa vụ nhưng không phải lúc nào các bên tham gia giao dịch dân sự cũng phát
hiện ra các vi phạm là điều kiện dẫn đến giao dịch dân sự vơ hiệu. Thơng thường
chỉ có một bên có quyền lợi trong việc huỷ bỏ giao dịch dân sự vô hiệu nên việc
giải quyết giao dịch dân sự vô hiệu thường được thông qua con đường tố tụng tại
Tồ án. Do đó, việc quy định thời hiệu để các bên yêu cầu Toà án tuyên bố một giao
dịch dân sự vơ hiệu có ý nghĩa lớn về lí luận và thực tiễn. Cơ sở lí luận của việc xác
định thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên giao dịch dân sự vơ hiệu dựa trên:


Thời gian có thể làm cho giao dịch dân sự vi phạm điều kiện mà pháp

luật quy định trở thành giao dịch dân sự có hiệu lực được khơng;


Trang 10




Quyền tự định đoạt của các bên trong giao dịch dân sự sau một thời

gian nhất định;


Nhu cầu bảo vệ sự ổn định của giao dịch dân sự nhằm bảo đảm hài

hồ giữa lợi ích của nhà nước và cơng dân.
Từ những cở sở đó, căn cứ vào quyền tự định đoạt của các bên tham gia giao
dịch dân sự thì thời hạn để những người này quyết định việc có u cầu Tồ án bảo
vệ hay khơng là 2 năm. Nếu họ không khởi kiện trong thời hạn này thì có nghĩa là
họ từ chối quyền u cầu được pháp luật bảo vệ. Nhưng thời hiệu 2 năm lại được
tính từ thời điểm giao dịch dân sự được xác lập.
1.2. Chủ thể tham gia giao dịch dân sự là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác
Ta có thể hiểu pháp nhân thông qua các điều kiện thành lập pháp nhân tại
Điều 74- Bộ luật dân sự theo đó pháp nhân là một thực thể độc lập thống nhất, được
thành lập hợp pháp, có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình,
nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Năng lực
pháp luật của pháp nhân được hiểu là khả năng của pháp nhân có các quyền và
nghĩa vụ dân sự phù hợp mục đích hoạt động của mình. Năng lực pháp luật của
pháp nhân phát sinh từ thời điểm pháp nhân được thành lập và chấm dứt từ thời
điểm chấm dứt pháp nhân.1
Với quy định “chủ thể tham gia giao dịch dân sự có năng lực hành vi dân sự”
chúng ta có thể hiểu năng lực hành vi của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ

chức khác khơng có tư cách pháp nhân được xem xét thơng qua vai trị của người
đại diện. Người đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân danh pháp nhân,
hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân sẽ làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ cho pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác khơng có tư
cách pháp nhân.
Người đại diện cho các chủ thể này có thể thực hiện thơng qua 2 cơ chế đại
diện. Đó là:

1

Khoản 1,2 - Điều 86 - Bộ luật dân sự 2015

Trang 11


- Đại diện theo pháp luật: Trường hợp người đại diện cho pháp nhân là người
đứng đầu pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết
định thành lập pháp nhân; trường hợp người đại diện cho hộ gia đình là chủ hộ
trong đó cha hoặc mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ. Đối
với người đại diện cho tổ hợp tác đại diện theo pháp luật là tổ trưởng do các tổ viên
cử ra. Giao dịch dân sự do người khơng có quyền đại diện xác lập, thực hiện sẽ
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với bên được đại diện là pháp nhân, hộ gia
đình, tổ hợp tác trừ trường hợp ngươi đại diện cho pháp nhân, họ gia đình, tổ hợp
tác đó đồng ý.
- Đại diện theo uỷ quyền: đối với hình thức này người đại diện có thể là bất
cứ ai và phải dựa trên hợp đồng uỷ quyền. Trường hợp này, người đại diện chỉ được
xác lập, thực hiện những giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Nếu người đại
diện theo uỷ quyền của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện những
giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện hoặc không nằm trong phạm vi đại diện
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác đối với

phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện hoặc không nằm trong
phạm vi đại diện. Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương
chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại
diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Trong trường hợp này, nếu người đại diện cho pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp
tác tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân khi tham gia xác lập giao dịch dân sự
khơng có năng lực hành vi dân sự thì giao dịch dân sự bị vơ hiệu tương đối và thời
hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu cũng là 2 năm kể từ ngày xác lập
giao dịch dân sự.
2. Điều kiện về mục đích, nội dung của giao dịch dân sự
Bộ luật dân sự quy định điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là: “mục
đích, nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật, không
trái đạo đức xã hội”.

Trang 12


Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn
đạt được khi xác lập giao dịch đó (mục đích thực tế). Nội dung của giao dịch dân sự
là tổng hợp các điều khoản mà các bên đã cam kết, thoả thuận trong giao dịch.
Những điều khoản này xác định quyền, nghĩa vụ của các bên phát sinh từ giao dịch.
Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chủ thể
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự ln nhằm đạt được mục đích nhất định. Muốn
đạt được mục đích đó họ phải cam kết, thoả thuận về nội dung và ngược lại những
cam kết, thoả thuận về nội dung của chủ thể là để đạt được mục đích của giao dịch.
Khơng thể có hành vi mang tính ý chí khi các chủ thể tham gia vào việc xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự lại khơng nhằm vào một mục đích nhất định. Mục đích
của giao dịch dân sự là yếu tố không thể thiếu trong giao dịch dân sự, là cơ sở xác
định việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự đó có hiệu lực pháp lí hay khơng.
Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán tài sản, mục đích mà các bên hướng tới là

quyền sở hữu tài sản. Để đạt được mục đích này chủ thể phải thoả thuận được về
nội dung của hợp đồng mua bán bao gồm các điều khoản như đối tượng (vật bán),
giá cả, thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng.
Sự thoả thuận về các điều khoản đó lại nhằm đạt được mục đích là quyền sở
hữu tài sản. Đây là mục đích của giao dịch mà các bên hướng tới. Tuy nhiên trong
thực tiễn khơng phải bao giờ các chủ thể cũng có cùng mục đích. Mục đích của giao
dịch dân sự khác với động cơ xác lập giao dịch dân sự. Động cơ của giao dịch dân
sự là nguyên nhân thúc đẩy các bên tham gia giao dịch dân sự không được coi là
yếu tố đương nhiên phải có trong giao dịch dân sự. Nếu động cơ không đạt được
không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch dân sự nhưng giao dịch dân sự
khơng có mục đích hoặc mục đích khơng đạt được sẽ làm giao dịch dân sự vô hiệu.
Mục đích ln ln được xác định cụ thể cịn động cơ có thể được xác định hoặc
khơng. Ví dụ như trong hợp đồng mua bán nhà mục đích của hợp đồng là mua nhà
để có quyền sở hữu nhà nhưng động cơ có thể để ở, cho thuê hay bán lại cho người
khác. Động cơ của giao dịch dân sự có thể được các bên thoả thuận trở thành một
điều khoản của giao dịch dân sự, một bộ phận cấu thành của giao dịch dân sự.

Trang 13


Có những trường hợp người mua muốn được sở hữu tài sản nhưng người bán
khơng có mục đích đó mà vì một mục đích khác, đó là họ bán tài sản để trốn tránh
việc kê biên tài sản, người bị kê biên tài sản bán hết tài sản của mình, trường hợp
này người bán không phải muốn chuyển quyền sở hữu cho bên mua. Mục đích này
là trái luật.
Để giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung của giao
dịch dân sự khơng vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội có
nghĩa là mục đích và nội dung của giao dịch dân sự khơng được xâm phạm đến lợi
ích của Nhà nuớc, lợi ích cơng cộng, lợi ích hợp pháp của nguời khác đã được
khẳng định là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật dân sự.

Chỉ những tài sản được phép giao dịch, những công việc được phép thực
hiện không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội mới là đối tượng
của giao dịch dân sự. Những giao dịch xác lập nhằm trốn tránh pháp luật hoặc trái
đạo đức xã hội là những giao dịch dân sự có mục đích và nội dung không hợp pháp,
không làm phát sinh hiệu lực pháp luật của giao dịch dân sự đó.
So với Bộ luật dân sự 1995 thì Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật dân sự 2015
đã có sự sửa đổi cho chính xác hơn khi sử dụng cụm từ “điều cấm của pháp luật”
thay cho cụm từ “ không trái pháp luật”- một cụm từ mang tính chung chung. Điều
cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực
hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung
giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tơn trọng.
Đạo đức xã hội có phạm vi rộng, có vai trị chi phối hành vi và ý thức của con
người, góp phần làm hài hồ lợi ích của cá nhân, tập thể và xã hội. Đạo đức xã hội
là một dạng của quy phạm xã hội, cùng với quy phạm pháp luật -mang tính bắt buộc
chung, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế Nhà nước thì đạo đức xã hội góp
phần điều chỉnh hành vi của con người theo đúng chuẩn mực xã hội.
Như vậy, để giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung
của giao dịch khơng được vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã
hội. Nội dung của giao dịch dân sự, các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân

Trang 14


sự phải hợp pháp, có thể thực hiện được và không được phép xác lập, thực hiện
những giao dịch dân sự mà pháp luật cấm hoặc trái đạo đức xã hội (mua bán ma
túy, vũ khí, súng đạn..). Nếu pháp luật khơng quy định cụ thể thì các bên có quyền
xác lập, thực hiện những giao dịch dân sự không trái với những nguyên tắc cơ bản
của luật dân sự. Các giao dịch dân sự có mục đích, nội dung không hợp pháp sẽ
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự. Nói cách khác giao dịch dân sự đó bị
coi là vô hiệu.

Trong trường hợp giao dịch dân sự đã xác lập vi phạm điều cấm của pháp
luật, trái đạo đức xã hội sẽ dẫn đến hậu quả pháp lí giao dịch dân sự vơ hiệu tuyết
đối (vơ hiệu đương nhiên). Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối khơng có hiệu lực từ
thời điểm giao kết và mặc nhiên bị coi là vô hiệu. Đối với trường hợp này, các bên
tham gia giao dịch dân sự, những người có quyền, lợi ích liên quan đều có quyền
u cầu Tồ án tun giao dịch dân sự vơ hiệu để bảo vệ lợi ích chung, lợi ích cộng
đồng. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu tuyết đối (vô
hiệu đương nhiên) không bị hạn chế.
Tuy vậy quy định giao dịch dân sự vô hiệu có thời hiệu u cầu tun vơ
hiệu là khơng xác định trên thực tế rất khó áp dụng mặc dù để bảo vệ lợi ích cộng
đồng nhưng có thể dẫn đến tình trạng mất ổn định xã hội, việc bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các bên khó khăn và việc tìm chứng cứ chứng minh cũng là cả một
vấn đề. Do vậy, việc quy định một thời hiệu nhất định cho giao dịch dân sự vô hiệu
tuyệt đối mà trong trường hợp này là vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức xã hội là rất cần thiết.
3. Điều kiện về sự tự nguyện trong giao dịch dân sự
Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, cho
nên “tự nguyện” bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí. Khơng
có tự do ý chí và bày tỏ ý chí khơng thể có tự nguyện, nếu một trong hai yếu tố này
khơng có hoặc khơng thống nhất cũng khơng thể có tự nguyện. Sự tự nguyện của
một bên (hành vi pháp lí đơn phương) hoặc sự tự nguyện của các bên trong một
quan hệ dân sự (hợp đồng) là một trong các nguyên tắc được quy định tại Khoản 2

Trang 15


Điều 3 Bộ luật dân sự: Tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận. Vi phạm sự tự nguyện
của chủ thể là vi phạm pháp luật.
Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hồn tồn tự nguyện có nghĩa là tự do ý
chí và sự thể hiện ý chí của các bên. Ý chí “là khả năng tự xác định mục đích cho

hành động và hướng hành động của mình, khắc phục khó khăn nhằm đạt mục đích
đó” nhưng nó vẫn chỉ là điều mong muốn, là nguyên nhân thúc đẩy chủ thể hướng
tới việc xác lập giao dịch dân sự. Ý muốn và lựa chọn biện pháp để đạt được ý
muốn đó thuộc ý chí chủ quan của chủ thể. Tự do ý chí ở đây được thể hiện là việc
tự do lựa chọn phương thức để đạt được ý muốn của mình. Tuy nhiên, việc lựa chọn
phương thức nào lại phụ thuộc vào các điều kiện khách quan, chủ quan như khả
năng tài chính, sở thích, vv …. Trên cơ sở đó chủ thể lựa chọn phương thức để đạt
được ý muốn đó.
Tuy nhiên ý chí vẫn thuộc chủ quan của chủ thể, là động lực bên trong thúc
đẩy chủ thể xác lập giao dịch dân sự do đó thể hiện ý chí là biểu lộ cái bên trong đó
ra bên ngồi, làm cho thấy rõ nội dung của ý chí dưới hình thức cụ thể. Ý chí và tự
do ý chí là hai mặt của tự nguyện. Để có tự do ý chí phải có độc lập về ý chí và chỉ
khi có đủ lí trí mới có sự độc lập về ý chí. Do vậy, chừng nào chủ thể chưa có khả
năng, mất khả năng hoặc tạm thời khơng có khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi của mình thì khơng có tự do ý chí. Vì thế chỉ có người có năng lực hành vi dân sự
mới độc lập về ý chí và đủ lí trí để xác lập giao dịch dân sự.
Điều kiện về tính tự nguyện của giao dịch dân sự có liên quan chặt chẽ đến
điều kiện thứ nhất - điều kiện về chủ thể tham gia giao dịch dân sự. Người có năng
lực hành vi là người có lí trí, họ nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi
đồng thời có khả năng điều khiển hành vi của họ. Họ có khả năng chịu trách nhiệm
về giao dịch dân sự đã xác lập và hậu quả do việc xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự. Nhưng ý chí của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật nói chung, quan hệ dân sự
nói riêng mà cụ thể là quan hệ giao dịch dân sự phải phù hợp với ý chí của Nhà
nước. Vì vậy, ý chí đó phải không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội. Trong giới hạn bởi hành lang pháp lí các bên tham gia vào giao dịch dân

Trang 16


sự tự do thể hiện ý chí của mình và pháp luật, đạo đức xã hội thể hiện ý chí của nhà

nước đã hạn chế tự do ý chí của chủ thể. Sự tự do ý chỉ phải nằm trong khuôn khổ
nhất định. Bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới
việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội.
Nằm trong mối liên hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi một chủ thể vừa có
quyền tự do xác lập giao dịch dân sự vừa có nghĩa vụ tơn trọng pháp luật và đạo đức
xã hội. Lợi ích của cộng đồng (được quy định bằng pháp luật) và đạo đức xã hội
được coi là “khung giới hạn” ý chí tự do của mỗi chủ thể trong quan hệ giao dịch
dân sự. Bộ luật dân sự xây dựng theo hướng bảo vệ tối đa quyền tự do giao dịch dân
sự của các chủ thể trong xã hội, bảo đảm tính ổn định của các giao dịch dân sự,
thông qua các quy định hạn chế việc tuyên bố vô hiệu một cách tuỳ tiện các giao
dịch dân sự. Trên tinh thần đó, chỉ trong những trường hợp đặc biệt và phải có căn
cứ rõ ràng Nhà Nước mới được phép can thiệp vào ý chí của các bên trong giao
dịch dân sự.
Nguyên tắc tự nguyện buộc các bên giao kết phải được tự do thể hiện ý chí
trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và bằng các quy định việc thể hiện ý
chí này phải độc lập và có sự thống nhất giữa ý chí và sự thể hiện ý chí đó ra bên
ngồi mà khơng chịu sự tác động nào làm cho ý chí đó bị sai lệch.
Tuy nhiên, trên thực tế không phải giao dịch dân sự nào cũng được xác lập
trên cơ sở sự tự nguyện của các chủ thể. Đây là những trường hợp giao dịch dân sự
xác lập khi một trong các chủ thể bị ép buộc, đe doạ, lừa dối, nhầm lẫn hoặc tại thời
điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Đó là các trường hợp
giao kết giao dịch dân sự thiếu đi sự tự nguyện. Sau đây chúng ta sẽ xem xét từng
trường hợp cụ thể:
3.1. Giao dịch dân sự giao kết do bị nhầm lẫn
Nhầm lẫn là việc các bên hình dung sai về nội dung của giao dịch dân sự mà
tham gia vào giao dịch dân sự không đạt được mục đích cho mình hoặc cho phía
bên kia. Điều 126- Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Trường hợp giao dịch dân sự
được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục

Trang 17



đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền u cầu Tịa án tun
bố giao dịch dân sự vô hiệu”. Sự nhầm lẫn phải xuất phát từ nhận thức của các bên
hoặc phán đoán sai lầm về đối tượng sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ
ràng căn cứ vào nội dung của giao dịch dân sự được xác lập. Tuy nhiên giao dịch
dân sự giao kết do bị nhầm lẫn không đương nhiên vơ hiệu, mà đây là giao dịch dân
sự có thể có vơ hiệu tương đối, điều này được quy định tại khoản 2 điều 126 Bộ luật
dân sự: “giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn khơng vơ hiệu trong trường
hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể
khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân
sự vẫn đạt được.”
Thông thường người ta thường chia thành các loại nhầm lẫn sau:


Nhầm lẫn về đối tượng của giao dịch dân sự



Nhầm lẫn về chủ thể của giao dịch dân sự



Nhầm lẫn về bản chất của giao dịch dân sự

3.2. Giao dịch dân sự được giao kết trên cở sở của sự lừa dối, đe dọa
Tuy sự nhầm lẫn và lừa dối trong giao dịch dân sự đều có một điểm chung là
bên bị nhầm lẫn và bên bị lừa dối do hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối
tượng giao dịch dân sự hay bản chất của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch
dân sự nhưng giữa nhầm lẫn và lừa dối có những điểm khác nhau cơ bản. Trong

trường hợp xác lập giao dịch dân sự do bị nhầm lẫn, sự nhầm lẫn có thể gây ra bởi
lỗi cẩu thả, sơ suất, kém hiểu biết của chính bên bị nhầm lẫn hoặc do lỗi vô ý của
bên kia hoặc người thứ ba. Còn trong trường hợp xác lập giao dịch dân sự do bị lừa
dối, sự nhầm lẫn chỉ có thể gây ra bởi hành vi mang tính chất cố ý của bên kia hoặc
của người thứ ba.
Lừa dối trong giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 127- Bộ luật dân sự
2015 “Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người
thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc
nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”. Sự lừa dối chỉ là
nguyên nhân làm cho giao dịch dân sự vô hiệu nếu sự lừa dối của một bên là

Trang 18


nguyên nhân thúc đẩy bên kia giao kết giao dịch dân sự. Như vậy, trong lừa dối
cũng có yếu tố nhầm lẫn nhưng sự nhầm lẫn này là do đối phương cố ý gây ra bằng
những mưu mô, thủ đoạn gian xảo.
Để hình thành hành vi lừa dối cần có hai yếu tố:


Sự cố ý: Lừa dối phải là hành vi cố ý, bên này chủ ý lừa dối bên



Yếu tố hiện thực: Phải có thủ đoạn lừa dối mới cấu thành hành vi

kia.
lừa dối. Tuy nhiên, không cần thiết thủ đoạn gian dối đó có được thực hiện, dàn
dựng hay khơng mà chỉ cần có sự gian dối là đủ.
Điều hiển nhiên khi một bên hoặc bên thứ ba thể hiện thủ đoạn của mình

thơng qua những hành vi như: cung cấp thông tin sai sự thật, cung cấp giấy chứng
nhận giả liên quan đến tình trạng tài sản… thì được coi là hành vi gian dối. Ngồi ra
sự lừa dối phải có tính chất quyết định đối với chủ thể tham gia giao dịch dân sự .
Vấn đề xem xét sự lừa dối có tính chất quyết định hay khơng thuộc thẩm quyền của
Tồ án theo từng trường hợp cụ thể ví dụ như sự lừa dối có thể có tính quyết định
đối với người này nhưng sẽ khơng có tính cách quyết định đối với người kia. Kết
hợp Điều 127- Bộ luật dân sự 2015 và các quy định riêng tại Điều 366 (nghĩa vụ
của bên bán phải cung cấp thông tin liên quan đến tài sản và hướng dẫn cách sử
dụng tài sản cho bên mua); Điều 461 (nghĩa vụ vủa bên tặng cho phải thông báo cho
bên được tặng cho biết khuyết tật của đối tài sản tặng cho); Điều 517. Nghĩa vụ của
bên cung ứng dịch vụ; Điều 536. Nghĩa vụ của bên thuê vận chuyển; Điều 544
(nghĩa vụ của bên đặt gia công phải cung cấp cho bên nhận gia công các giấy tờ
cần thiết liên quan đến việc gia công); Điều 555 (nghĩa vụ của bên gửi tài sản phải
báo ngay cho bên giữ biết tình trạng tài sản và biện pháp bảo quản thích hợp đối với
tài sản gửi giữ); Điều 567. Nghĩa vụ của bên uỷ quyền; trừ thông tin mà các bên đã
biết hoặc phải biết, thì ta có thể khẳng định rằng sự không hành động (bất tác vi)
thơng qua việc cố tình im lặng hoặc cố tình không cung cấp đầy đủ những tài liệu,
giấy tờ cần thiết có thể bị coi là yếu tố dẫn đến sự vô hiệu của giao dịch dân sự.

Trang 19


Đe doạ theo quy định tài điều 127- Bộ luật dân sự 2015 là “Đe dọa, cưỡng ép
trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên
kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của
mình”.
Người ta có thể chia sự đe doạ ra làm hai loại như: đe doạ về thể chất như
cầm tay bắt kí kết hợp đồng dân sự, cho uống rượu say; đe doạ về tinh thần như
dùng áp lực về tinh thần để buộc một người tham gia giao dịch dân sự. Theo sự

phân tích ở trên thì sự đe doạ là căn cứ để Toà án tuyên giao dịch dân sự vô hiệu
phải thoả mãn các điều kiện:
Thứ nhất, hành vi đe doạ phải là hành vi khơng chính đáng cả về phương tiện
sử dụng để đe doạ cũng như mục đích theo đuổi;
Thứ hai, sự đe doạ phải là yếu tố quyết định bên bị đe doạ tham gia giao dịch
dân sự;
Thứ ba, sự đe doạ phải có thực và mang tính chất nghiêm trọng, sự đe doạ
đó là đe doạ gây thiệt hại về tài sản, tính mạng ,sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân
phẩm;
Thứ tư, sự đe doạ ở đây phải là đe doạ gây thiệt hại ngay tức khắc và người
bị đe doạ phải thực sự lo sợ vào thời điểm giao kết giao dịch dân sự.
Những giao dịch dân sự được xác lập do bị lừa dối, đe doạ chỉ bị vơ hiệu khi
có u cầu của bên bị lừa dối, bị đe doạ và Toà án chấp nhận yêu cầu đó. Những
giao dịch được xác lập do tác động này vẫn có hiệu lực nếu khơng có u cầu của
bên bị lừa dối, bị đe doạ. Sự đe doạ sẽ không bị coi là nguyên nhân dẫn đến giao
dịch dân sự vơ hiệu nếu đó chỉ là việc thực hiện một quyền lợi chính đáng. Ví dụ
như: một người làm cơng đã phạm tội ăn trộm đồ của chủ nhân, người làm cơng đó
buộc phải chấm dứt hợp đồng lao động vì chủ nhân đe doạ kiện anh ta ra trước tồ.
Hay lịng tơn kính của con cháu đối với ông bà không được coi là đe doạ khiến cho
hợp đồng vơ hiệu. Ví dụ như một người đe doạ ép buộc ơng bà mình phải kí kết hợp

Trang 20



×