Tải bản đầy đủ (.pdf) (454 trang)

Ebook nâng cao hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.79 MB, 454 trang )


Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
GS.TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
ThS. PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung:

ThS. PHẠM THỊ NGỌC BÍCH
ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH
TS. NGUYỄN THỊ TRANG
TRẦN PHAN BÍCH LIỄU

Trình bày bìa:

PHẠM DUY THÁI

Chế bản vi tính:
Sửa bản in:
Đọc sách mẫu:

PHẠM THU HÀ
PHỊNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT
NGUYỄN THỊ TRANG
NGUYỄN VIỆT HÀ

Số đăng ký xuất bản: 427-2021/CXBIPH/9-365/CTQG.
Quyết định xuất bản số: 12-QĐ/NXBCTQG, ngày 18/02/2021.
In xong và nộp lưu chiểu tháng 4 năm 2021.
Mã số ISBN: 978-604-57-6497-8.





Biên mục trên xuất bản phẩm
của Thư viện Quốc gia Việt Nam
Bùi Sỹ Lợi
Nâng cao hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực
thi chính sách, ph¸p lt vỊ an sinh x· héi ë ViƯt Nam / Bùi Sỹ Lợi
ch.b. - H. : Chính trị Quốc gia, 2020. - 452tr. ; 24cm
ISBN 9786045759929
1. Gi¸m s¸t 2. Thùc hiƯn 3. ChÝnh s¸ch 4. Ph¸p lt 5. An
sinh x· héi 6. ViÖt Nam
353.509597 - dc23
CTM0412p-CIP



TẬP THỂ TÁC GIẢ
TS. BÙI SỸ LỢI (Chủ biên)
GS.TS. MAI NGỌC CƯỜNG
GS.TS. NGUYỄN ĐÌNH HƯƠNG
PGS.TS. LÊ QUỐC HỘI
PGS.TS. LƯU BÍCH NGỌC
TS. NGUYỄN THỊ HUẾ
PGS.TS. NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG
PGS.TS. NGUYỄN HỮU CHÍ
TS. BÙI SỸ TUẤN
TS. LƯU BÌNH NHƯỠNG
PGS.TS. HỒNG VĂN CƯỜNG
GS.TSKH. LƯƠNG XUÂN QUỲ

TS. PHẠM VIỆT HÙNG
TS. HỒ THỊ HẢI YẾN
TS. NGUYỄN SỸ DŨNG
TS. NGUYỄN HỒI NAM
TS. NGUYỄN ĐÌNH HƯNG
ThS. VÕ THẾ VINH
ThS.NCS. LÂM VĂN ĐOAN
ThS. PHẠM TRỌNG CƯỜNG
PGS.TS. NGUYỄN THỊ THANH THỦY
PGS.TS. NGUYỄN THỊ THANH HIẾU
TS. NGUYỄN THỊ HÀO
ThS. THÁI THỊ THANH NGA
ThS. NGUYỄN ĐỨC ĐÔNG
ThS. LÊ VĂN HẠNH


LỜI NHÀ XUẤT BẢN

G

iám sát của cơ quan dân cử là một trong những nhiệm vụ

quan trọng của Quốc hội và hội đồng nhân dân. Hiện nay,

Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tạo khuôn khổ
pháp lý cho hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, góp phần nâng
cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động giám sát của Quốc hội và hội
đồng nhân dân, từng bước đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn
cuộc sống, đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước các cấp ngày
càng được công khai, minh bạch.

Giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật nói chung, chính
sách, pháp luật về an sinh xã hội nói riêng là một trong những
công việc quan trọng của các cơ quan dân cử và thu hút sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu. Giám sát của cơ quan dân cử đối với
việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội có ý nghĩa
quan trọng, bởi lẽ hoạt động này cung cấp những luận cứ khoa học
để sửa đổi, bổ sung hồn thiện chính sách, pháp luật về an sinh xã
hội; bảo đảm cho chính sách, pháp luật về an sinh xã hội được
chấp hành, thực hiện nghiêm chỉnh trên phạm vi cả nước.
Để góp phần làm rõ những vấn đề có ý nghĩa lý luận trong
giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp
luật về an sinh xã hội trên cơ sở luận giải đặc điểm và bản chất,
mục tiêu, nguyên tắc, chủ thể, đối tượng, phạm vi, hình thức, nội
dung, nhân tố ảnh hưởng, quan niệm và các tiêu chí đánh giá hiệu
quả giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách,
pháp luật về an sinh xã hội, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật

5


xuất bản cuốn sách Nâng cao hiệu quả giám sát của cơ quan
dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an
sinh xã hội ở Việt Nam do TS. Bùi Sỹ Lợi - Phó Chủ nhiệm Ủy
ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội làm chủ biên. Cuốn sách là
kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp nhà nước nằm trong
Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia
nghiên cứu những vấn đề trọng yếu về khoa học xã hội và nhân
văn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng giám sát của Quốc hội và hội
đồng nhân dân đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an

sinh xã hội hiện nay, các tác giả đề xuất quan điểm, phương
hướng và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của cơ
quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh
xã hội ở nước ta những năm tới. Nội dung chính của cuốn sách
gồm ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về hiệu quả giám sát của cơ quan dân
cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội;
Chương II: Thực trạng về hiệu quả hoạt động giám sát của cơ
quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh
xã hội ở Việt Nam;
Chương III: Quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao
hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính
sách, pháp luật về an sinh xã hội ở Việt Nam trong những năm tới.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 10 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT

6


MỞ ĐẦU
1. Giám sát của cơ quan dân cử là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của Quốc hội, Hội đồng
nhân dân
Khoản 2, Điều 70, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ Quốc
hội có nhiệm vụ: “thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân
theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội”.
Khoản 8, Điều 19, Luật tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 quy định hội đồng nhân dân tỉnh có thẩm quyền:
“Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa

phương, việc thực hiện nghị quyết của hội đồng nhân dân
tỉnh; giám sát hoạt động của thường trực hội đồng nhân dân,
ủy ban nhân dân, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp, ban của hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn
bản quy phạm pháp luật của ủy ban nhân dân cùng cấp và
văn bản của hội đồng nhân dân cấp huyện”.
Khoản 4, Điều 26, Luật tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 quy định hội đồng nhân dân huyện có thẩm
quyền: “Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở
địa phương, việc thực hiện nghị quyết của hội đồng nhân
dân huyện; giám sát hoạt động của thường trực hội đồng
nhân dân, ủy ban nhân dân, tòa án nhân dân, viện kiểm
sát nhân dân cùng cấp, ban của hội đồng nhân dân cấp
mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của ủy ban
7


nhân dân cùng cấp và văn bản của hội đồng nhân dân cấp
xã có thẩm quyền”.
Khoản 5, Điều 33, Luật tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 quy định hội đồng nhân dân xã có thẩm quyền:
“Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương,
việc thực hiện nghị quyết của hội đồng nhân dân xã; giám sát
hoạt động của thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân
dân cùng cấp, ban của hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát
văn bản quy phạm pháp luật của ủy ban nhân dân cùng cấp”.
Những quy định trên đây đã tạo khuôn khổ pháp lý cho
hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, góp phần nâng cao
hiệu quả, hiệu lực hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân, từng bước đáp ứng những đòi hỏi thực tiễn

cuộc sống, đảm bảo cho hoạt động của quản lý nhà nước các
cấp ngày càng được công khai, minh bạch.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn giám sát của
Quốc hội, hội đồng nhân dân cũng vẫn còn nhiều hạn chế.
Những quy định pháp luật về chủ thể, đối tượng, nội dung,
phạm vi, hình thức giám sát,... cịn nhiều bất cập. Một loạt
vấn đề như năng lực và trách nhiệm của chủ thể thực hiện
giám sát; năng lực và nhận thức, mức độ tham gia của các
đối tượng giám sát và của người dân; cách thức tổ chức thực
hiện; các điều kiện thực hiện giám sát,... chưa đáp ứng được
yêu cầu hoạt động, đã làm cho hiệu lực và hiệu quả giám sát
của Quốc hội cũng như của hội đồng nhân dân chưa đạt được
như mong muốn. Điều này đang thể hiện ở mọi lĩnh vực của
hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, trong đó có hoạt động
giám sát thực thi chính sách, pháp luật an sinh xã hội.
Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta
rất quan tâm đến vấn đề an sinh xã hội. Hiến pháp năm 1992 Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước đã ghi
8


nhận những định hướng mục tiêu và các nội dung cốt lõi của
chính sách bảo đảm an sinh xã hội. Hiến pháp năm 2013 Hiến pháp của thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập
quốc tế tại khoản 1, Điều 34 đã ghi rõ: “Cơng dân có quyền
được bảo đảm an sinh xã hội”. Theo tinh thần của Hiến pháp,
luật và các văn bản chính sách, pháp luật về an sinh xã hội
trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, trợ giúp xã hội và giảm nghèo,... đã được ban hành,
góp phần bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội của
người lao động, người già, người thất nghiệp, ốm đau bệnh
tật và người có hồn cảnh khó khăn trong cuộc sống.

Mặc dù vậy, việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh
xã hội hiện đang còn nhiều bất cập: tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp còn thấp, tỷ lệ bao phủ
của trợ giúp xã hội chưa cao... Điều này đang là những thách
thức đối với việc thực thi các quy định chính sách, pháp luật về
an sinh xã hội ở nước ta, đòi hỏi phải tăng cường giám sát việc
thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội.
Hiện nay, ở nước ta, chức năng giám sát việc thực thi chính
sách, pháp luật về an sinh xã hội được thực hiện bởi nhiều tổ
chức khác nhau như: Quốc hội, hội đồng nhân dân; cơ quan
quản lý nhà nước; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng như các
đoàn thể chính trị - xã hội. Tuy nhiên, việc phân định về nội
dung, mục tiêu, phạm vi, hình thức cũng cịn chưa thật rõ ràng,
cịn có sự chồng chéo. Hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan
dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật an sinh xã hội
chưa cao. Theo đánh giá của Quốc hội, hoạt động giám sát,
trong đó bao gồm giám sát việc thực thi chính sách an sinh xã
hội vẫn là khâu yếu, có nhiều hạn chế, nhiều hoạt động cịn
hình thức, sự đổi mới còn chậm và hiệu quả chưa cao, chưa đáp
9


ứng yêu cầu cuộc sống và nguyện vọng của nhân dân. Trong
khi đó, lại chưa có một cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về
vấn đề này để tạo cơ sở lý luận cho việc giám sát thực thi chính
sách, pháp luật về an sinh xã hội một cách có hiệu quả. Chính
vì thế, nội dung cuốn sách Nâng cao hiệu quả giám sát của
cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp
luật về an sinh xã hội ở Việt Nam khơng những có ý nghĩa
thực tiễn mà cịn có ý nghĩa lý luận cấp bách nhằm góp phần

đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội,
hội đồng nhân dân đối với việc thực thi chính sách, pháp luật
về an sinh xã hội ở nước ta.
Về mặt lý luận, cuốn sách này sẽ góp phần làm rõ đặc
điểm và bản chất, chủ thể, đối tượng, phạm vi, hình thức và
nguyên tắc hoạt động giám sát; nội dung và nhân tố ảnh
hưởng tới hoạt động giám sát; đánh giá hiệu quả hoạt động
giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách,
pháp luật an sinh xã hội.
Về mặt thực tiễn, trên cơ sở đánh giá được thực trạng
giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân đối với việc thực
thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội hiện nay, chỉ ra
những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của hạn chế trong
hoạt động giám sát của cơ quan dân cử đối với việc thực thi
chính sách, pháp luật về an sinh xã hội; từ đó, nhóm tác giả
đề xuất quan điểm, phương hướng và các giải pháp nhằm đổi
mới và nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội, hội đồng
nhân dân đối với việc thực thi chính sách, pháp luật về an
sinh xã hội ở nước ta trong những năm tới. Những khuyến
nghị được đưa ra sẽ là luận cứ cho việc hoàn thiện các văn
bản pháp quy và tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về an
sinh xã hội ở nước ta giai đoạn 2020 - 2030.
10


Xuất phát từ thực tế hoạt động giám sát thực thi chính
sách, pháp luật về an sinh xã hội hiện nay, nội dung cuốn
sách tập trung vào những điểm then chốt sau đây:
- Xây dựng được khung giám sát để phân định rõ chủ thể,
đối tượng, phạm vi, nội dung, hình thức, cơng cụ giám sát

của cơ quan dân cử đối với thực thi chính sách, pháp luật về
an sinh xã hội.
- Xây dựng quan điểm phương pháp luận và hệ tiêu chí
đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan dân cử đối
với việc thực thi chính sách, pháp luật về an sinh xã hội ở
nước ta.
- Trên cơ sở thực trạng hoạt động giám sát hiện nay, xác
định quan điểm, phương hướng và đề xuất hệ thống giải
pháp nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát
của cơ quan dân cử đối với việc thực thi chính sách, pháp luật
về an sinh xã hội những năm tới.
2. Giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật nói
chung, pháp luật về an sinh xã hội nói riêng là một trong
những mảng cơng việc quan trọng của các cơ quan dân
cử và thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
a) Trên thế giới
Thứ nhất, về vấn đề giám sát của cơ quan dân cử:
Elizabeth (2012) đã đề cập đến khái niệm, ý nghĩa của
hoạt động giám sát của quốc hội và các cơ quan dân cử đối
với việc thực hiện chính sách, pháp luật. Nghiên cứu đã chỉ
ra rằng, giám sát được áp dụng nhằm đánh giá chất lượng
đầu ra của các quyết sách, thẩm định chính sách hoặc việc
thực hiện chính sách, pháp luật. Giám sát có thể phát hiện
sự lãng phí, thiếu hiệu quả của chính sách, thực hiện chính
11


sách, pháp luật. Bên cạnh đó, giám sát được coi là một cách
thức để tăng cường tiếng nói của người thụ hưởng chính
sách, pháp luật và cũng chính là một điều kiện để thực hiện

chính sách, pháp luật thành cơng.
Elcock (2005) nghiên cứu về các nguyên tắc giám sát của
cơ quan dân cử đối với việc thực hiện các chính sách, pháp
luật. Elcock chỉ ra rằng, giám sát của cơ quan dân cử cần
dựa trên các nguyên tắc như: đảm bảo tính giải trình, dựa
trên sự hài lịng của người dân, thu hút sự tham gia của
công chúng và hướng đến tính hiệu quả, hiệu lực của chính
sách, pháp luật.
Nghiên cứu của Eilen (2010) về tăng cường giám sát của
cơ quan dân cử đối với thực hiện các chính sách, pháp luật ở
Philíppin đã làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến tính chất, mức
độ, phạm vi, hiệu quả của cơng tác giám sát, bao gồm: mối
quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương, mối quan hệ giữa các cơ quan giám sát và cơ quan
hành chính, hệ thống đảng phái chính trị của quốc gia và địa
phương và năng lực giám sát của cơ quan dân cử.
Elizabeth (2012) đã nghiên cứu các công cụ giám sát của cơ
quan dân cử đối với thực hiện pháp luật và chính sách ở một số
nước trên thế giới như Nam Phi, Tanzania, Philíppin và rút ra
kết luận: Các cơ quan giám sát cần phải tìm kiếm, đa dạng hóa
việc áp dụng các công cụ giám sát, bao gồm: xem xét báo cáo,
tài liệu, sử dụng các tiểu ban giám sát, tổ chức các phiên điều
trần và các công cụ giám sát về tài chính, ngân sách.
Cơng trình nghiên cứu Chức năng giám sát của Quốc hội
trong nhà nước pháp quyền của Rainer (2011) đã đề xuất một
số kiến nghị nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Quốc
hội như: xác định chính xác về pháp luật và về thực tiễn mục
12



đích, phạm vi, đối tượng, nội dung, cơng cụ, phương pháp...
giám sát. Sau đó, cần tập trung vào các điều kiện bảo đảm cho
việc giám sát có hiệu quả như: thành lập các thiết chế độc lập,
thường xuyên hoặc lâm thời để thu thập thông tin và tổ chức
đánh giá có hiệu quả hoạt động của cơ quan hành pháp (Ủy
ban điều tra, Thanh tra của Quốc hội, Ủy ban thông tin...).
Thứ hai, nghiên cứu về giám sát và đánh giá an sinh xã hội:
(1) Nghiên cứu tính cấp thiết phải có sự giám sát, đánh
giá chính sách, pháp luật về an sinh xã hội: Theo Stephanie
Brockerhoff (2013), quyền an sinh xã hội là một trong
những quyền về kinh tế - xã hội được bảo đảm trong Hiến
pháp Nam Phi, bao gồm một tập hợp rộng rãi của quyền
trong Chương II dẫn trong Hiến pháp được dự báo là một
trong những bản hiến pháp tiến bộ nhất trên thế giới: “Mọi
người đều có quyền được tiếp cận với... an sinh xã hội...;
nếu họ không thể nuôi sống bản thân và người phụ thuộc
của họ, trợ giúp xã hội thích hợp, Nhà nước phải thực hiện
hợp lý lập pháp và các biện pháp khác, trong phạm vi
nguồn lực sẵn có của mình, để đạt được việc thực hiện tiến
bộ của từng quyền”.
Hiến pháp bảo đảm quyền an sinh xã hội cho tất cả và hỗ
trợ xã hội cho những người không có thể chăm sóc bản thân
hoặc người phụ thuộc của họ. Đây là một tính năng nổi bật
của Hiến pháp Nam Phi. Mặt khác, việc cung cấp các quyền
này là phụ thuộc vào sự sẵn có của các nguồn lực. Do các
nguồn lực của nhà nước còn hạn chế nên nếu nhà nước chỉ có
nghĩa vụ phải thực hiện quyền trong nguồn lực sẵn có của
mình, thì việc thực hiện các quyền sẽ phụ thuộc vào việc có
bao nhiêu nguồn lực sẵn có được ưu tiên cho việc thực hiện an
sinh xã hội so với chi tiêu cho giáo dục, kinh tế, quốc phòng.

13


Hiến pháp cũng địi hỏi chính phủ phải có các biện pháp
pháp lý để đạt được việc thực hiện các quyền an sinh xã hội.
Toà án Hiến pháp đã giải thích điều này có nghĩa là nó có thể
đánh giá cho dù các phương tiện được lựa chọn có hợp lý và
có khả năng tạo điều kiện cho việc thực hiện các quyền về
kinh tế - xã hội hay không. Nói cách khác, Tịa án Hiến pháp
xác định một chính sách hợp lý bằng cách đánh giá khả năng
và mức độ các chính sách được dự kiến có thể cải thiện mọi
thứ so với mong muốn. Tòa án Hiến pháp xây dựng các tiêu
chuẩn để đánh giá khả năng đáp ứng của một chính sách
hoặc chương trình với các tiêu chí như sau:
- Chương trình phải đầy đủ, chặt chẽ và có tính phối hợp;
- Nguồn lực tài chính và con người phù hợp phải được
tính tốn sẵn cho các chương trình;
- Nó phải được cân bằng, linh hoạt và thực hiện phòng ngừa
phù hợp cho các nhu cầu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn;
- Nó phải được hình thành một cách hợp lý và được thực
hiện; phải được minh bạch và công chúng phải biết được nội
dung hoạt động và hiệu quả đạt được;
- Cuối cùng, hiến pháp cũng buộc các nhà nước để bảo vệ,
phát huy và thực hiện các quyền nêu trong Tuyên ngôn quốc
tế nhân quyền của Liên hợp quốc. Các tịa án đã đóng một
vai trò rất quan trọng trong việc thực thi an sinh xã hội bằng
cách làm nổi bật sự liên kết chặt chẽ giữa an sinh xã hội và
các giá trị hiến pháp nền tảng của phẩm giá con người, bình
đẳng và tự do trong quyết định của mình.
(2) Nghiên cứu về hệ thống giám sát, đánh giá chính

sách, pháp luật về an sinh xã hội: Ủy ban Kế hoạch - Kinh
tế - Tổng hợp của Chính phủ nước Cộng hịa nhân dân
Bănglađét (2015) đã chỉ ra rằng, hệ thống giám sát và
14


đánh giá hệ thống an sinh xã hội sẽ phục vụ ba loại mục
tiêu chính:
- Mục tiêu chiến lược (strategicgoal) là chiến lược an sinh
xã hội đạt được mục tiêu của mình để giảm đói nghèo, bất
bình đẳng; đồng thời, có đóng góp trong việc cải thiện sự phát
triển của con người và tăng trưởng kinh tế toàn diện.
- Mục tiêu hoạt động (operationalgoal) là làm thế nào có
thể quản lý nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội.
- Mục tiêu học tập (learninggoal) là những gì có thể học
được từ việc thực hiện các chiến lược an sinh xã hội.
Cơ sở dữ liệu trong hệ thống giám sát và đánh giá các
chiến lược an sinh xã hội do đó sẽ được yêu cầu ở ba cấp độ
khác nhau: (1) Giám sát chương trình cá nhân; (2) Giám sát
quá trình chiến lược an sinh xã hội; (3) Đánh giá tác động
của hệ thống an sinh xã hội.
1) Giám sát các chương trình cá nhân trong chiến lược
an sinh xã hội là hoạt động nhằm mục đích thu thập và tổng
hợp thông tin về các chỉ số hiệu suất như: số lượng khách
hàng phục vụ; số lượng lợi ích trả tiền; lợi ích trung bình
mỗi người nhận; giá trị lợi ích thực tế như tỷ lệ hộ gia đình,
thu nhập bình quân đầu người; giá cả để chuyển một đơn vị
giá trị.
Họ cũng sẽ theo dõi hiệu quả trước mắt của các chương
trình, dưới tiêu đề chung khác nhau như: hiệu quả kinh tế và

xã hội; nhưng cũng có thể, trong một số trường hợp, dưới tiêu
đề cụ thể hơn như: các tác dụng giáo dục (đối với các chương
trình với mục tiêu giáo dục) hoặc các tác dụng dinh dưỡng (cho
các chương trình sức khỏe hoặc mục tiêu dinh dưỡng). Ví dụ
về các loại chỉ số có thể được sử dụng để giám sát dựa trên kết
quả của các tiêu chí như:
15


- Về hiệu quả kinh tế: tăng đầu tư hộ dân; chuyển đổi cơ
cấu lao động và việc làm trong nước và tiền lương; sự cải
thiện về cơ hội kinh tế, tài chính.
- Về tác động xã hội: gia tăng lịng tự trọng, sự tự tin và
tiếng nói cho những người hưởng lợi; trao quyền cho phụ nữ,
tăng giá trị, trọng lượng lời nói của các đối tượng này trong
việc ra quyết định; giảm khoảng cách về giới trong đầu tư
giáo dục trẻ em.
- Về tác động giáo dục: tuyển sinh tăng và được duy trì;
cải thiện tình hình tham dự lớp học; tăng, nâng bậc và
chuyển trường thứ cấp.
- Về tác dụng dinh dưỡng: kéo dài thời gian cho con bú
(1 - 12 tháng); tăng tính đa dạng trong chế độ ăn uống (6 - 23
tháng); chế độ ăn uống của trẻ được cải thiện (6 - 23 tháng) bao gồm việc nuôi con bằng sữa mẹ và tần số, chất lượng bữa
ăn; cải thiện mức độ đa dạng trong chế độ ăn uống (cho phụ
nữ trong độ tuổi sinh sản).
Phần lớn các thông tin cần thiết để theo dõi các chương
trình cá nhân sẽ đến từ các hệ thống quản lý và báo cáo của
từng chương trình. Điều quan trọng là những thơng tin được
tích hợp để có thể chia sẻ, tổng hợp và so sánh. Điều này
không có nghĩa là nhất thiết phải có một hệ thống quản lý và

báo cáo duy nhất, tách biệt giữa các chương trình, chiến lược
và cũng khơng có nghĩa là phải có một cơ sở dữ liệu thống
nhất về đối tượng thụ hưởng, mà thường là khơng thực tế.
Thay vào đó, nó địi hỏi việc sử dụng các chỉ số chung cho các
chương trình, cho phép so sánh và tổng hợp dữ liệu, và một
định chung cho từng đối tượng trên tất cả các cơ sở dữ liệu.
Một công cụ giám sát và đánh giá quan trọng trong việc
giám sát các chương trình cá nhân sẽ được sử dụng tại chỗ để
16


kiểm tra độc lập và khách quan nhằm xác minh tính tồn vẹn
của dữ liệu được tạo ra thơng qua các chương trình cá nhân.
2) Giám sát là việc thực hiện tổng thể chiến lược an sinh xã
hội tự giám sát và đánh giá trong lĩnh vực này sẽ trả lời những
câu hỏi như: Làm chiến lược đạt được hưởng lợi? Làm chiến
lược loại trừ mục đích hưởng lợi? Các kết quả mong muốn do
chiến lược tạo ra? Tác động vào phần cịn lại của dân số là gì?
Có cách tốt hơn để thiết kế các thành phần của chiến lược
khơng? Chiến lược được quản lý có hiệu quả hơn khơng? Có các
nguồn lực phân bổ có được chi tiêu một cách hiệu quả khơng?
Hoạt động tài chính có theo thiết kế chiến lược khơng?
Điều này địi hỏi các chỉ số cho phép theo dõi các khía
cạnh tài chính, hoạt động và thể chế của chiến lược.
- Về khía cạnh tài chính: Bao gồm các chỉ số như: tỷ lệ
phần trăm chi an sinh xã hội trên GDP; tỷ lệ phần trăm chi
an sinh xã hội của tổng chi tiêu cơng; tỷ lệ phần trăm chi
hành chính so với tổng chi phí chương trình...
- Về khía cạnh hoạt động: Bao gồm các chỉ số như: số
hưởng lợi từ dịch vụ; số lượng lợi ích trả bằng tiền; lợi ích

trung bình mỗi người nhận được; tỷ lệ phần trăm người
hưởng lợi so với dân số.
- Về khía cạnh thể chế: Bao gồm các chỉ số như: số lượng
cán bộ làm việc trong lĩnh vực này; số lượng nhân viên (ở cấp
trung ương và cấp địa phương) được đào tạo; khả năng cải
thiện tổng thể các mục tiêu, giải ngân, giao hàng và quản lý
rủi ro hệ thống; nâng cao mức đáp ứng nhu cầu bổ sung;
nâng cao phản ứng phía cung; nâng cao hiệu suất của chính
phủ để duy trì và tiếp tục với chiến lược an sinh xã hội.
3) Đánh giá tác động của hệ thống an sinh xã hội: Đây là
vấn đề quan trọng nhất, làm nền cho sự ra đời của phương
17


pháp tiếp cận dựa vào hiệu quả hoạt động, đó là sự đánh giá
tác động tổng thể của hệ thống an sinh xã hội; xem xét các
vấn đề về tính hiệu quả và hiệu quả của chiến lược an sinh xã
hội trong việc đạt được mục tiêu của nó và những tác động
dài hạn ở các khu vực khác nhau như các chỉ số kinh tế, xã
hội, giáo dục và dinh dưỡng. Có thể được đề xuất theo các
nhóm khác nhau dưới đây:
- Về hiệu quả: giảm phần trăm tỷ lệ đói nghèo; giảm phần
trăm khoảng cách nghèo; giảm sự bất bình đẳng, dựa trên hệ
số gini1 hoặc đo lường khác; chi phí mỗi lần cắt giảm đơn vị
khoảng cách nghèo;...
- Tác động kinh tế: tăng chi tiêu hộ gia đình; tăng tiết
kiệm và giảm nợ; tăng đầu tư sản xuất hoặc kinh tế của hộ
gia đình; tăng hộ gia đình có thu nhập bình qn đầu người.
- Tác động xã hội: chuyển biến trong thái độ của giới xã
hội; lựa chọn sinh kế cải thiện và cơ hội; cải thiện thái độ đối

với giáo dục của trẻ em gái...
- Tác động giáo dục: giảm bất bình đẳng giới, cải thiện
kết quả học tập và thành tích học tập; số học sinh đến trường
trung học và đại học cao hơn; tăng số năm đi học, giảm tình
trạng lưu ban...
- Tác động dinh dưỡng: tăng các chỉ số cải thiện sức khỏe
và dinh dưỡng (tiêm chủng, tỷ lệ mắc bệnh, đa dạng chế độ
ăn uống, lượng calo); giảm tình trạng thấp còi; giảm tỷ lệ tử
vong bà mẹ và trẻ sơ sinh.
(3) Nghiên cứu về giám sát của cơ quan dân cử trong việc
thực hiện chính sách, pháp luật về an sinh xã hội: Maarse và
________________
1. Hệ số gini dùng để biểu thị độ bất bình đẳng trong thu nhập trên
nhiều vùng miền, tầng lớp của một đất nước.

18


cộng sự (2005) trình bày kết quả nghiên cứu so sánh quốc tế
giám sát việc thực hiện chính sách bảo hiểm y tế xã hội. Các
quốc gia được nghiên cứu bao gồm: Bỉ, Đức, Thụy Sĩ và Hà
Lan. Kết quả nghiên cứu cho thấy cấu trúc thể chế giám sát
giữa các quốc gia này có nhiều sự khác biệt, nhưng các mục
tiêu của giám sát thì có sự giống nhau nhất định như: bảo
đảm tính hợp pháp của việc thực hiện; bảo đảm sự tin cậy và
ổn định; bảo đảm tính hiệu quả và hỗ trợ hoạch định chính
sách. Việc thực hiện quá trình giám sát tập trung vào ba nội
dung: thu thập thông tin, đánh giá hiệu quả hoạt động của
giám sát và can thiệp để điều chỉnh hành vi sai lệch. Nghiên
cứu cũng đề xuất những thay đổi trong việc giám sát, đặc

biệt là tác động của thị trường cạnh tranh trong giám sát
chính sách bảo hiểm y tế xã hội. Nghiên cứu còn cho rằng, thị
trường cạnh tranh sẽ làm thay đổi đáng kể vai trò của các cơ
quan giám sát bảo hiểm y tế xã hội.
b) Ở Việt Nam
(1) Nghiên cứu về vấn đề trao quyền giám sát cho cơ quan
dân cử giám sát việc thực hiện quyền lực của Nhà nước:
Giám sát là một trong những chức năng quan trọng của
Quốc hội và các cơ quan dân cử. Chất lượng của hoạt động
giám sát có tác động tích cực đến chất lượng của hoạt động lập
pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Hoạt động giám sát của Quốc hội và các cơ quan dân cử khơng
chỉ nhằm mục đích đưa pháp luật vào cuộc sống, bảo đảm cho
pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong cả
nước mà còn nhằm đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
19


nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Báo cáo nghiên cứu quy trình giám sát của Quốc hội của Văn
phịng Quốc hội và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
(UNDP) (2013) đã đưa ra các cơ sở lý luận về hoạt động giám
sát và thực trạng quy trình, một số giải pháp nâng cao chất
lượng giám sát của Quốc hội và các cơ quan dân cử nói chung;
tuy nhiên, vẫn chưa có quy trình giám sát cho các chính sách,
pháp luật đối với an sinh xã hội.
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân
dân với 5 chương và 91 điều, quy định về hoạt động giám sát
của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc,

các ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu
Quốc hội; hội đồng nhân dân, thường trực hội đồng nhân dân,
các ban của hội đồng nhân dân, tổ đại biểu hội đồng nhân dân
và đại biểu hội đồng nhân dân; trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự giám sát, cơ quan, tổ chức và cá nhân
khác có liên quan đến hoạt động giám sát là văn bản pháp lý
trao quyền giám sát cho Quốc hội và các cơ quan dân cử. Luật
được ban hành nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực, hiệu quả
giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, bảo đảm sự
thống nhất, khoa học trong xác định đối tượng, phạm vi, thẩm
quyền, trình tự giám sát của từng chủ thể giám sát; bảo đảm
quyền, trách nhiệm của chủ thể giám sát và đối tượng chịu sự
giám sát; phát huy vai trò của giám sát, góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước,...
Cho đến nay, vấn đề giám sát thực thi chính sách, pháp
luật ở nước ta đã được nhiều cơng trình nghiên cứu, cả dưới
góc độ chung và đi vào từng cơ chế, hình thức, chủ thể, đối
tượng của hoạt động giám sát.
20


Cuốn sách Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện
quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay do Đào Trí Úc và Võ
Khánh Vinh đồng chủ biên tập hợp nhiều bài viết của nhiều
nhà khoa học về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà
nước. Từ phân tích, đánh giá những hạn chế, bất cập trong
hoạt động thực tiễn của cơ chế giám sát quyền lực nhà nước
ở Việt Nam, các tác giả chỉ rõ sự khác biệt giữa giám sát bên
trong hệ thống quyền lực nhà nước, mang tính quyền lực
nhà nước và giám sát bên ngồi, khơng mang tính quyền lực

nhà nước1.
Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Chí Dũng Về cơ
chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở Việt Nam là cơng
trình đi sâu phân tích về cơ chế pháp lý giám sát đối với các
hoạt động tư pháp bên trong nhà nước. Cơng trình đã làm
rõ cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư
pháp; phân tích q trình hình thành, phát triển và thực
trạng cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở Việt
Nam; từ đó nêu lên những yêu cầu cấp thiết, quan điểm và
các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý, giám sát hoạt động
tư pháp ở Việt Nam hiện nay2.
Cuốn sách Hoạt động giám sát của cơ quan dân cử ở Việt
Nam - Vấn đề và giải pháp của Nguyễn Sỹ Dũng và Vũ Công
Giao (2015) đã phân tích những vấn đề lý luận về hoạt động
giám sát của cơ quan dân cử trên cơ sở phân tích sự hình
________________
1. Xem Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên): Giám sát và cơ
chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay,
Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2003.
2. Xem Nguyễn Chí Dũng: Về cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư
pháp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, 2009.

21


thành chức năng giám sát ở nghị viện các nước trên thế giới
và của cơ quan dân cử ở Việt Nam; phân tích các quan niệm
về hoạt động giám sát; đối tượng của hoạt động giám sát; các
công cụ được sử dụng trong hoạt động giám sát; mối quan hệ

giữa hoạt động giám sát với các hoạt động khác của nghị viện
và hệ quả trách nhiệm của hoạt động giám sát. Trên cơ sở đó,
cuốn sách phân tích thực trạng hoạt động giám sát của cơ
quan dân cử ở Việt Nam, đã làm rõ thực trạng và nguyên
nhân của những thành tựu và hạn chế của phạm vi hoạt
động giám sát, của chủ thể giám sát, của công cụ giám sát,
của các điều kiện đảm bảo thực hiện hoạt động giám sát. Từ
đó, tác giả đã khuyến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan dân
cử ở Việt Nam những năm tới1.
Trương Thị Hồng Hà trong bài viết “Thực hiện pháp luật
về giám sát của Quốc hội - Thực trạng và vấn đề đặt ra” đã
làm rõ hình thức phương pháp giám sát của Quốc hội, nêu ra
những bất cập của các hình thức giám sát như: hình thức
chất vấn của đại biểu Quốc hội, hình thức giám sát văn bản
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tịa án nhân dân tối
cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hình thức giám sát
thơng qua việc thành lập các đồn giám sát tại địa phương,
hình thức giám sát giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của
nhân dân, hình thức xét báo cáo; hình thức thành lập ủy ban
lâm thời. Bài viết cũng đã làm rõ trình tự, thủ tục của cơ chế
pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội và cho
________________
1. Xem Nguyễn Sỹ Dũng, Vũ Công Giao (đồng chủ biên): Hoạt động
giám sát của cơ quan dân cử ở Việt Nam - Vấn đề và giải pháp,
Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2015.

22



rằng, trình tự, thủ tục của cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng
giám sát của Quốc hội thời gian vừa qua còn bộc lộ những yếu
kém và cần được giải quyết kịp thời nhằm nâng cao tính hiệu
quả, thiết thực trong hoạt động giám sát của Quốc hội nước
ta1. Đồng thời, bài viết đã tiến hành đánh giá hoạt động giám
sát của Quốc hội nước ta trong thời gian qua và đặt ra những
vấn đề nhằm đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội.
Bài viết “Một số vấn đề về hoạt động giám sát của Quốc
hội” của Trần Tuyết Mai cho thấy mục đích, nội dung giám
sát của Quốc hội là nhằm bảo đảm cho những quy định của
Hiến pháp và pháp luật được thi hành triệt để, nghiêm chỉnh
và thống nhất. Nội dung giám sát của Quốc hội bao gồm hoạt
động theo dõi tính hợp hiến và hợp pháp đối với nội dung các
văn bản do các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát trực tiếp
của Quốc hội ban hành cũng như tính hợp hiến, hợp pháp
trong hoạt động thực tiễn của các cơ quan nhà nước; thẩm
quyền của các chủ thể thực hiện hoạt động giám sát, các hình
thức giám sát2...
Trong bài viết “Tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động
giám sát của Quốc hội”, tác giả Bùi Sỹ Lợi cho rằng chức
năng giám sát của Quốc hội đóng vai trị quan trọng trong
đời sống chính trị... Sẽ là thiếu hiệu quả nếu chỉ dừng lại ở
việc sửa đổi các quy định pháp luật mà khơng tính đến các
biện pháp bảo đảm cho hoạt động giám sát hiệu lực, hiệu
quả. Bài viết làm rõ các quy định hiện hành của pháp luật về
________________
1. Xem Trương Thị Hồng Hà: “Thực hiện pháp luật về giám sát của
Quốc hội - Thực trạng và những vấn đề đặt ra” tạp chí Nghiên cứu luật
pháp, 2009.
2. Xem Trần Tuyết Mai: “Một số vấn đề về hoạt động giám sát của

Quốc hội”, Bản tin Thông tin khoa học lập pháp, số 01 (24), 2016.

23


×