Tải bản đầy đủ (.doc) (263 trang)

Nâng cao chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của tổ chức cơ sở đảng ở các khoa khoa học xã hội và nhân văn thuộc đảng bộ học viện, trường sĩ qu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 263 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận án
là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Văn Quý


2

MỤC LỤC

Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

5
11

1.1. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề
tài luận án
1.2. Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề


11

tài luận án
1.3. Giá trị của các cơng trình khoa học đã tổng quan và những

21

vấn đề luận án tập trung nghiên cứu

31

Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT
LƯỢNG LÃNH ĐẠO, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LÃNH
ĐẠO NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA TỔ
CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở CÁC KHOA KHOA HỌC XÃ
HỘI VÀ NHÂN VĂN THUỘC ĐẢNG BỘ HỌC VIỆN,
TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI

35

2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và lãnh đạo nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học của tổ chức cơ sở đảng ở các khoa
khoa học xã hội và nhân văn thuộc đảng bộ học viện,
trường sĩ quan quân đội
2.2. Quan niệm, yếu tố quy định, tiêu chí đánh giá chất lượng

35

lãnh đạo và những vấn đề có tính ngun tắc nâng cao
chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của tổ

chức cơ sở đảng ở các khoa khoa học xã hội và nhân văn
thuộc đảng bộ học viện, trường sĩ quan quân đội

Chương 3 CHẤT LƯỢNG LÃNH ĐẠO NHIỆM VỤ NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở
CÁC KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
THUỘC ĐẢNG BỘ HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN

63
83


3

QUÂN ĐỘI - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Thực trạng chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ nghiên cứu khoa
học của tổ chức cơ sở đảng ở các khoa khoa học xã hội và
nhân văn thuộc đảng bộ học viện, trường sĩ quan quân đội
3.2. Nguyên nhân của thực trạng chất lượng lãnh đạo và những
vấn đề đặt ra đối với nâng cao chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học của tổ chức cơ sở đảng ở các khoa khoa
học xã hội và nhân văn thuộc đảng bộ học viện, trường sĩ
quan quân đội hiện nay

83

117


Chương 4 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG LÃNH ĐẠO NHIỆM VỤ NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở
CÁC KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
THUỘC ĐẢNG BỘ HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ
QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

4.1. Tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu nâng cao chất lượng lãnh
đạo nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của tổ chức cơ sở đảng
ở các khoa khoa học xã hội và nhân văn thuộc đảng bộ
học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay
4.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học của tổ chức cơ sở đảng ở các khoa
khoa học xã hội và nhân văn thuộc đảng bộ học viện,
trường sĩ quan quân đội hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

131

131

138
170
172
174
191



4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Chữ viết tắt

1

Chữ viết đầy đủ
Chất lượng lãnh đạo

2

Cơng tác đảng, cơng tác chính trị

CTĐ, CTCT

3

Học viện, trường sĩ quan

HV, TSQ

4

Khoa học xã hội và nhân văn


KHXH&NV

5

Nghiên cứu khoa học

NCKH

6

Nhà xuất bản

Nxb

7

Quân đội nhân dân

QĐND

8

Quân ủy Trung ương

QUTW

9

Tổ chức cơ sở đảng


TCCSĐ

10

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

CLLĐ

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ được Đảng, Nhà
nước xác định là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất
nước. Các học viện, trường sĩ quan (HV, TSQ) quân đội là những trung tâm
giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học (NCKH) của quân đội và quốc gia.
Trong cơ cấu tổ chức của các HV, TSQ quân đội, các khoa khoa học xã hội và
nhân văn (KHXH&NV) là lực lượng nòng cốt, trực tiếp giảng dạy và nghiên
cứu KHXH&NV. Là một trong hai nhiệm vụ chính trị trung tâm, chức năng,
hoạt động cơ bản của các khoa KHXH&NV, NCKH vừa giữ vai trò định
hướng, dẫn đường, vừa phục vụ thiết thực công tác giáo dục, đào tạo của các
HV, TSQ quân đội; đồng thời góp phần nghiên cứu, phát triển, ứng dụng hệ


5

thống lý luận KHXH&NV vào trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, xây dựng
Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam vững mạnh về chính trị và giải quyết
những vấn đề thực tiễn đặt ra trong đời sống xã hội, trong xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) ở các khoa KHXH&NV thuộc đảng bộ
HV, TSQ quân đội là hạt nhân chính trị, trung tâm đồn kết, lãnh đạo các mặt
cơng tác và mọi hoạt động của các khoa, góp phần xây dựng các đảng bộ HV,
TSQ quân đội trong sạch vững mạnh, các HV, TSQ quân đội vững mạnh toàn
diện “Mẫu mực, tiêu biểu”. Lãnh đạo nhiệm vụ NCKH là chức năng của cấp ủy,
tổ chức đảng ở các khoa KHXH&NV. Sự lãnh đạo của TCCSĐ là nhân tố quan
trọng hàng đầu quyết định chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ NCKH của
các khoa KHXH&NV. CLLĐ nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở các khoa
KHXH&NV được quy định bởi các yếu tố khách quan, chủ quan, nhất là nhận
thức, trách nhiệm, năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng và phẩm chất,
năng lực NCKH của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Nhận thức rõ điều đó, những năm qua, TCCSĐ ở các khoa KHXH&NV
đã thường xuyên chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng thực hiện
nhiệm vụ NCKH. Cấp ủy, tổ chức đảng ở các khoa KHXH&NV xác định đúng
nội dung, vận dụng khá linh hoạt, sáng tạo phương thức lãnh đạo nhiệm vụ
NCKH. Vì vậy, kết quả NCKH của các khoa KHXH&NV ngày càng được nâng
lên, các khoa KHXH&NV đã hoàn thành tốt nhiệm vụ NCKH được giao. Tuy
nhiên, nhận thức của một số cấp ủy viên, cán bộ, đảng viên về nhiệm vụ NCKH,
vai trò của TCCSĐ trong lãnh đạo nhiệm vụ NCKH và sự cần thiết phải nâng cao
chất lượng lãnh đạo (CLLĐ) nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ chưa đầy đủ, sâu sắc;
chưa phát huy cao trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ NCKH được giao; năng
lực của một số chủ thể, lực lượng trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm
vụ NCKH ở các khoa KHXH&NV còn hạn chế, bất cập. Nội dung, phương thức
lãnh đạo nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở một số khoa KHXH&NV còn dàn trải,
thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa đồng bộ, chậm đổi mới. Thực trạng “đào tạo vẫn
thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học” [37, tr.82] chậm được khắc phục. Sản phẩm


6


NCKH của một số khoa KHXH&NV còn hạn chế về chất lượng và khả năng,
phạm vi ứng dụng, chuyển giao trong thực tiễn.
Hiện nay, trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, “cục diện thế
giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm” [37, tr.105]; hợp
tác NCKH vừa là yêu cầu cấp thiết, vừa là giải pháp quan trọng. Yêu cầu
khai thác, ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư vào thực hiện nhiệm vụ NCKH ngày càng cao trong khi phẩm chất,
năng lực của một bộ phận cán bộ, giảng viên chưa thực sự tương xứng. Âm
mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch và những tiêu
cực xã hội, mặt trái cơ chế thị trường tác động không nhỏ đến cán bộ, giảng
viên. Bên cạnh đó, yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là nhiệm vụ đấu
tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; yêu cầu xây dựng QĐND Việt
Nam “tinh, gọn, mạnh”, vững mạnh về chính trị ngày càng cao và yêu cầu
“Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn
vị” [21, tr.4]… càng đòi hỏi các HV, TSQ quân đội phải tăng cường gắn kết
chặt chẽ nhiệm vụ NCKH với nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, đồng thời, phải có
những cách thức, biện pháp mới để tiếp tục nâng cao CLLĐ nhiệm vụ
NCKH của TCCSĐ ở các khoa KHXH&NV.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề nghiên cứu: “Nâng cao
chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của tổ chức cơ sở đảng
ở các khoa khoa học xã hội và nhân văn thuộc đảng bộ học viện, trường sĩ
quan quân đội hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng và Chính
quyền Nhà nước.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn; đề xuất những
giải pháp nâng cao CLLĐ nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở các khoa
KHXH&NV thuộc đảng bộ HV, TSQ quân đội hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu



7

Tổng quan các cơng trình khoa học liên quan đến đề tài luận án; khái
quát giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan đối với đề tài luận án và
xác định rõ những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu.
Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về CLLĐ và
nâng cao CLLĐ nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở các khoa KHXH&NV thuộc
đảng bộ HV, TSQ quân đội.
Đánh giá đúng thực trạng CLLĐ nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở các
khoa KHXH&NV, chỉ rõ nguyên nhân ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm và làm
rõ những vấn đề đặt ra đối với nâng cao CLLĐ nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ
ở các khoa KHXH&NV thuộc đảng bộ HV, TSQ quân đội hiện nay.
Phân tích sự tác động của tình hình, nhiệm vụ; xác định yêu cầu và đề
xuất những giải pháp nâng cao CLLĐ nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở các
khoa KHXH&NV thuộc đảng bộ HV, TSQ quân đội hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở các khoa
KHXH&NV thuộc đảng bộ HV, TSQ quân đội.
Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
về CLLĐ nhiệm vụ NCKH và nâng cao CLLĐ nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ
ở các khoa KHXH&NV thuộc đảng bộ HV, TSQ quân đội.
Đối tượng tiến hành điều tra, khảo sát là các khoa KHXH&NV, cơ
quan quản lý khoa học, đơn vị quản lý học viên ở một số HV, TSQ quân đội
trực thuộc Bộ Quốc phòng, trực thuộc các quân chủng, binh chủng, tổng cục.
Tiến hành khảo sát bằng phiếu trưng cầu ý kiến với đội ngũ cán bộ, giảng
viên, học viên ở Học viện Lục quân, Học viện Quân y, Học viện Kỹ thuật
qn sự, Học viện Phịng khơng - Không quân, Học viện Hải quân; Trường Sĩ



8

quan Lục quân 1, Trường Sĩ quan Lục quân 2, Trường Sĩ quan Chính trị và
Trường Sĩ quan Pháo binh.
Các tài liệu, số liệu phục vụ nghiên cứu luận án được giới hạn chủ yếu
từ năm 2015 đến nay. Các giải pháp có giá trị ứng dụng đến năm 2030.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên hệ thống quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về Đảng và
xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; về nghiên cứu, phát triển, ứng dụng
KHXH&NV; về đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; về bảo vệ Tổ
quốc, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam vững mạnh.
Cơ sở thực tiễn
Thực trạng CLLĐ nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở các khoa
KHXH&NV thuộc đảng bộ HV, TSQ quân đội; các báo cáo sơ kết, tổng kết
của cấp ủy, TCCSĐ, các cơ quan, đơn vị ở các đảng bộ HV, TSQ quân đội về
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ NCKH và những số liệu, tư liệu thu thập, điều tra,
khảo sát thực tế của tác giả tại một số HV, TSQ quân đội.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và
liên ngành. Trong đó, chú trọng các phương pháp: hệ thống hóa, khái quát
hóa được sử dụng nhiều ở chương 1; kết hợp phương pháp phân tích và
tổng hợp; lôgic và lịch sử; tổng kết thực tiễn; thống kê, so sánh; phương
pháp điều tra, khảo sát thực tế được sử dụng ở các chương của luận án,
nhất là chương 2, chương 3.

5. Những đóng góp mới của luận án


9

Một là, xây dựng, luận giải rõ quan niệm CLLĐ nhiệm vụ NCKH của
TCCSĐ và nâng cao CLLĐ nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở các khoa
KHXH&NV thuộc đảng bộ HV, TSQ quân đội. Xác lập, luận giải rõ các yếu
tố quy định CLLĐ nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ và tiêu chí đánh giá CLLĐ
nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở các khoa KHXH&NV thuộc đảng bộ HV,
TSQ quân đội về mức độ nhận thức, trách nhiệm, năng lực; mức độ thực hiện
nội dung, phương thức lãnh đạo nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ; kết quả thực
hiện nhiệm vụ NCKH và ứng dụng các sản phẩm NCKH trong thực tiễn của
các khoa KHXH&NV thuộc HV, TSQ quân đội.
Hai là, từ thực trạng CLLĐ nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở các khoa
KHXH&NV làm rõ những vấn đề đặt ra đối với nâng cao CLLĐ nhiệm vụ
NCKH của TCCSĐ ở các khoa KHXH&NV thuộc đảng bộ HV, TSQ quân đội
hiện nay và trong những năm tới, nhất là khắc phục tình trạng dàn trải, thiếu
trọng tâm, trọng điểm, thiếu linh hoạt, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở các khoa KHXH&NV thuộc
đảng bộ HV, TSQ quân đội.
Ba là, đề xuất một số nội dung, biện pháp mới có tính khả thi trong các
giải pháp góp phần nâng cao CLLĐ nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở các khoa
KHXH&NV thuộc đảng bộ HV, TSQ quân đội, nhất là giải pháp xác định
đúng nội dung, đổi mới phương thức lãnh đạo nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở
các khoa KHXH&NV thuộc đảng bộ HV, TSQ quân đội hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về CLLĐ nhiệm
vụ NCKH và nâng cao CLLĐ nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở các khoa
KHXH&NV thuộc đảng bộ HV, TSQ quân đội.

Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp thêm luận cứ khoa học để cấp
ủy, tổ chức đảng các cấp xác định những chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo nâng


10

cao CLLĐ nhiệm vụ NCKH của TCCSĐ ở các khoa KHXH&NV thuộc đảng
bộ HV, TSQ quân đội.
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy các mơn học có liên quan ở các HV, TSQ quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các cơng
trình của tác giả đã cơng bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


11

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các cơng trình nghiên cứu ở ngồi nước liên quan đến đề tài
luận án
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu về hoạt động nghiên cứu, phát
triển, ứng dụng khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn trong và
ngồi qn đội
A.A.Ê-Pi-Sép (Chủ biên, 1974), Tóm tắt lịch sử Cơng tác đảng - cơng
tác chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô từ 1918 - 1973 [78]. Cuốn
sách luận giải về giá trị, tầm quan trọng của khoa học đối với Quân đội và Hải
quân Liên Xô, dẫn lời của V.I. Lênin: “Dù trong thời bình hay thời chiến, đều

khơng được qn việc huấn luyện lính mới, nghiên cứu khoa học xạ kích và
truyền bá sâu rộng trong quần chúng những kiến thức thông thường về quân
sự” [78, tr.36]. Muốn tiến hành tốt CTĐ, CTCT trong quân đội, phải: “Hiểu biết
những vấn đề tâm lý xã hội khoa học, nghiên cứu các hiện tượng tâm lý của
quần chúng, của các nhóm và tập thể người” [78, tr.39]. Không chỉ riêng đối
với lĩnh vực quân sự, V.I. Lênin còn yêu cầu: “Ở nước ta khoa học không chỉ
dừng lại ở những chữ viết hay những câu nói mốt (mà chẳng dấu gì khuyết
điểm, cái đó ở nước ta đặc biệt thường xẩy ra), để cho khoa học thấm vào máu,
trở thành một nhân tố không thể tách rời của cuộc sống…” [78, tr.41].
E. XA-Kha-Rốp (1979), Bàn về quan điểm khoa học đối với sự lãnh đạo
Quân đội [171]. Cuốn sách cho rằng: “Mỗi sĩ quan cần có kiến thức sâu sắc về
tâm lý học và sư phạm học như cần khơng khí vậy” [ 171, tr.13]. Bởi lẽ, những
kiến thức đó giúp cho sĩ quan nắm được các quy luật hành động của con người
trong quá trình huấn luyện và giáo dục, trong các tình huống chiến đấu. NCKH
giúp cho việc: “Tìm ra con đường đúng đắn, đến thẳng trái tim người lính trong
những tình huống nguy ngập, sự phức tạp căng thẳng trong chiến đấu, những
khó khăn trong sinh hoạt… có ảnh hưởng đến mỗi quân nhân” [171, tr.13].


12

Cuốn sách còn chỉ ra: “Khoa sư phạm và tâm lý học quân sự vũ trang cho
người sĩ quan những phương pháp huấn luyện và giáo dục bộ đội có hiệu quả
nhất” [171, tr.14]; luận giải về vai trò của một số ngành khoa học: “Trong thực
tế công tác của cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị phải áp dụng các cơng trình
nghiên cứu xã hội học qn sự như: sự hình thành thế giới quan cộng sản chủ
nghĩa của các quân nhân, việc giáo dục cho quân nhân phẩm chất chính trị và
tinh thần cao” [171, tr.15]. Phát huy vai trò của các ngành khoa học trong
nghiên cứu kinh nghiệm huấn luyện quân sự và huấn luyện chính trị, nghiên
cứu các phương pháp lãnh đạo bộ đội.

Srikanth Kondapalli (1996), “Hiện đại hóa Quân giải phóng nhân dân
Trung Quốc” [107]. Bài viết phân tích những xu hướng lớn trong hiện đại hóa,
chính quy hóa, cách mạng hóa qn đội Trung Quốc, nhấn mạnh: “Trung Quốc
chú trọng xây dựng các học viện quân sự nhằm nâng cao trình độ giáo dục đào tạo
và công nghệ hiện đại” [107, tr.8]. Việc huấn luyện ở các nhà trường này bao gồm
hoạt động nghiên cứu khoa học kỹ thuật, sự phối hợp trong các bài tập binh chủng
hợp thành theo học thuyết về chiến tranh nhân dân trong các điều kiện hiện đại.
Bài viết khẳng định: “Trung Quốc thường xuyên đổi mới nhận thức về tầm quan
trọng của việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào chỉ huy tác chiến” [107, tr.4].
Trung Quốc đầu tư hiện đại hóa quân đội trên quy mơ lớn, đã tập trung mua sắm
các vũ khí công nghệ cao, mới nhất của các nước tiên tiến. Nhấn mạnh: “Những
chi phí vẫn được giữ bí mật dành cho nghiên cứu quốc phòng” [107, tr.9].
Khuất Thạch (Chủ biên, 2003), Những sự kiện quan trọng của nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa [134]. Cuốn sách nhấn mạnh về tầm quan trọng của
khoa học - là nhân tố quyết định, có quan hệ với văn hóa, kinh tế, quốc phịng;
muốn giành được thế chủ động, giành chiến thắng trên mặt trận quân sự, chính
trị, kinh tế của thế giới ngày nay phải dựa vào cơ sở ưu thế khoa học kỹ thuật.
Khoa học kỹ thuật có ảnh hưởng quyết định tới sự suy, thịnh, yếu, mạnh của
Trung Quốc. Đảng Cộng sản Trung Quốc, xác định: “Đem hết khả năng nhanh
chóng đưa thành tựu khoa học tối tân nhất thế giới vào các bộ mơn khoa học,
như: quốc phịng, sản xuất và ngành giáo dục” [134, tr.381].


13

Lưu Kim Huân (2003), Trung Quốc - Thách thức nghiêm trọng của
thế kỷ XXI [99]. Cuốn sách dẫn lời Giang Trạch Dân: “Quân giải phóng
cần quan tâm chú ý khoa học kỹ thuật để làm cho quân đội mạnh lên” [ 99,
tr.288]. Từ xưa đến nay, quân sự và khoa học kỹ thuật gắn chặt với nhau,
yêu cầu quân sự là lực thúc đẩy quan trọng cho sự tiến bộ về khoa học kỹ

thuật. Khoa học kỹ thuật làm cho quân đội mạnh là sự lựa chọn chiến
lược, thuận theo sự phát triển của thời đại. Khoa học kỹ thuật phát triển
tất nhiên cũng gây men và xúc tiến sự biến đổi trên phương diện quân sự.
Trong chiến tranh, khoa học kỹ thuật cao đã tràn vào một lượng lớn, một
cuộc đọ sức dựa vào tiến bộ của khoa học kỹ thuật, tăng cường xây dựng
quân đội, giành điểm cao khống chế chiến lược trong thế kỷ XXI đã được
triển khai trong phạm vi tồn thế giới.
Iaxuhicơ Nacaxơnê (2004), Chiến lược quốc gia của Nhật Bản
trong thế kỷ XXI [116]. Cuốn sách cho rằng: Cuối thế kỷ XIX, khi xuất
hiện khả năng tính tốn được các tuyến đạn đạo, lồi người đã hiểu ra
rằng có thể đem khoa học phục vụ cho các mục đích quân sự. Chính phủ
các nước bắt đầu tăng cường quan tâm đến khoa học. Nhân dân Nhật Bản
được hưởng đầy đủ những thành quả của tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Khẳng định: “Chúng ta có thể khắc phục được những khó khăn do thế kỷ
XX để lại và mở ra cho nhân loại những chân trời xán lạn của tương lai”
[116, tr.340]. Về định hướng, chiến lược phát triển khoa học, cuốn sách
nêu rõ: “Cả các nhà khoa học và cả những người hưởng thành quả của các
nhà khoa học đều phải cùng nhau hướng tới sự cơng khai. Chính phủ phải
định hướng, làm cho công luận hiểu rõ các mục tiêu và nhiệm vụ hoạt
động nghiên cứu của các nhà khoa học” [116, tr.341]. Nhật Bản cần phải
vạch ra chính sách khoa học kỹ thuật mới, để dựa vào những luận điểm
của chính sách ấy mà bắt tay vào cải cách. Chính phủ có trách nhiệm đưa
ra những biện pháp kiên quyết nhằm bảo đảm cấp kinh phí từ ngân sách
cho hoạt động của các tập thể khoa học.


14

Trịnh Vĩnh Hiền (2013), Nhân tài - nguồn tài nguyên số 1 [85]. Cuốn
sách khẳng định: nhân tài là nguồn tài nguyên số 1 để phát triển khoa học, ưu

tiên, trọng dụng nhân tài là con đường phát triển khoa học hiệu quả. Khẳng
định: “Các trường đại học, cao đẳng, học viện, đặc biệt là những trường đại học
theo mô hình nghiên cứu, vừa là cơ sở quan trọng bồi dưỡng nhân tài cao cấp,
vừa là suối nguồn của những thành quả sáng tạo từ những nghiên cứu mang
tính nền tảng” [85, tr.214]. Với những lập luận chặt chẽ, có căn cứ thực tiễn,
cuốn sách đã khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động NCKH trong các
trường đại học: “Qua điều tra cho thấy, khoảng 70% thành quả nghiên cứu
khoa học quan trọng có ảnh hưởng đến phương thức sống của con người đều ra
đời từ các trường đại học theo mơ hình nghiên cứu” [85, tr.214]. Đại học hàng
đầu, giảng viên hàng đầu và sinh viên hàng đầu đã hình thành nên chuỗi tuần
hồn về nhân tài ưu tú của những vương quốc khoa học trên thế giới.
Lý Lương Đống (Chủ biên, 2019), Nghiên cứu vấn đề cải cách và hoàn
thiện phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản
Trung Quốc [76]. Cuốn sách luận giải vai trò, tầm quan trọng của nghiên cứu lý
luận: “Việc đặt công tác nghiên cứu lý luận tư tưởng lên hàng đầu là kinh
nghiệm quý báu đầu tiên của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời cũng là ưu
thế chính trị, tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc” [ 76, tr.426]. Muốn
Đảng, đất nước ngày một phát triển đi lên, trước tiên trong nghiên cứu lý luận
phải không ngừng tiến cùng thời đại, phải tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cầm
quyền của Đảng. Nếu không, Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ có nguy cơ tụt hậu
về lý luận, đi ngược với thời đại. Cuốn sách khẳng định: “Thực tiễn - nhận thức lại thực tiễn - lại nhận thức không ngừng tiến hành đổi mới lý luận” [ 76, tr.426].
Phải tăng cường nghiên cứu lý luận về phương thức cầm quyền, để toàn bộ lý
luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc đều có tính thời đại, tính tiên tiến, giàu
tính sáng tạo trên cơ sở nắm vững quy luật khách quan.
Henry Kissinger (2020), Về Trung Quốc [106]. Cuốn sách đã đề cập
đến quan điểm của Đảng và Nhà nước Trung Quốc về khoa học và công


15


nghệ. Cụ thể: ngày 26/9/1975, trong những nhận xét có tựa đề “Cần ưu
tiên cho nghiên cứu khoa học”, Đặng Tiểu Bình đã chỉ rõ vai trị quan
trọng của khoa học và công nghệ, nhấn mạnh: “Chú trọng vào khoa học
và công nghệ trong việc phát triển kinh tế Trung Hoa; tái chun mơn hóa
lực lượng lao động Trung Hoa; khuyến khích tài năng và sáng kiến cá
nhân” [ 106, tr.377]. Những quan điểm của Đặng Tiểu Bình về khoa học,
công nghệ đã được triển khai trong thực tiễn giải quyết các vấn đề trong
các vùng nông thôn, các nhà máy, trong khoa học và công nghệ và trong
mọi lĩnh vực khác, góp phần đưa đất nước Trung Hoa thốt khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu về lãnh đạo và
chất lượng lãnh đạo hoạt động nghiên cứu khoa học kỹ
thuật, khoa học xã hội và nhân văn của các Đảng Cộng
sản
A. A. Ê-Pi-Sép (1978), Một số vấn đề cơng tác đảng - cơng tác chính
trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô [79]. Cuốn sách đề cập đến những
tác động từ quy mơ, tính chất phức tạp ngày càng tăng của các nhiệm vụ lý
luận - quân sự, sự phát triển của nền khoa học quân sự và những thay đổi
trong các quy luật chiến tranh, đòi hỏi Đảng Cộng sản Liên Xô phải nghiên
cứu, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Hồng quân Liên Xô.
Cuốn sách nhấn mạnh: “Đảng Cộng sản Liên Xô đang hồn thiện nền khoa
học qn sự Xơ Viết trên cơ sở lý luận luôn luôn phát triển của chủ nghĩa
Mác - Lênin và trên cơ sở những thành tựu của các ngành khoa học có liên
quan” [79, tr.100]. Đảng Cộng sản Liên Xô cũng nhận thấy rằng phải tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao sức mạnh phòng thủ và những tiềm lực
khoa học và kỹ thuật của Liên Xô để giúp các nước đang phát triển trong
củng cố nền độc lập, tự do của mình. Do đó, trong thời đại khoa học kỹ thuật
tiến bộ nhanh chóng địi hỏi Đảng Cộng sản Liên Xô phải thường xuyên lãnh



16

đạo hoạt động NCKH nhằm: “Cải tiến vũ khí, trang bị cho Lục quân, Không
quân và Hải quân những vũ khí hiện đại” [79, tr.101].
I-a-rơ-xláp Ren-cát, Lê-ơ-nít Xê-mê-nen-cơ (1979), Đảng Cộng sản và
các lực lượng vũ trang Liên Xô [131]. Cuốn sách nêu rõ trong quá trình cải cách,
củng cố Hồng qn Liên Xơ: “Đảng Cộng sản cịn chăm lo áp dụng những thành
tựu mới nhất trong việc phát triển kinh tế, khoa học và kỹ thuật vào mục đích
tăng cường sức phịng thủ đất nước Xơ Viết” [131, tr.37]. Đảng Cộng sản Liên
Xô rất chú trọng lãnh đạo phát triển khoa học và cơng nghệ, trong đó có
KHXH&NV. Cơng nghiệp hóa đất nước cũng có ảnh hưởng rõ rệt tới công tác
xây dựng quân đội. Công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề
được cải thiện. Hải quân Liên Xô ngày càng được bổ sung thêm nhiều người có
trình độ học vấn và có thể nhanh chóng nắm vững kỹ thuật chiến đấu phức tạp.
A. A. E-Pi-Sep (1983), Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô là
nguồn gốc quyết định sức mạnh của Quân đội và Hải quân Liên Xô [80]. Cuốn
sách khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô: “Những tiềm
lực về kinh tế và khoa học của đất nước phát huy được tác động của mình đối
với việc nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang” [ 80, tr.17].
Các chiến sĩ Xô Viết đã cống hiến những gì cần thiết cho lao động của những
nhà khoa học: “Đem trí óc và bàn tay của mình tạo nên những tên lửa, xe tăng,
máy bay, tàu chiến tốt nhất” [80, tr.17]. Đảng Cộng sản Liên Xô đặc biệt chú ý
phân tích kinh nghiệm bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi quốc tế. Cuốn sách
khẳng định: “Liên minh của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa sát cánh bên
nhau cùng giải quyết các vấn đề mới. Sự chun mơn hóa và phối hợp trong
cơng nghiệp quốc phịng, nghiên cứu khoa học và cơng tác trao đổi kinh nghiệm
thiết kế trong lĩnh vực quân sự giữ vai trị lớn lao” [80, tr.22].
C. I. Xu-vơ-rốp (1983), Một số kinh nghiệm của Đảng Cộng sản
Liên Xô trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa
xã hội [173]. Cuốn sách khẳng định, V.I Lênin đánh giá cao ý nghĩa của

hoạt động nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm lịch sử của Đảng Cộng


17

sản Liên Xô. Cuốn sách chỉ rõ: “Một trong những chìa khóa quan trọng của
cuộc cách mạng văn hóa cần phải nhấn mạnh, đó là việc hình thành những
quan niệm khoa học của con người về cuộc sống, hình thành những ý thức
của con người mới” [173, tr.25]. Vì vậy, Đảng Cộng sản Liên Xô luôn chú
trọng lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu, phát triển khoa học. Đại hội lần thứ XV
của Đảng Cộng sản Liên Xô xác định: “Tập trung phát triển công nghiệp,
nông nghiệp cũng như phát triển khoa học” [173, tr.50]. Nhiều vấn đề lý
luận, thực tiễn cần được nghiên cứu, làm sáng tỏ, một trong những kinh
nghiệm q được rút ra, đó là: “Trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, chúng ta phải nói đến việc nghiên cứu, tổ chức những cơ cấu kinh tế
mà chúng ta cần phải thực hiện trong quá trình cách mạng” [173, tr.17].
C. U. Tréc-nen-cô (1985), Lên ngang tầm các yêu cầu của chủ
nghĩa xã hội phát triển [147]. Cuốn sách khẳng định, Đảng Cộng sản Liên
Xô thấy rõ sự cần thiết phải lãnh đạo nghiên cứu toàn diện quãng đường
đã qua, đánh giá một cách chính xác, khoa học tình hình đất nước. Cuốn
sách nhấn mạnh: “Sau khi tổng kết mọi cái mới cơ bản trong khoa học và
thực tiễn trong những thập kỷ gần đây, đã đưa ra một loạt những tư tưởng
làm phong phú thêm lý luận hiện đại về chủ nghĩa xã hội” [147, tr.7]. Đại
hội lần thứ XXVI, Đảng Cộng sản Liên Xô nhấn mạnh: “Phải tiến lên phía
trước, hướng vào những quan niệm cao nhất, nghiêm ngặt nhất về chủ
nghĩa xã hội do lý luận khoa học đưa ra” [ 147, tr.14]. Sự kết hợp những tư
tưởng mới nhất của lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội với tinh thần
sáng tạo xã hội của nhân dân là một ưu việt to lớn của chế độ Xô viết.
Cuốn sách khẳng định, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô:
“Tiến hành trên một diện rộng việc thử nghiệm công tác lãnh đạo kinh tế,

khoa học, văn hóa ở các khâu khác nhau” [147, tr.44]. Đồng thời, tập
trung lãnh đạo nghiên cứu, truyền bá hệ tư tưởng khoa học và đẩy nhanh
việc áp dụng các thành tựu NCKH vào thực tiễn.


18

Bun-Đuông Cay-Xỏn (2005), “Một số nhiệm vụ cấp bách về công tác
tư tưởng của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay” [ 25].
Bài viết khẳng định, từ khi ra đời đến nay, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
luôn quan tâm lãnh đạo: “Tăng cường nghiên cứu lý luận và tổng kết thực
tiễn để làm cơ sở cho việc hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng” [ 25,
tr.54]. Các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương thường xuyên chú trọng
tổng kết thực tiễn từ cơ sở, phát hiện những vấn đề mới nảy sinh trong quá
trình xây dựng nền dân chủ nhân dân theo con đường XHCN, phát triển kinh
tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước. Bài viết nhấn mạnh: “Củng cố
và đổi mới các tạp chí A-lun Mày và Khơ-xa-na Ốp-lơm để đảm bảo nội
dung thích hợp với nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới và làm cơ sở cho
công tác nghiên cứu lý luận và giáo dục chính trị, tư tưởng” [ 25, tr.54].
Hoàng Văn Hổ (Chủ biên, 2014), Cầm quyền khoa học [97]. Cuốn sách
cho rằng: Muốn làm cho Đảng và Nhà nước không ngừng phát triển, trước
hết, phải chú trọng lãnh đạo hoạt động NCKH nhằm phát triển về mặt lý luận,
nếu khơng thì chẳng thể nói gì được đến phát triển mới. Đảng cầm quyền
phải: “Chú trọng thực tiễn và phát triển mới, nghiêm túc nghiên cứu tình hình
mới, tổng kết kinh nghiệm mới” [97, tr.519]. Đảng cầm quyền phải tập trung
lãnh đạo hoạt động nghiên cứu lý luận, biết cách đưa kinh nghiệm của quần
chúng nhân dân lên thành lý luận, biết cách trả lời chính xác về mặt lý luận và
giải quyết vấn đề lớn gặp phải trong cải cách phát triển ổn định. Lãnh đạo
nghiên cứu phát triển lý luận là vấn đề rất hệ trọng, bởi vì: “Thơng qua đổi
mới lý luận thúc đẩy đổi mới chế độ, đổi mới khoa học cơng nghệ, đổi mới

văn hóa” [97, tr.519].
Alison L. Antes, Adelina Mart, and James M. DuBois (2017), “Are
Leadership and Management Essential for Good Research? An Interview Study of
Genetic Researchers” (Khả năng lãnh đạo và quản lý có cần thiết cho nghiên cứu
tốt không? Một nghiên cứu phỏng vấn các nhà nghiên cứu di truyền) [175]. Bài
viết cho rằng: “Hoạt động lãnh đạo và quản lý là cần thiết để thực hiện nghiên cứu


19

khoa học hiệu quả hơn” [175]. Hoạt động lãnh đạo, quản lý NCKH bảo đảm nâng
cao chất lượng, tính tồn vẹn và tác động xã hội tích cực của NCKH. Để xã hội
hóa các sản phẩm NCKH địi hỏi phải xác định rõ trách nhiệm của người nghiên
cứu, đánh giá chính xác nhu cầu, năng lực NCKH của các thành viên, hỗ trợ tài
chính, xây dựng mơi trường làm việc; chú trọng “đào tạo và phát triển cho các nhà
khoa học” [175]. Bài viết cũng nhấn mạnh: hiệu quả lãnh đạo có thể khác nhau ở
các giai đoạn khác nhau nhưng ln địi hỏi về tính chính trực, minh bạch và đạo
đức là không thể thiếu khi thực hiện công việc khoa học.
Phu Vy Kẹo Pang Khăm (2017), Các đảng bộ học viện Quân đội
nhân dân Lào lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị giai đoạn hiện nay
[105]. Luận án khẳng định, một trong những nhiệm vụ chính trị của các học
viện QĐND Lào đó là: “Tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học quân
sự, cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng, Nhà nước, Đảng ủy Bộ Quốc
phòng xác định đường lối, chủ trương xây dựng quân đội, củng cố quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc” [105, tr.77]. Luận án đã nghiên cứu, làm rõ những
vấn đề có tính nguyên tắc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của các
đảng bộ học viện QĐND Lào; đánh giá thực trạng các đảng bộ học viện
QĐND Lào lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, chỉ ra nguyên nhân và
một số kinh nghiệm lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của các đảng bộ
học viện QĐND Lào. Xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp

tăng cường lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của các đảng bộ học viện
QĐND Lào giai đoạn hiện nay.
Lương Bảo Hoa (2017), Đường đến thành công - Tiên phong là sức
mạnh [86]. Cuốn sách đề cập: ngay từ năm 1988, đồng chí Đặng Tiểu Bình
đã chỉ đạo Tỉnh ủy Giang Tô coi trọng lãnh đạo hoạt động nghiên cứu, phát
triển khoa học và cơng nghệ. Trong đó, khẳng định: “Khoa học kỹ thuật là
sức mạnh số 1” [86, tr.25]. Năm 1889, Tỉnh ủy Giang Tô đã xác định chủ
trương “Ba phát triển” với các nội dung: “Dẫn đầu phát triển, phát triển
khoa học, phát triển hài hòa” [86, tr.18]. Trong quá trình phát triển khoa
học kỹ thuật, Tỉnh ủy Giang Tô luôn quan tâm tới vấn đề nhân văn, lấy con


20

người làm gốc. Cuốn sách nhấn mạnh: “Tỉnh ủy và chính quyền tỉnh Giang
Tơ đã đưa ra quyết định dựa vào khoa học kỹ thuật từng bước làm hưng thịnh
nền kinh tế” [86, tr.25].
Vương Tương Huệ (2022), Bí mật thần kỳ mang tên Trung Quốc
[103]. Cuốn sách khẳng định: “Hiện nay, nhiều dự án khoa học kỹ thuật
lớn, quan trọng của Trung Quốc… đang được thúc đẩy” [103, tr.77]. Trong
quá trình hiện đại hóa đất nước, Trung Quốc ln chú ý đến vai trò của
khoa học kỹ thuật “là lực lượng sản xuất”. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
xác định, thực hiện chủ trương tiến quân vào khoa học với các hoạt động
cụ thể, như: thành lập thêm các viện nghiên cứu; xây dựng thể chế công tác
NCKH; bồi dưỡng nhân tài khoa học kỹ thuật; hợp tác quốc tế về khoa
học… Chính phủ Trung Quốc đã giảm thiểu, điều chỉnh cách thức chỉ đạo
bằng biện pháp hành chính ơm đồm, can dự vào hoạt động sáng tạo khoa
học. Trung Quốc “đặt tinh lực chủ yếu vào việc hoàn thiện chính sách
khuyến khích sáng tạo, tạo mơi trường cạnh tranh cơng bằng, chính nghĩa
[103, tr.79]. Cuốn sách nêu rõ: “Sức mạnh về khoa học kỹ thuật của Trung

Quốc phát triển nhanh chóng, sự nghiệp khoa học kỹ thuật tiến vào giai
đoạn lịch sử hoàn toàn mới” [103, tr.116].
Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (2022), Quản trị
Đảng nghiêm minh toàn diện - Thành tựu và kinh nghiệm trong công tác tổ
chức và xây dựng Đảng Cộng sản Trung Quốc từ sau Đại hội XVIII [11]. Cuốn
sách nêu rõ, Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn chú trọng lãnh đạo phát triển
khoa học và công nghệ: “Nghiên cứu chế tạo các trang thiết bị cao cấp như
tàu cao tốc, siêu máy tính, thiết bị thơng tin… có những bước đột phá quan
trọng. Tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm cơng nghệ cao tăng lên nhanh
chóng” [11, tr.368]. Trung Quốc đã kết nối, quy tụ được nhiều chuyên gia
trên các lĩnh vực: “Chuyên gia nghiên cứu tình hình đất nước, bảo hiểm y tế,
quản lý xuất cảnh, dịch vụ thường nhật” [11, tr.368]. Thiết lập “ngân hàng
nhân tài hạt nhân” trong nghiên cứu tư vấn chính sách, quy hoạch chiến



×