MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1.
3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM
XÃ HỘI ĐỐI VỚI ĐẢM BẢO AN SINH XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề chung về an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội
1.2. Quan niệm, nội dung biểu hiện vai trò của bảo hiểm xã
12
12
hội đối với đảm bảo an sinh sinh xã hội ở Việt Nam
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI
24
Chương 2.
ĐỐI VỚI ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM THỜI GIAN QUA
2.1. Kết quả, hạn chế biểu hiện vai trò của chính sách bảo
38
hiểm xã hội đối với đảm bảo an sinh xã hội ở Việt Nam
2.2. Nguyên nhân và vấn đề đặt ra cần giải quyết về vai trò
38
của bảo hiểm xã hội đối với đảm bảo an sinh xã hội
ở Việt Nam.
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI
54
TRÒ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI ĐẢM
BẢO AN SINH XÃ HỘI Ở NƯỚC TA THỜI
3.1.
GIAN TỚI
Phương hướng, mục tiêu phát huy vai trò của bảo hiểm
69
xã hội đối với đảm bảo an sinh xã hội ở nước ta trong
thời gian tới
3.2. Giải pháp cơ bản phát huy vai trò của bảo hiểm xã hội
69
đối với đảm bảo an sinh xã hội ở Việt Nam trong thời
gian tới (2016 - 2020)
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
74
95
97
103
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống hàng ngày, con người có thể gặp những biến cố bất thường,
những rủi ro xảy ra làm giảm hoặc mất khả năng tiếp tục lao động bình thường đảm
bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình họ. Để khắc phục những khó khăn khi tình
tình huống đó diễn ra, nhân loại đã tìm được một cơ chế thích hợp. BHXH - “sự
bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị
giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quĩ
BHXH” [43], chính là cơ chế thích hợp đó.
Ở nước ta, BHXH là trụ cột chính, nằm trong hệ thống các chính sách
ASXH của Nhà nước ta có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hỗ trợ nguồn
tài chính đối với các cá nhân tham gia khi họ không may gặp rủi ro, ốm đau,
thất nghiệp và lúc tuổi già. Đối tượng của BHXH là người lao động, hoạt động
BHXH đảm bảo, duy trì và phát triển nguồn lao động cho nền sản xuất xã hội;
đảm bảo sự bình đẳng về vị thế xã hội của người lao động trong các thành
phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy sản xuất phát triển; giúp ổn định và trợ giúp
cuộc sống khi người lao động khi gặp rủi ro; là công cụ đắc lực của Nhà nước,
góp phần vào việc phân phối lại thu nhập một cách công bằng, hợp lý giữa các
tầng lớp dân cư, đồng thời giảm chi cho ngân sách nhà nước. [52]
Trong những năm qua, BHXH Việt Nam đã phát huy vai trò là trụ cột
chính trong đảm bảo ASXH. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được,
thực tiễn cũng cho thấy những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường cùng
một số nguyên nhân khách quan và chủ quan khác, làm nảy sinh những vấn đề
mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và toàn xã hội cùng chung tay giải quyết nhiều
vấn đề liên quan đến việc thực thi pháp luật về BHXH, BHYT, thực hiện các
chính sách về BHXH chưa được thật sự tốt. Thực tiễn cho thấy để đảm bảo
ASXH, còn nhiều việc phải làm để ý nghĩa nhân văn của chính sách đó thực
sự tỏa sáng và để BHXH thực sự là trụ cột chính của ASXH.
3
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tác giả chọn đề tài “Vai trò
của bảo hiểm xã hội đối với đảm bảo an sinh xã hội ở Việt Nam” làm luận
văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị của mình, dưới góc độ nghiên cứu
việc thực thi chính sách, pháp luật về các chính sách BHXH, sự ảnh hưởng
của nó đối với đảm bảo ASXH ở Việt Nam trong những năm qua. Từ đó đưa
ra phương hướng mục tiêu thực hiện nhằm phát huy vai trò đảm bảo của
BHXH đối với ổn định ASXH ở Việt nam đến năm 2020.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vai trò của chính sách BHXH đối với ASXH ở nước ta hiện nay là một
vấn đề cần có biện pháp thực hiện đã được Đảng và Nhà nước ta luôn quan
tâm; đã được các cơ quan khoa học, các học giả, nhà quản lý quan tâm nghiên
cứu trên nhiều góc độ, dưới các hình thức như: Đề tài khoa học các cấp, sách
tham khảo và chuyên khảo, các đề tài luận văn, luận án, các bài báo được đăng
tải trên các báo, tạp chí,..Có thể khái quát thành các loại dạng sau:
* Các công trình nghiên cứu về an sinh xã hội và chính sách an sinh xã hội.
- “Y học xã hội và an sinh xã hội ở Việt Nam” của đồng tác giả Phó
giáo sư -Tiến sĩ Nguyễn Đức Trọng và Tiến sĩ Đỗ Văn Dung, Nxb Dân trí, Hà
nội, 2014. Trong công trình nghiên cứu này các tác giả đã đề cập đến giải
quyết các vấn đề y học xã hội và các vấn đề xã hội khác hướng tới ASXH
công bằng, đa dạng, bao phủ toàn dân và hiệu quả. Các tác giả đã giành một
chuyên đề nghiên cứu về an sinh xã hội, nêu nên tổng quan cơ bản của an sinh
xã hội, chức năng, vai trò và cấu trúc của ASXH, đưa ra nội dung xây dựng hệ
thống ASXH công bằng, đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Các tác giả
cũng đưa ra thực trạng và những thách thức đối với ASXH ở Việt Nam, đồng
thời cũng đề ra một số giải pháp cơ bản hướng tới ASXH công bằng, đa dạng,
bao phủ toàn dân và hiệu quả. Nhưng các tác giả chưa nghiên cứu đến hệ
thống các chính sách BHXH là chính sách trụ cột của ASXH có ảnh hưởng và
tác động rất mạnh mẽ đến ổn định và bảo đảm ASXH.
4
-“Phát triển hệ thống ASXH ở Việt Nam đến năm 2020” của nhóm tác
giả: Nguyễn Thị Lan Hương, Đặng Kim Chung, Lưu Quang Tuấn Viện,
Nguyễn Bích Ngọc, Đặng Hà Thu - Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Hà
nội 11/2013, các tác giả đã khái quát những vấn đề chung về ASXH và đưa ra
một số định hướng phát triển chính sách ASXH ở Việt Nam đến năm 2020
theo Nghị quyết 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020”; tổng hợp
những kết quả đạt được, chỉ ra những tồn tại của chính sách an sinh xã hội
hiện hành, đồng thời đưa ra những định hướng chính sách đến năm 2020. Các
tác giả đã nêu nên tầm quan trọng của ASXH là hệ thống chính sách xã hội cơ
bản trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường của mỗi quốc gia, tầm
quan trọng ấy được thể hiện ở chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng
về bảo đảm ASXH cho người dân trong lãnh đạo đất nước. Tuy nhiên, để đảm
bảo và ổn định ASXH nhóm tác giả chưa đi sâu và nghiên cứu tầm quan trọng
của hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội, sự ảnh hưởng và tác động của nó
đến ổn định và đảm bảo ASXH.
-“Đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội” tác giả Đồng
Thị Hồng, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
2015. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về đảm bảo ASXH, phân tích thực trạng
đảm bảo ASXH trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận án đề xuất phương
hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo tốt ASXH trên địa bàn thành phố
Hà Nội trong thời gian tới.
- “An sinh xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” bài viết của tác giả
Phạm Xuân Năm, tạp chí BHXH số 2(118), năm 2012, trình bày nhận thức chung
về ASXH trên nhiều góc độ; chủ trương quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam
về ASXH trong thời kỳ đổi mới; thực trạng đảm bảo ASXH trong sự gắn bó mật
thiết với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội những
năm qua; đề xuất một số phương hướng giải quyết cho thời gian tới.
- “Phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020”, sách
từ nhiều tác giả thuộc Viện khoa học lao động và xã hội, Tiến sĩ Nguyễn Thị
5
Lan Hương (Viện nghiên cứu chính sách và phát triển (Insititute foe folivies
and development) biên soạn. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ấn
hành tháng 11/2013, sách dày 147 trang trình bày những vấn đề chung về
ASXH, nội dung cơ bản của Nghị quyết số 15-NQ/TW các kết quả đạt được,
những tồn tại của chính sách ASXH hiện hành và các định hướng chính sách
cho giai đoạn từ nay đến năm 2020.
- “Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và thực hiện chính
sách ASXH ở nước ta” của tác giả Nguyễn Hữu Dũng, Tạp chí cộng sản điện
tử 09/6/2008. Tác giả cho rằng kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và thực
hiện chính sách ASXH là xu hướng cùng tiến bộ của nhân loại, là mối quan
tâm của nhiều quốc gia. Đây thực chất là thực hiện một chính sách phát triển
và tăng trưởng kinh tế cộng đồng tạo cơ hội cho mọi người phát triển và được
thụ hưởng đầy đủ các thành quả của phát triển và tăng trưởng kinh tế, phòng
ngừa và khắc phục rủi ro trong kinh tế thị trường và rủi ro khác trong xã hội.
Không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của mọi người ở nước ta đặc biệt
quan tâm và coi trọng chính sách ASXH trong cải thiện nền kinh tế đất nước
vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN trên cơ sở phân tích một
số tồn tại về phát triển và tăng trưởng kinh tế, tác giả đề xuất một hệ thống
giải pháp về bảo đảm ASXH trong phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay.
* Các công trình nghiên cứu về bảo hiểm xã hội và chính sách bảo hiểm xã hội
- “Đổi mới và phát triển Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam” chủ biên Tiến sĩ
Dương Văn Thắng, Nxb Văn hóa -Thông tin. Cuốn sách đã tổng hợp lý luận,
quan điểm và thực tiễn lịch sử hình thành và hoạt động BHXH trong các giai
đoạn kinh tế - xã hội của đất nước. Tác giả đã tổng hợp đánh giá thực tiễn hình
thành và thực hiện các chính sách BHXH qua từng giai đoạn, trong sự nghiệp
đấu tranh cách mạng, kháng chiến kiến quốc. Từ những năm trước Cách mạng
Tháng Tám (đây là thời kỳ hình thành các hoạt động mang tính chất BHXH) đến
thời kỳ kháng chiến chống Pháp và trong thời kỳ kháng chiến chỗng Mỹ. Rồi đến
6
thực tiễn hoạt động BHXH giai đoạn 1975 – 1994 đây là thời kỳ chưa có tổ chức
BHXH nhưng các chính sách về BHXH đã hình thành từ sự đóng góp của người
lao động trong một số ngành kinh tế tập thể và bắt đầu thực hiện thí điểm tại Thủ
đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và lan rộng ra một số tỉnh, thành trong cả
nước như Hải Phòng, Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai và Yên Bái), Thái Bình,
Bà Rịa-Vũng Tàu…Tác giả đã dành nhiều thời lượng nghiên cứu, đúc kết lý
luận, quan điểm và thực tiễn tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam giai
đoạn 1995-2002, đây là giai đoạn tổ chức BHXH ra đời, đánh dấu một bước
ngoặt quan trọng lớn sự phát triển chính sách BHXH cả về lý luận, quan điểm và
nhu cầu thực tế đối với sự phát triển KT-XH của Đất nước. Tuy nhiên, công
trình nghiên cứu này tác giả không đề cập đến sự ảnh hưởng của chính sách
BHXH với ổn định ASXH ở Việt Nam.
- “Hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp ở Việt Nam” của Hoàng Bích Hồng, luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường
Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, năm 2011, tác giả chỉ đề cập đến chế độ tai
nạn LĐ và bệnh nghề nghiệp nằm trong hệ thống các chế độ của BHXH ở Việt
Nam với mục đích nghiên cứu là: Hệ thống hóa và hoàn thiện cơ sở lý luận về
chế độ BHXH tai nạn LĐ và bệnh nghề nghiệp; nghiên cứu chế độ, chính sách
và tình hình thực hiện chế độ BHXH tai nạn LĐ, bệnh nghề nghiệp ở Việt
Nam, chỉ ra những mặt tồn tại và nguyên nhân; Đưa ra những giải pháp hoàn
thiện chế độ BHXH tai nạn LĐ, bệnh nghề nghiệp nhằm phát huy hơn nữa vai
trò của chế độ BHXH tai nạn LĐ, bệnh nghề nghiệp trong việc đảm bảo đời
sống người LĐ sau khi không may bị tai nạn LĐ và mắc bệnh nghề nghiệp.
Tác giả phân tích vai trò của chế độ này với các bên tham gia trong điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, nghiên cứu chế độ tai nạn LĐ, bệnh
nghề nghiệp ở một số nước, đánh giá những ưu, nhược điểm và rút ra bài học
kinh nghiệm để hoàn thiện chế độ BHXH tai nạn LĐ, bệnh nghề nghiệp ở Việt
Nam. Hệ thống hóa các qui định hiện hành về chế độ bồi thường, trợ cấp đối
7
với người bị tai nạn LĐ và mắc bệnh nghề nghiệp, từ đó chỉ ra những hạn chế
của các qui định hiện hành. Đồng thời, tác giả phân tích tình hình thực hiện
chế độ BHXH tai nạn LĐ, bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2005-2009,
phát hiện những tồn tại trong quá trình tổ chức thực hiện, từ đó đề xuất những
quan điểm, giải pháp để hoàn thiện chế độ BHXH tai nạn LĐ, bệnh nghề
nghiệp ở Việt Nam. Tại công trình nghiên cứu này tác giả cũng không nghiên
cứu đến tầm quan trọng, sự ảnh hưởng và tác động của chế độ đến bảo đảm
ASXH ở Việt Nam.
* Các công trình nghiên cứu về chính sách bảo hiểm xã hội liên quan
đến an sinh xã hội
- “Hoàn thiện hệ thống tổ chức và hoạt động chi trả các chế độ bảo
hiểm xã hội ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Chính, Luận án tiến sĩ kinh
tế, Trường Đại học kinh tế quốc dân, Hà nội, năm 2010, tác giả chỉ nghiên cứu
góc độ về vấn đề hoàn thiện công tác tổ chức và tổ chức chi trả các chế độ
BHXH. Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về hệ thống tổ chức và hoạt động
chi trả các chế độ BHXH, tổ chức chi trả chế độ BHXH cho người LĐ của
một số nước trên thế giới và những bài học đối với Việt Nam. Phân tích thực
trạng hệ thống tổ chức và hoạt động chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam,
nêu lên những kết quả đạt được và những vấn đề còn tồn tại của hệ thống tổ
chức và hoạt động chi trả các chế độ BHXH cho người LĐ ở Việt Nam giai
đoạn 2003-2008, từ đó tác giả đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ
thống tổ chức và hoàn chi trả thiện các chế độ BHXH ở Việt Nam thời gian
tiếp theo. Ở công trình ngiên cứu này tác giả cũng không nêu được tầm quan
trọng và vai trò của các chính sách BHXH đến đảm bảo ASXH ở Việt Nam.
Lao động thương bình và Xã hội.
- “Cần xử lý nghiêm các doanh nghiệp quỵt tiền BHXH” của tác giả
Chu Kim Long (); Nguyễn Văn Dưỡng, quận 12,
thành phố Hồ Chí Minh; Trương Văn Trường, quận Gò Vấp, thành phố Hồ
Chí Minh đăng trên báo thanh niên onine ngày 07/4/2015 các ý kiến tập trung
8
vào việc phân tích, chỉ trích hành vi quỵt tiền BHXH đối với người lao động
của các doanh nghiệp đề nghị Nhà nước phải mạnh tay xử lý kể cả việc truy tố
theo Luật hình sự.
Cùng với các đề tài, sách, luận án, các bài báo khoa học còn có một số
các báo cáo tổng kết hàng năm của ngành BHXH Việt Nam, giúp tác giả nhận
thức rõ hơn về việc thực hiện các chính sách BHXH, từ đó nghiên cứu, phân
tích vấn đề một cách xác thực hơn về vai trò của chính sách BHXH đối với ổn
định ASXH ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, đưa ra những giải
pháp thực hiện cho thời gian tới có tính khoa học và thực tiễn hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về vai trò của BHXH đối với đảm bảo
ASXH; trên cơ sở đó đề xuất phương hướng, giải pháp phát huy vai trò của
BHXH đối với đảm bảo ASXH ở Việt Nam thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày, phân tích những vấn đề chung về ASXH và BHXH - với tính
cách là một bộ phận hợp thành của hệ thống ASXH; trên cơ sở đó luận giải làm
quan niệm nội dung biểu hiện và những nhân tố ảnh hưởng tới vai trò của
BHXH đối với đảm bảo ASXH ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng biểu hiện vai trò của BHXH đối với
đảm bảo ASXH ở Việt Nam những năm qua, chỉ rõ nguyên nhân và những
vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp phát huy vai trò của BHXH đối
với đảm bảo ASXH ở nước ta thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của BHXH đối với đảm bảo ASXH.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Đề tài nghiên cứu vai trò của BHXH với
tính cách là các chính sách BHXH (bao gồm BHXH, BHYT và BHTN) và việc hiện
thực hóa chúng biểu hiện ở những dấu hiệu, chỉ số cụ thể trong thực tiễn dưới góc độ
9
của khoa học kinh tế chính trị, không nghiên cứu vai trò của cơ quan BHXH.
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: trên phạm vi cả nước.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Là các tư liệu có được trong khoảng
thời gian từ năm 2011 đến 2015 cho đánh giá thực trạng và 2020 và những
năm tiếp theo cho phương hướng, giải pháp.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các văn bản pháp quy của
nhà nước về chính sách ASXH và BHXH;
* Cơ sở thực tiễn
Đề tài sử dụng số liệu báo cáo của BHXH Việt Nam, tham khảo các tài
liệu có liên quan; các báo tổng kết của BHXH Việt Nam, và kế thừa kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã công bố.
* Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành công trình nghiên cứu luận văn, tác giả đã sử dụng tổng
hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị học: trừu tượng
hóa khoa học, kết hợp logic với lịch sử, phương pháp nghiên cứu sản phẩm
hoạt động. Đồng thời sử dụng một số phương pháp bổ sung khác như: khảo
sát thực tiễn, thống kê, phỏng vấn chuyên gia, phân tích tổng hợp, so sánh…
6. Ý nghĩa của đề tài
Sau khi việc nghiên cứu hoàn thành, những kết quả được trình bày trong
luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nghiên
cứu, cơ quan quản lý thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong nghiên cứu đề
xuất chủ trương chính sách về BHXH với Nhà nước. Kết quả nghiên cứu cũng
có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo về BHXH,
các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ ngành Bảo hiểm xã hội trong toàn
10
quốc. Luận văn cũng có thể sử dụng tham khảo cho các lớp đào tạo giảng
viên, các lớp cao học chuyên ngành kinh tế chính trị tại Học viện Chính trị.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương (6 tiết),
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI
ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề chung về an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội
1.1.1. Những vấn đề chung về an sinh xã hội
* Quan niệm về an sinh xã hội
An sinh xã hội là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trên thế giới và ở
Việt Nam. Nguyên từ tiếng Anh của ASXH là Social Security. Trong tiếng
Việt thuật ngữ Social Security còn được dịch là bảo đảm xã hội, bảo trợ xã
hội, an ninh xã hội, hay an toàn xã hội… ASXH có nội dung rất rộng và ngày
càng hoàn thiện về nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn về tổ chức
thực hiện trong những năm gần đây. Chính vì vậy có nhiều quan niệm khác
nhau xung quanh phạm trù ASXH.
Theo Ngân hàng thế giới (WB) “An sinh xã hội là những biện pháp
công cộng nhằm giúp cho cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và
kiềm chế được nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn
thương và những bấp bênh về thu nhập”. Trong khi đó, tổ chức Lao động quốc
tế (ILO) lại cho rằng: “An sinh xã hội là sự cung cấp phúc lợi cho các hộ gia
đình và cá nhân thông qua cơ chế của nhà nước hoặc tập thể nhằm ngăn chặn
sự suy giảm mức sống hoặc cải thiện mức sống thấp”; còn Ngân hàng phát
triển châu Á (ADB) lại quan niệm, “An sinh xã hội là một hệ thống chính sách
công nhằm giảm nhẹ tác động bất lợi của những biến động đối với các hộ gia
đình và cá nhân” [59].
Mặc dù cùng đề cập đến quan niệm về ASXH, cùng có điểm chung là
hướng tới mục tiêu chung trong quan điểm của Liên hiệp quốc đề cập trong
Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, theo đó xác định quyền được an sinh xã hội
của người dân., nhưng các quan niệm trên lại có sự khác nhau trên những khía
cạnh nhất định. Trong khi Ngân hàng thế giới (WB) nhấn mạnh đến các giải pháp
nhằm kiềm chế nguy cơ làm giảm thu nhập của cá nhân, gia đình và cộng đồng, thì
12
tổ chức Lao động quốc tế (ILO) lại nhấn mạnh khía cạnh phân phối phúc lợi, bảo
hiểm và mở rộng tạo việc làm cho những đối tượng ở khu vực kinh tế không chính
thức; còn Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) lại nhấn mạnh vai trò của nhà nước
trong việc bảo đảm an sinh xã hội, giảm nhẹ những tác động bất lợi đến các cá
nhân và hộ gia đình.
Ở nước ta, ASXH được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Quan niệm
là một hệ thống chính sách và giải pháp được áp dụng rộng rãi để trợ giúp các thành
viên trong xã hội đối phó với những rủi ro và khó khăn khi gặp phải, dẫn đến mất
việc làm hoặc làm suy giảm nghiêm trọng nguồn thu nhập và cuộc sống.
Đảng ta xác định ASXH là một bộ phận trong chiến lược phát triển KTXH, gắn với từng bước đi, từng giai đoạn phát triển của đất nước. Xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là đảm bảo những điều kiện thực
hiện ASXH. Do đó, trong mỗi chính sách phát triển kinh tế phải đảm bảo
ASXH, gắn với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, vừa tạo động lực
tăng trưởng kinh tế vừa thực hiện công bằng xã hội, vì mục tiêu phát triển con
người, phát huy tối đa nguồn lực con người.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta xác định: "Hoàn
thiện hệ thống chính sách, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế với
các mục tiêu chính sách xã hội; thực hiện tiến bộ công bằng xã hội trong từng
chính sách phát triển, phù hợp với điều kiện cụ thể. Phát triển hệ thống ASXH đa
dạng ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp…” [25, tr.124, 125]. Chủ trương về ASXH trên đây thể hiện rõ quan
điểm, tư tưởng hướng tới con người, vì con người của Đảng, nó không chỉ bảo
trợ cho các đối tượng, mà còn trao cơ hội để những người dân, nhóm xã hội có
hoàn cảnh khó khăn vươn lên làm chủ cuộc sống.
Thể chế hóa quyền được an sinh của Đảng nói trên Hiến pháp nước ta
đã xác định quyền ASXH là quyền quan trọng của con người được quy định
tại các điều 14, 57 và 58 trong Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
13
Hệ thống ASXH ở nước ta được thiết kế theo nguyên tắc: Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo đồng thời phải được xã hội hóa cao, huy động sự tham gia rộng
rãi của mọi tổ chức, đơn vị, gia đình, cá nhân và của toàn xã hội; xây dựng hệ
thống ASXH đa dạng, đa tầng, hướng tới bao phủ toàn dân; nâng cao năng lực
tự an sinh của người dân và cộng đồng; chú trọng đến nhóm dễ bị tổn thương,
người nghèo, vùng nghèo, vùng dân tộc, miền núi, nông thôn, khu vực phi
chính thức; từng bước tiếp cận với chuẩn quốc tế.
An sinh xã hội là một vấn đề phức tạp, vì thế cho đến nay chưa thể đưa ra
một khái niệm chuẩn xác. Tuy nhiên, từ góc độ nghiên cứu, từ những trình bày đã
nêu ở trên có thể hiểu: ASXH là hệ thống các chính sách và biện pháp của nhà nước
và cộng đồng xã hội nhằm bảo vệ, giúp đỡ các thành viên trong xã hội chống lại
những khó khăn phải gánh chịu để họ có mức sống tối thiểu trước những rủi ro và
tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường.
Quan niệm ASXH ở trên, cho thấy, xét về mặt bản chất ASXH trước
hết đó là sự bảo vệ, sự trợ giúp từ phía của xã hội (nhà nước và cộng đồng)
đối với các thành viên của mình. Sự bảo vệ này được thực hiện thông qua các
biện pháp công cộng (các chính sách của chính phủ và trợ giúp của xã hội).
Mục đích của sự bảo vệ này nhằm giúp đỡ các thành viên của xã hội trước
những biến cố, những “rủi ro" (các tình huống bất thường xảy ra) mà họ phải
gánh chịu, dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập và những khó khăn khác trong
cuộc sống.….Những hình thức để thực hiện ASXH, tùy theo mỗi quốc gia, có
thể có nhiều dạng nhưng tập trung ở hai hình thức chủ yếu là những chính sách
(chế độ) và sự trợ giúp của nhà nước, từ phía cộng đồng.
Như vậy, có thể nói, ASXH không gì khác hơn đó là cơ chế vận hành từ
phía xã hội trong việc bảo vệ, giúp đỡ cho các thành viện nhằm đảm bảo thu
nhập và đời sống của họ với phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp
công cộng, nhằm tạo ra sự “an sinh” (an ninh sinh tồn) cho mọi thành viên
trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc.
14
Ở Việt Nam hiện nay hệ thống ASXH phải đáp ứng được ba chức năng
cơ bản là phòng ngừa rủi ro, hạn chế rủi ro và khắc phục rủi ro.
Để có thể hiểu đầy đủ về đảm bảo ASXH, cần bắt đầu từ cấu trúc của hệ
thống ASXH.
Các bộ phận cấu thành hệ thống ASXH
Phù hợp với quan niệm chung của thế giới và tính đến đặc điểm của đời sống
kinh tế - xã hội nước ta, hệ thống ASXH của nước ta được cấu trúc từ ba trụ cột
chủ yếu sau:
Trụ cột thứ nhất: hệ thống bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là một trong ba trụ cột cơ bản của ASXH. BHXH dựa
trên sự đóng góp của các bên tham gia, gồm người lao động, người sử dụng
lao động và Nhà nước (trong một số trường hợp).
Người lao động, đóng góp các khoản BHXH theo quy định của pháp
luật khi còn trong độ tuổi lao động và đang có việc làm.
Người sử dụng lao động, phối hợp với cơ quan tổ chức thực hiện các
chính sách BHXH (cơ quan BHXH Việt Nam) đóng và đảm bảo các quyền
lợi về bảo hiểm cho người lao động khi người lao động được thụ hưởng các
chế độ bảo hiểm theo qui định.
Nhà nước trong một số trường hợp, ở nước ta hiện nay nhà nước mua
bảo hiểm y tế cho một số đối tượng (khoản 1 Điều 87 Luật Bảo hiểm xã hội có
quy định: Căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, khả năng ngân sách
nhà nước trong từng thời kỳ để quy định mức hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ và thời
điểm hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động tham gia bảo hiểm
xã hội tự nguyện [43].
Thông qua các trợ cấp BHXH, người lao động có được một khoản thu
nhập bù đắp hoặc thay thế cho những khoản thu nhập bị giảm hoặc mất trong
những trường hợp họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
Trụ cột thứ hai, hệ thống chính sách, giải pháp và các chương trình
phát triển thị trường lao động.
Hệ thống chính sách, giải pháp và các chương trình phát triển thị trường
lao động mà trọng tâm là trợ giúp đào tạo nghề, tạo việc làm cho các đối
15
tượng yếu thế, chưa có việc làm trong thị trường lao động; trợ cấp đào tạo lại
nghề cho số lao động dôi dư do quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp, cổ
phần hóa các doanh nghiệp nhà nước; đào tạo nghề, giải quyết việc làm gắn
với các chương trình phát triển kinh tế xã hội.
Trụ cột thứ ba, các loại trợ giúp xã hội.
Các loại trợ giúp xã hội (cung cấp tiền, hiện vật...) cho những người có
rất ít hoặc không có tài sản (người nghèo khó), những người cần sự giúp đỡ
đặc biệt cho các gánh nặng gia đình... ASXH cũng bao quát cả những loại trợ
giúp như miễn giảm thuế, trợ cấp về ăn, ở, dịch vụ đi lại... sự giúp đỡ của Nhà
nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh sống thiết yếu khác đối với
mọi thành viên của xã hội trong những trường hợp bất hạnh, rủi ro, nghèo
đói, không đủ khả năng để tự lo được cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia
đình. Trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm của cộng đồng và xã hội bằng tiền
hoặc bằng các điều kiện và phương tiện thích hợp để đối tượng được giúp đỡ
có thể phát huy khả năng tự lo liệu cuộc sống cho mình và gia đình, sớm hòa
nhập trở lại với cuộc sống của cộng đồng.
Ngoài ba trụ cột trên, phát triển hệ thống dịch vụ xã hội và hệ thống
phúc lợi xã hội, nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội, trước hết là các
dịch vụ công cộng cơ bản như dịch vụ nhà ở, điện, nước sạch, y tế, giáo dục,
văn hóa thông tin, cho mọi người dân, nhất là người nghèo vùng nghèo, nhằm
bảo đảm cho họ tái tạo được sức lao động, duy trì và phát triển nền sản xuất xã
hội, đồng thời phát triển mọi mặt cuộc sống của con người, kể cả phát triển
bản thân con người, cũng là nội dung cấu thành ASXH.
Các trụ cột trên, mỗi trụ cột có vai trò và nội dung biểu hiện cụ thể
riêng, nhưng mỗi trụ cột bằng những dấu hiệu chỉ số cụ thể của mình thể hiện
vai trò là sự đóng góp và có tác dụng làm cho ASXH được thực hiện (sự đảm
bảo ASXH được thể hiện trong thực tiễn).
* Đảm bảo an sinh xã hội
16
- Quan niệm đảm bảo an sinh xã hội
Bàn về đảm bảo ASXH cũng như để có thể đưa ra khái niệm về đảm
bảo ASXH, trước hết cần có sự thống nhất về mặt quan niệm đối với thuật ngữ
“đảm bảo”. Thế nào là đảm bảo, đảm bảo là gì theo hàm nghĩa tiếng Việt,
cũng như về mặt khoa học.
Xét về mặt từ nguyên, thuật ngữ “đảm bảo” trong tiếng Việt được hiểu
cùng nghĩa với thuật ngữ “bảo đảm”, được hiểu là “làm cho chắc chắn thực
hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” [61, tr.36, 272].
Thật ngữ này được dùng nhiều trong lĩnh vực quân sự, kinh tế quân sự.
như “đảm bảo” hậu cần, kỹ thuật, “đảm bảo” kinh tế cho chiến tranh, nên các
nhà khoa học trong hai lĩnh vực trên quan niệm đảm bảo là thuật ngữ nhằm
diễn đạt là những quá trình kinh tế, những biện pháp kinh tế nhằm thỏa mãn
các nhu cầu kinh tế cho quốc phòng chiến tranh của nhà nước và nhân dân.
Như vậy, có thể thấy nói đến “đảm bảo”, hay “bảo đảm” một cái gì đấy, thì
không chỉ là những khả năng, mà còn bao gồm cả những hành động của chủ
thể nào đó trong việc biến những khả năng ấy thành hiện thực.
Chính các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB),
Ngân hàng Châu Á (ADB) và tổ chức lao động quốc tế (ILO) khi đề cập đến
ASXH đều đã nói đến vai trò của nhà nước và cộng đồng, nghĩa là bàn về
ASXH đã hàm chứa ý nghĩa về sự đảm bảo ASXH trong đó.
Trên cơ sở quan niệm về ASXH đã dẫn ra ở trên, cấu trúc của ASXH và
nhận thức chung về thuật ngữ “đảm bảo”, có thể đưa ra quan niệm về đảm bảo
ASXH như sau: Đảm bảo ASXH là tổng thể những chính sách, biện pháp cơ
chế vận hành và hoạt động thực tiễn các chủ thể liên quan đến các trụ cột hợp
thành ASXH (BHXH, BHYT, BHTN và những hỗ trợ khác), thông qua những
phương thức thích hợp nhằm bảo vệ, giúp đỡ các thành viên trong xã hội
vượt qua những khó khăn phải gánh chịu để họ có mức sống tối thiểu trước
những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường.
Quan niệm về đảm bảo ASXH trên đây chỉ rõ:
Chủ thể của đảm bảo ASXH là nhà nước và cộng đồng xã hội.
17
Mục đích của Đảm bảo ASXH là bảo vệ, giúp đỡ các thành viên trong
xã hội vượt qua những khó khăn phải gánh chịu để họ có mức sống tối thiểu
trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường.
Phương thức của đảm bảo ASXH bao gồm cả các hoạt động bảo vệ,
giúp đỡ mang tính trực tiếp thường xuyên và các hoạt động bảo vệ, giúp đỡ
mang tính gián tiếp không thường xuyên.
Ở nước ta hiện nay, đảm bảo ASXH chủ yếu được thực hiện theo
phương thức thực hiện trực tiếp thông qua các chính sách ASXH của Chính
phủ, trong đó có hệ thống các chính sách BHXH. Ngoài ra, vấn đề đảm bảo
ASXH còn được thực hiện thông qua các hoạt động cứu trợ xã hội cả nhà
nước và cộng đồng cùng tiến hành mang tính không thường xuyên cả trực tiếp
và gián tiếp.
Như vậy, có thể thấy thực chất của đảm bảo ASXH là hệ thống các chính
sách và biện pháp với hàm nghĩa là việc hiện thực hóa các chính sách đó trong
thực tiễn của Nhà nước và cộng đồng xã hội nhằm thực hiện sự ổn định và đảm
bảo tính bền vững của ASXH. Do vậy, yêu cầu đối với các chính sách của hệ
thống ASXH phải đảm bảo tính hệ thống ; tính công bằng, bình đẳng trong đối xử
với các đối tượng thụ hưởng ; tính xã hội hóa; tính bền vững về tài chính; tính linh
hoạt: một hệ thống ASXH tốt sẽ tiến triển phù hợp theo thời gian (cấu trúc phù
hợp của các chương trình, chính sách sẽ thay đổi theo sự phát triển của nền KTXH hoặc thay đổi để ứng phó với những biến cố xảy ra).
- Nội dung đảm bảo an sinh xã hội
Một là, có hệ thống chính sách về BHXH phù hợp với điều kiện thực
tiễn và đảm bảo hệ thống các chính sách BHXH đã ban hành được thực hiện
đúng, kịp thời và đầy đủ.
Hai là, đảm bảo các chính sách về trợ giúp xã hội được thực hiện tích
cực và kịp thời khi có tình huống nảy sinh.
Ba là, các chính sách và trợ giúp xã hội về lao động, việc làm, đào tạo
và đào tạo lại, chuyển đổi nghề, chính sách về xóa đói giảm nghèo và các dịch
vụ xã hội về nhà ở, điện, nước sạch, y tế, giáo dục, văn hóa thông tin được
18
đúng, kịp thời và đầy đủ.
Việc ban hành ba hệ thống chính sách đó mới là sự đảm bảo về khả năng.
Để biến khả năng đó thành hiện thực, cả ba hệ thống chính sách đó phải được tổ
chức thực hiện đúng đắn, đầy đủ, kịp thời trong thực tiễn.
1.1.2. Những vấn đề chung về bảo hiểm xã hội
* Khái niệm bảo hiểm xã hội
Cho đến nay, định nghĩa thế nào là BHXH vẫn là vấn đề còn nhiều tranh luận
do được tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau với những quan điểm khác nhau.
Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10/12/1948 đã
xác nhận “Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã hội, có quyền hưởng
BHXH”. BHXH là một bộ phận cấu thành (có ý kiến coi là bộ phận quan trọng, bộ
phận chủ yếu, bộ phận chính, là cơ chế chính …) hệ thống ASXH [11, tr.384].
Theo tổ chức lao động thế giới (ILO) thì BHXH là sự bảo vệ của cộng
đồng xã hội với các thành viên của mình thông qua sự huy động các nguồn đóng
góp vào quỹ BHXH để trợ cấp trong các trường hợp ốm đau, tai nạn, thương tật,
già yếu, thất nghiệp đồng thời chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con
để ổn định đời sống của các thành viên và bảo đảm an toàn xã hội [16, tr.10]
Từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước với vấn đề trên đây không dừng lại ở việc đề ra những chủ
trương chính sách mà còn cả ở bình diện nghiên cứu, khái quát lý luận và tổ
chức thực tiễn.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, BHXH là sự thay thế hoặc bù đắp
một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp,
tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên
tham gia BHXH có sự bảo hộ của nhà nước theo pháp luật nhằm đảm bảo an
toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo
an toàn xã hội”[60,tr.150].
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XI, Luật BHXH của nước ta đã được ban hành (Luật số 71/2006/QH11), theo
19
đó BHXH được xác định, BHXH “là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao
động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quĩ BHXH” [42].
Quan niệm trên sau đó được tiếp tục xác định tại điều 3 Luật số
58/2014/QH13 Luật Bảo hiểm xã hội (được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam Khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20 tháng 11 năm
2014) “Bảo hiểm xã hội là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của
người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào
quỹ bảo hiểm xã hội” [43].
Cơ sở của BHXH là dựa trên sự đóng góp nhằm bảo vệ sức khỏe và thu
nhập, gồm các phương pháp thoát khỏi rủi ro và đóng góp tài chính vào quĩ
bảo hiểm. BHXH là nhu cầu tất yếu của người lao động, được ra đời và phát
triển cùng với sự phát triển của xã hội.
Biện pháp bảo đảm thay đổi hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao
động do gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm thông qua một quĩ trên cơ sở được tập hợp từ sự đóng góp của người lao động
và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm ASXH. BHXH là một trong ba trụ cột
chính trong hệ thống ASXH, các chế độ của BHXH đã hình thành từ khá lâu trước
khi xuất hiện thuật ngữ ASXH. Hệ thống BHXH đầu tiên được thiết lập ở nước
Phổ (nay là cộng hòa liên bang Đức) từ năm 1850 sau đó được hoàn thiện ở giai
đoạn 1883-1889 lúc đó đã gồm bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp,
bảo hiểm tuổi già tàn tật và sự hiện diện của 3 chủ thể (3 thành viên xã hội): người
lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Có thể thấy, mặc dù các khái niệm về BHXH luôn thay đổi theo quá
trình phát triển KT-XH từng giai đoạn của sự phát triển kinh tế, nhưng đều
phản ánh bản chất vấn đề BHXH đã được Đảng và nhà nước ta quan tâm.
Từ những trình bày trên có thể hiểu BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc
bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu
20
nhập do gặp rủi ro, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở những đóng góp
tài chính của họ vào quỹ bảo hiểm xã hội.
* Các hình thức của bảo hiểm xã hội
Hệ thống bảo hiểm xã hội sẽ bảo đảm quyền lợi cho người lao động trên
cơ sở đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Theo phương
thức đó, người lao động phải có đóng góp vào quỹ BHXH mới được quyền lợi
BHXH. Còn mối quan hệ giữa mức đóng và quyền lợi được hưởng lại chịu sự
ràng buộc của các nguyên tắc như: nguyên tắc đoàn kết tương trợ chia sẻ rủi ro
(thể hiện ở chính sách BHYT, chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp...), nguyên tắc tương quan giữa đóng và hưởng có sự can thiệp nhờ
cách thức phân phối lại mang tính xã hội (chế độ hưu trí, tử tuất).
Bảo hiểm xã hội có hai hình thức cụ thể là bảo hiểm xã hội bắt buộc và
bảo hiểm xã hội tự nguyện
Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ
chức mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia.
Hình thức bắt buộc được Nhà nước tổ chức thực hiện thông qua Luật
BHXH, Luật BHYT, Luật việc làm qui định các điều kiện, các chế độ cũng
như quyền và trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp có nghĩa
vụ phải thực hiện nhằm mục đích bảo vệ lợi ích chung và an toàn xã hội.
Trong hình thức bắt buộc này, đối với BHXH: là loại hình BHXH do Nhà
nước tổ chức mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia; đối
với BHYT: bắt buộc áp dụng đối với các đối tượng theo qui định của Luật
BHYT để chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ
chức thực hiện; đối với BHTN: người sử dụng lao động phải tham gia bảo
hiểm thất nghiệp cho người lao động tại tổ chức bảo hiểm xã hội theo qui định
tại Luật Việc làm, kể từ ngày hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc có
hiệu lực.
Bảo hiểm xã hội tự nguyện: là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ
chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp
với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm
21
xã hội để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất.
Ở nước ta hiện nay, hình thức tự nguyện chỉ được áp dụng đối với chế
độ BHXH được Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức
đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền
đóng BHXH để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất được qui định
tại Luật BHXH.
Các nguồn lực tài chính huy động từ hai hình thức bảo hiểm nói trên
được tập trung thành quỹ bảo hiểm xã hội. Theo quy định của Luật bảo hiểm,
Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập với ngân sách nhà nước, được
hình thành từ đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và có sự
hỗ trợ của Nhà nước.
* Sự cần thiết của bảo hiểm xã hội
Con người muốn tồn tại và phát triển được trước hết phải ăn, mặc, ở và
đi lại v.v...Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để
làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì đời
sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh
hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con
người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế,
con người không chỉ lúc nào cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi
điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn
bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu
nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác.
Trong đời sống hàng ngày, khi con người rơi vào những trường hợp rủi ro,
khó khăn bất lợi, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không mất đi, trái lại có
cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được
khám và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc
nuôi dưỡng v.v...Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã
hội loài người phải tìm ra giải pháp để giải quyết hậu quả này. Và thực tế đã tìm
ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ
22
một cộng đồng; đi vay, đi mượn hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước v.v...
nhưng những cách đó là hoàn toàn thụ động và không ổn định.
Để có giải pháp tốt, ổn định và bền vững cho sự phát triển của toàn xã
hội, Nhà nước đã đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn, đồng thời làm tăng
vai trò của Nhà nước, Nhà nước phải xây dựng một hệ thống các chính sách
nhằm buộc các giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định
hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối
với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ
tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân
sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi
gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó
mà rủi ro, bất lợi của người lao động được bù đắp, cuộc sống của người lao
động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy
mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh
được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được
thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng để đảm bảo những vấn đề không may
bị rủi ro, tai nạn, ốm đau, thai sản, mất việc làm, hết khả năng lao động…xảy
ra đối với người lao động. Đó là những chính sách được Nhà nước qui định
nhằm điều chỉnh toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc
chặt chẽ được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động.
Như vậy, BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả
năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ
tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần
đảm bảo an toàn xã hội.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, yếu tố con
người phải được coi trọng bởi con người quyết định mọi vấn đề sinh tồn và
phát triển xã hội. Vì vậy, các chính sách BHXH phải được coi trọng, xây dựng
hệ thống chính sách BHXH và tổ chức thực thi chính sách phù hợp, khoa học
23
là vấn đề cốt lõi tạo điều kiện cho người lao động tham gia có thể dễ dàng tiếp
cận chính sách, đồng thời giúp cho công tác quản lý được chặt chẽ, khoa học,
hiện đại đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước hoàn thiện
hệ thống chính sách BHXH góp phần chia sẻ cộng đồng và phát triển xã hội
đảm bảo ổn định ASXH.
1.2. Quan niệm, nội dung biểu hiện vai trò của bảo hiểm xã hội đối
với đảm bảo an sinh sinh xã hội ở Việt Nam
1.2.1. Quan niệm về vai trò của bảo hiểm xã hội đối với đảm bảo an
sinh xã hội.
An sinh xã hội là vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển KT-XH
của mỗi quốc gia, trong đó BHXH (BHXH, BHYT, BHTN) là một trong các trụ
cột của hệ thống ASXH. BHXH vừa với tính cách là những chính sách, vừa với
tính cách là những hoạt động thực tiễn về bảo hiểm, sẽ giúp người dân giải
quyết những rủi ro trong cuộc sống xảy ra với con người theo qui luật sinh tồn
như: ốm đau, tai nạn, thai sản, bệnh tật, thất nghiệp, tuổi già, mất đi… (sau đây
gọi chung là BHXH) có vai trò nhất định, tác động đến đảm bảo ASXH.
Ở Việt Nam, vai trò trụ cột của BHXH đối với đảm bảo ASXH không
nằm ngoài những quan niệm, những qui luật sinh tồn chung như đã nêu trên và
những quan niệm đó đã được Đảng và Nhà nước ta hiện thực hóa bằng việc
thể chế thành các văn bản pháp quy phù hợp với từng giai đoạn lịch sử KTXH cụ thể, đồng thời tổ chức hiện thực hóa các quy định pháp luật đó, đã từng
bước đưa chính sách BHXH, BHYT, BHTN đi vào cuộc sống người dân và
dần hoàn thiện nhằm mục tiêu ổn định ASXH và phát triển KT-XH.
Trong từ điển Tiếng Việt, vai trò được hiểu là “tác dụng, chức năng
trong sự hoạt động, sự phát triển của cái gì đó” [61, tr. 1057].
Điều đó có nghĩa là, khi nói đến vai trò của một sự vật, hiện tượng nào đó,
hàm ý của người Việt Nam muốn nói đến sự vật, hiện tượng đó có tác dụng thúc
đẩy gì, thúc đẩy như thế nào đối với sự hoạt động của một sự vật hiện tượng
khác. Đối với vấn đề đang được bàn luận ở đây, đó là tác dụng, thúc đẩy của
BHXH có tác dụng thúc đẩy như thế nào đối với đảm bảo ASXH.
24
Trên cơ sở quan niệm về ASXH, quan niệm về đảm bảo ASXH, quan
niệm về BHXH và hàm nghĩa của thuật ngữ vai trò trong tiếng Việt, có thể hiểu
vai trò của BHXH đối với đảm bảo ASXH là những kết quả đạt được trong thực
hiện các chính sách BHXH, BHYT, BHTN, thể hiện sự đóng góp của BHXH đối
với đảm bảo ASXH biểu hiện thông qua dữ liệu, số liệu thống kê tổng kết hàng
năm trong thực tiễn; có tác dụng giúp các đối tượng được bảo hiểm vượt qua
những khó khăn phải gánh chịu để họ có mức sống tối thiểu trước những rủi ro
về kinh tế, xã hội và môi trường; góp phần thúc đẩy chung để ASXH đạt được
tính ổn định, tiến tới bền vững.
Quan niệm trên chỉ rõ các thuộc tính đặc trưng về vai trò BHXH đối
với đảm bảo ASXH gồm các vấn đề sau:
Thứ nhất, nói đến vai trò của BHXH đối với đảm bảo ASXH là nói đến
vấn đề khi các chính sách BHXH được thực hiện sẽ tạo ra sự đóng góp đối
với đảm bảo ASXH trên thực tế. Mục tiêu hướng tới của các hoạt động
BHXH (gồm cả BHXH, BHTN, BHYT) đều nhằm làm cho ASXH được đảm
bảo tốt hơn do nội hàm của ASXH có hợp phần cấu thành của BHXH.
Thứ hai, nội dụng của sự biểu hiện vai trò của BHXH đối với đảm bảo
ASXH đó là những kết quả cụ thể - những chỉ số hợp thành những dấu hiệu
nói lên sự đóng góp của BHXH đối với đảm bảo ASXH.
Thứ ba, chủ thể làm nên (tạo ra) những chỉ số nói hợp thành những dấu
hiệu nói lên sự đóng góp của BHXH đối với đảm bảo ASXH là các đối tượng
tham gia bảo hiểm (cả bên đóng và bên hưởng)
Thứ tư, phương thức biểu hiện vai trò của BHXH đối với đảm bảo
ASXH là tình hình, các dữ liệu và số liệu của BHXH công bố nói lên nghĩa vụ
trách nhiệm đã được thực hiện của các bên tham gia bảo hiểm theo các quy
định của pháp luật.
Có 4 lí do dẫn đến sự khẳng định vai trò của BHXH đối với đảm bảo ASXH.
Một là, đối tượng của BHXH rất rộng: là những người được điều chỉnh
bởi pháp luật BHXH (bao gồm những người tham gia đóng góp cho quỹ
25
BHXH và những người thụ hưởng BHXH). Ngoài bên tham gia BHXH, trong
BHXH còn có bên được bảo hiểm và bên nhận bảo hiểm. Chính vì đối tượng
của BHXH rất rộng như vậy, nên BHXH có tác dụng thúc đẩy việc hiện thực
hóa hệ thống chính sách ASXH, thậm chí đến toàn bộ xã hội.
Hai là, quỹ BHXH góp phần ổn định tài chính vĩ mô và là một trong
các nguồn lực để thực hiện chính sách ASXH của Chính phủ. Tính ổn định
của BHXH trong hệ thống ASXH thể hiện thông qua vấn đề tài chính để thực
thi các chính sách của hệ thống này. Mặc dù mục tiêu của quỹ BHXH là để chi
trả các chế độ BHXH, nhưng do tính đặc thù của BHXH là có độ trễ giữa thu
và chi BHXH, nên một phần quỹ được nhàn rỗi tương đối. Phần nhàn rỗi này
của Quỹ BHXH được đầu tư vào một số lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân,
góp phần phát triển kinh tế xã hội. BHXH càng hoạt động tốt, quỹ BHXH
càng phát triển sẽ góp phần càng lớn vào việc ổn định đời sống của người lao
động và gia đình họ, đồng thời sẽ tạo ra sự vững mạnh của nền tài chính quốc
gia. Xét về tổng thể, quỹ BHXH tạo ra nguồn cung dồi dào và ổn định cho thị
trường tài chính; tạo điều kiện ổn định nền tài chính quốc gia và cuối cùng là
góp phần làm cho ASXH được đảm bảo hơn.
Ba là, BHXH đảm bảo sự bình đẳng về vị thế xã hội của người lao động
trong các thành phần kinh tế khác nhau và thúc đẩy sản suất phát triển. Hoạt
động BHXH, BHYT, BHTN dựa trên nguyên tắc “đóng – hưởng” đã tạo ra sự
bình đẳng của người lao động về chính sách BHXH, BHYT, BHTN. Mọi người
lao động không phân biệt thành phần kinh tế, không phân biệt nghề nghiệp đó
là cơ sở đảm bảo sự bình đẳng cho mọi người lao động trước những chính sách
của BHXH tạo được sự an tâm tin tưởng và yên tâm lao động, sản xuất, kinh
doanh đối với người lao động.
Bốn là, BHXH là công cụ đắc lực của Nhà nước góp phần phân phối lại
thu nhập một cách công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời giảm
chi ngân sách nhà nước. Người lao động tham gia BHXH, BHYT, BHTN
đóng vào quĩ bảo hiểm và cũng được hưởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm từ
26