Tải bản đầy đủ (.pdf) (203 trang)

Giáo trình kinh doanh quốc tế phần 2 pgs ts doãn kế bôn, ts lê thị việt nga

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (25.13 MB, 203 trang )

Chương 4

CAC HiNH THUC KINH DOANH QUOC TE
.Mục tiêu của chương 4
~ Hiểu và phân định được các hình thức kinh doanh quốc tế.
- Phân tích được các ưu và nhược điểm của từng hình thức kinh
doanh mà doanh nghiệp đã lựa chọn đẻ mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình ra thị trường quốc tế.

- Nhận diện được các nhân tố chính ảnh hưởng đến quyết định của
doanh nghiệp khi lựa chọn hình thức kinh doanh quốc tế.

Tình huống: Quá

trình mở rộng hoạt động kinh doanh ra thị

trường quốc tế của Công tyHaier

Haier là công ty điện tử gia dụng lớn được thành lập từ năm 1984
và có trụ sở tại Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đơng, Trung Quốc. Ban đầu công
ty này chuyên sản xuất sản phẩm tủ lạnh các loại, theo thời gian phát
triển công ty dần dần mở rộng hoại động sản xuất và kinh doanh sang
cả các thiết bị điện tử như máy tính, điện thoại, máy giặt, và các t
bị gia dụng khác. Trải qua hơn 30 năm phát triển, Haier từng bước trở
thành một trong những nhà sản xuất và bán lẻ thiết bị gia dụng lớn nhất

thế giới với khoảng 10% thị phần tồn cầu. Theo báo cáo tài chính

thường niên của công ty, năm 2019 tổng doanh thu của Haier đạt mức.

27,6 ty USD với 1,5 ty USD đến từ các thị trường ngoài [rung Quốc,


đem lại khoản lợi nhuận rịng đạt 1,76 tỷ USD cho cả p đồn.

Mặc dù bắt đầu xuất khâu và có những thương vụ đầu tư trực tiếp
ra thị trưởng nước ngoài từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước song.

những thành

công về doanh số bán hàng và phần lớn nguồn thu của

Haier trong nhiéu nam qua vẫn chủ yếu đến từ thị trường nội địa Trung,
Quốc. Điều này khiến cho hoạt động kinh doanh của Haier phụ thuộc
nhiều vào sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Minh chứng là kết


quả kinh doanh năm 2015 của Haier có sự biến động sụt giảm do tốc

độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc bị chậm lại. Trong khi đó, mức
độ cạnh tranh ở thị trường nội địa ngày càng tăng do sự xuất hiện của
ngày càng nhiều các công ty trong và ngoài nước. Những thách thức
này buộc ban lãnh đạo của Haier phải tìm phương án đây mạnh hơn
nữa việc mở rộng hoạt động kinh doanh ra thị trường quốc tế để duy trì
đà phát triển và giảm dần sự lệ thuộc vào thị trường trong nước.
Để thực thi chiến lược của mình, Haier đã thực hiện nhiều phương.

thức khác nhau để từng bước thâm nhập vào thị trường các nước khác.

Công ty nhận thấy rằng mặc dù mặt hàng điều hịa nhiệt độ của mình
đã tiếp cận được với khách hàng ở nhiều quốc gia phát triển, tuy nhiên

với các sản phẩm gia dụng cỡ lớn như tủ lạnh hay máy giặt thì người

tiêu dùng ở các nước này vẫn có tâm lý chuộng sử dụng các sản phẩm
nội địa. Vì thế, năm 2012, Haier đã đầu tư 770 triệu

USD đề mua lại

90% cỗ phần của doanh nghiệp chuyên chế tạo hàng gia dụng lớn của
New Zealand là Eisher & Paykel. Thương vụ mua lại này đã gitip Haier
không chỉ tiếp cận được với danh mục các bằng sáng chế cơng nghệ do
Fisher & Paykel sở hữu mà cịn giúp cơng ty đưa các dịng sản phẩm
của mình sang các thị trường lớn như Úc, New Zealand, và Mỹ. Việc
tiêu thụ được sản phẩm ở các thị trường phát triển này giúp biên lợi
nhuận của Haier tăng lên đáng kể so với khi chỉ tập trung kinh doanh ở
thị trường trong nước như trước. Tháng một năm 2016, Haier chấp
nhận trả một khoản tiền rất lớn là 5,4 tỷ USD đề mua lại mảng thiết bị

gia dụng của GE. Thương vụ này nằm trong kế hoạch của Haier là có
thể nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường Mỹ. Haier nhận thức được
ring các sản phẩm mang nhãn hiệu của Trung Quốc thường bị người
tiêu dùng Mỹ mặc định là có chất lượng và độ tin cậy khơng cao. Vì
thế việc mua lại bộ phận sản xuất thiết bị gia dụng của một doanh
nghiệp có tiếng như GE sẽ giúp Haier có thể bán ra các sản phẩm do

mình sản xuất dưới nhãn hiệu uy tín này. Trong hợp đồng mua lại có

quy định rõ Haier được phép sử dụng nhãn hiệu GE cho các sản phẩm
của mình trong vịng 40 năm và vẫn duy trì hoạt động của bộ phận
hàng gia dụng của GE. ¡ Kentucky, Mỹ.


Một bước đi chiến lược khác của Haier là từng bước hình thành

nên các cơ sở sản xuất ở khắp nơi trên thế giới. Điều này cho phép
Haier có thể sản xuất các sản phẩm đáp ứng được nhu cầu và thị hiéu
của các thị trường khác nhau. Ví dụ như để đáp ứng như cầu đang tăng
đối với các sản phẩm điện thoại thông minh ở khu vực Đông Nam Á,
Haier đã cho xây dựng nhà máy chuyên sản xuất điện thoại ở Indonesia
năm 2014. Ở thị trường châu Phi, Haior duy tri hoạt động của Š nhà
máy sản xuất để chế tạo ra các sản phẩm đáp ứng tốt n
i

thị trường nhiều tiềm năng này. Chẳng hạn như nhà máy của Haier ở
Nigeria chuyén san xuất điều hòa nhiệt độ, tủ lạnh, và tủ đông đề cung.
cấp cho hơn nửa triệu khách hàng bản địa mỗi năm, biến Haier trở
thành nhà sản xuất thiết bị gia dụng lớn nhất ở quốc gia này. Để đáp.
ứng nhu cầu của người
tiêu dùng Nigeria, Haier đã nghiên cứu và chế

tạo các loại tủ lạnh có khả năng giữ lạnh cho thực phẩm đến hơn 100
giờ, nhằm ngăn ngừa việc thực phẩm có thể bị hư hỏng do tình trạng
mất điện diễn ra thường xuyên. Năm 2000, Haier cũng là doanh nghiệp.
đầu tiên của Trung Quốc mở dây chuyển sản xuất ở Mỹ khi đưa khu
công nghiệp Haier ở Nam Carolina vào hoạt động. Với diện tích
khoảng hơn 40ha và chỉ phí đầu tư 40 triệu USD, nhà máy này chuyên
sản xuất các loại tủ lạnh để cung cáp cho thị trường các nước châu Mỹ.
Năm 2015, Haier đã đầu tư thêm 72 triệu USD đề mở rộng và nâng cấp
nhà máy này để đáp ứng nhu cầu ngày một tăng ở thị trường Mỹ. Tính
đến thời điềm hiện tại, trong tơng số 122 nhà máy sản xuất của mình,
Haier đang duy trì nhiều nhà máy ở hơn 20 địa điểm bên ngoài lãnh
thé Trung Quốc.

Một điểm đáng lưu ý trong chiến lược mở rộng ra tồn cầu của

Haier đó là nhờ các nỗ lực nghiên cứu và phát triển hướng tới đáp ứng
nhu cầu các thị trường địa phương, doanh nghiệp này ln chuẩn bị
cho mình cách thức phù hợp nhất đẻ thâm nhập vào các thị trường mới
Dựa trên các kết quả nghiên cứu thị trường cùng với mạng lưới phân
phối được thiết kế hiệu quả, Haier luôn đặt mong muốn của khách
hàng lên hàng đầu khi nhanh chóng điều chỉnh các sản phẩm của mình


tiêu dùng và thị hiếu của khách hàng ở thị trường khó tính như My,
Haier đã xây dựng riêng một trung tâm thiết kế và nghiên cứu sản
phẩm dành cho thị trường này. Công ty cũng thiết lập các trung tâm
nghiên cứu và phát triển sản phẩm
ở châu Âu, Úc, và Nhật Bản. Đồng
thời, công ty cũng luôn thu thập ý kiến phản hồi của người tiêu dùng
thông qua đội ngũ nhân viên kinh doanh, cũng như thường xuyên
phỏng vấn khách hàng khi họ ghé thăm các cửa hàng trưng bày và bán
sản phẩm của Haier ở các nước. Không chỉ vậy, Haier cịn sử dụng các
cơng cụ và các nền tảng mạng xã hội trên internet để tiếp nhận các ý
tưởng từ khách hàng từ đó tiếp tục nghiên cứu và phát triển các sản
phẩm gia dụng của mình sao cho tốt nhất trên mọi khía cạnh đề đáp
ứng được mong muốn từ phía người tiêu dùng tồn cầu. Như vậy có
thể thấy, thơng qua việc mua lại các thương hiệu nước ngồi có uy tín,

xây dựng các nhà máy sản xuất ở các khu vực gần với khách hàng mục

tiêu, tùy chỉnh các dòng sản phẩm để đáp ứng với nhu cầu ở từng thị
trường địa phương, và thường xuyên lắng nghe những phản hồi từ phía
người tiêu dùng đã giúp Haier từng bước gặt hái thành công khi mở
rộng hoạt động sản xuất và kinh doanh của mình ra thị trường quốc tế.
Nguồn: Hollensend, (2017) tr.60; Collinson va etg., (2017) tr.701;

Các thơng

tin chính

www:haier.com/global/

thức của cơng ty Haier trên trang web

4.1. Theo hình thức thương mại
4.1.1. Xuất khẩu

a. Khái niệm
Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ một
quốc gia hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ quốc gia đó
nơi được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Đây
là loại hình thức kinh doanh quốc tế cơ bản được các doanh nghiệp lựa
chọn nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ ra bên ngoài thị trường nội địa,
giúp tăng doanh số bán hàng, đồng thời khai thác được tính kinh tế theo.
quy mơ khi thị trường được mở rộng. Lựa chọn phương thức này giúp


doanh nghiệp có thể bước đầu tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế

bằng việc đưa hàng hóa, sản phẩm của mình ra thị trường nước ngồi
nhưng khơng phải đối diện với nhiều rủi ro và đầu tư chỉ phí ban đầu lớn.

Xuất khẩu đã được thực hiện từ rất lâu trước đây thơng qua hình thức
sơ khai đó là việc giao thương trao đổi hàng hóa giữa các thương nhân
đến từ các quốc gia hay vùng lãnh thỏ khác nhau. Cùng với sự phát triển
theo thời gian của khoa học công nghệ, thông tin liên lạc, cũng như sự

phát triển của các hoạt động kinh tế giúp cho hoạt động xuất khẩu đã và
đang ngày càng mở rộng với nhiều hình thức đa dạng. Hiện nay hoạt
động xuất khâu được thực hiện trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề của nền
kinh tế đối với hàng tiêu dùng, tư.
im xuất, cũng như một số loại
hình dịch vụ như giáo dục, y tế, du lịch, ha tài chính. Thơng qua hoạt
động này các doanh nghiệp và quốc gia xì t khẩu thu được lợi ích về

kinh tế. Trong thực tế,

bản gồm:

có thé chia hoạt động xuất khẩu thành hai dạng cơ

«Xuất khẩu trực tiếp

Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động theo đó doanh nghiệp sản xuất hoặc
thu mua hàng hóa ở thị trường trong nước rồi trực tiếp bán cho người
mua ở thị trường nước ngồi mà khơng sử dụng các trung gian thương
mại. Với hình thức kinh doanh này, doanh nghiệp sẽ tự mình thực hiện
tất cả các phần cơng việc liên quan đến xuất khẩu. Vì thế, doanh nghiệp
có thể trực tiếp kiểm soát hoạt động phân phối, xây dựng nhãn hiệu, cũng
như định giá các sản phẩm do mình cung cấp. Bên cạnh đó, việc xuất
khâu trực tiếp giúp doanh nghiệp tham gia vào các khâu trong hoạt động.
xuất khâu sản phẩm
nghiệp có điều kiện
hiểu được rõ nhu cầu
nắm bắt được những

của mình sang thị trường nước ngồi, bởi vậy doanh

tiếp xúc trực tiếp với thị trường và khách hang dé
và thị hiểu tiêu dùng của họ cũng như nhanh chóng
cơ hội mới. Tuy nhiên, xuất khâu trực tiếp cũng có

những hạn chế nhất định mà doanh nghiệp cần lưu ý chẳng hạn như cần
chỉ phí thực hiện cao hơn, địi hỏi phải có kiến thức nhất định về thị
trường nước ngoài mà doanh nghiệp tiếp cận, cũng như khả năng vượt
qua những trở ngại trong kinh doanh ở thị trường nước ngồi. Nghiệp vụ
xuất khâu trực tiếp có thể được thực hiện bởi bộ phận kinh doanh của


doanh nghiệp đặt ở trong nước hoặc thông qua công ty con hoặc chỉ
nhánh đặt ở thị trường nước ngồi.
® Xuất khẩu giản tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức xuất khẩu hàng hóa khi nhà xuất
khâu khơng làm việc trực tiếp với người nhập khẩu ở nước ngoài mà sẽ
thông qua một bên thứ ba thường được gọi là trung gian thương mai dé

thực hiện các phần công việc liên quan. Để bán và phân phối các sản
phẩm của mình ở thị trường nước ngồi, ngưi sản xuất sử dụng các bên
trung gian thương mại là những người có chức năng xuất khẩu thực hiện
cho mình. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sản xuất hay nhà
xuất khẩu trong nước sẽ không thực sự tham gia vào hoạt động tiếp thị và
bán hàng ở thị trường nước ngoài. Trong thực tế, phương thức xuất khâu

gián tiếp thường được lựa chọn bởi các doanh nghiệp có quy mơ nhỏ,
chưa đủ điều kiện đề trực tiếp thực hiện hoạt động xuất khẩu, hoặc
coi
phần lợi nhuận đem lại từ hoạt động xuất khẩu chỉ là phần phụ trong tơng


tồn bộ lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh chung của doanh nghiệp.
Ngoài ra, đây cũng là phương thức được một số doanh nghiệp lựa chọn

khi muốn từng bước xâm nhập thị trường quốc tế hoặc thử nghiệm thị

trường mới trước khi chuyển sang các dạng thức khác đòi hỏi mức độ
dau tu ngi

lực và mức độ gắn kết với thị trường cao hơn.

Khi lựa chọn phương thức xuất khâu gián tiếp này, doanh nghiệp can
nhận thức được phương thức này cũng tiềm ẩn một số rủi ro nhất định.
Cy thể, doanh nghiệp sẽ không thẻ bám sát thị trường và kiểm soát chặt
chẽ việc xuất khẩu và tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ của mình ở thị
trường nước ngồi. Kênh phân phối và tiêu thụ sản phẩm ở thị trường
nước ngồi có thể khơng phù hợp với thói quen mua sắm và tiêu dùng.
của người dân bản địa dẫn đến việc tiêu thụ hàng hóa khơng đạt được kỳ
vọng đề ra. Hoặc cách thức mà đội ngũ nhân viên của các cơng ty trung
gian cung cấp hàng hóa và dịch vụ với chất lượng không đảm bảo gây
tổn hại đến danh tiếng và hình ảnh của doanh nghiệp cũng như của sản

phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp trên thị trường. Việc không.
bám sát với thị trường cịn có thể khiến doanh nghiệp khơng nắm được rõ


nhu cầu và đặc tính tiêu dùng của khách hàng ở thị trường nước ngoài
dẫn đến bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh tiềm năng.

Có 5 dạng thức chính liên quan đến xuất khẩu gián tiếp, gồm có:
- Đại lý thu mua xudt khdu (export buying agent). Don vi này đồng

vai trò là đại diện cho những doanh nghiệp hoặc cá nhân ở nước ngồi
đang có nhu cầu mua hàng, Dựa trên nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ mà
người mua ở nước ngoài đặt ra, những đại lý thu mua này sẽ sang nước.
của bên nhà sản xuất để tìm kiểm và thu mua hàng đề đáp ứng các đơn

hàng. Vì hoạt động theo lợi ích của bên có nhu cầu mua hàng nên đại lý
thu mua xuất khâu sẽ nhận được hoa hồng từ bên đối tác nước ngồi. Bên
sản xuất hàng hóa ở trong nước khơng trực tiếp tham gia vào giao dịch

giữa bên đại lý thu mua xuất khẩu và người mua ở nước ngoài, nhiệm vụ
của họ lúc này đơn thuần là sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu của
người mua. Có thể thấy đại lý thu mua xuất khẩu lúc này hoạt động như
một người mua ở thị trường nội địa. Nhiệm vụ của họ là tìm kiếm các
nhà sản xuất hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ có những sản phẩm đáp
ứng với nhu cầu mà đối tác nước ngoài đang cần với giá bán hàng ở mức.
hợp lý nhất có thê
Từ góc độ người xuất khâu có thê thấy việc xuất khẩu thông qua đại
lý thu mua xuất khẩu là cách thức đơn giản nhất đề đưa hàng hóa và dịch
vụ do mình sản xuất ra đến tay khách hàng và người tiêu dùng ở nước

ngoài. Lúc này người sản xuất chỉ cần tập trung sản xuất hàng hóa và
dịch vụ đáp ứng nhu cầu và nhận tiền thanh toán cho đơn hàng, còn việc
bảo quản, vận chuyên, làm các thủ tục liên quan cũng như tiêu thụ hang
sẽ do bên đại lý thu mua xuất khẩu đảm trách toàn bộ. Với phương thức
này, nhà sản xuất sẽ phải đối mặt với ít rủi ro, tuy nhiên họ sẽ khơng trực
tiếp kiểm soát được hoạt động kinh doanh các sản phẩm dịch vụ của
mình ở thị trường nước ngồi,
cũng như không nắm bắt được những biến
động về nhu cầu trên thị trường đó. Với những doanh nghiệp nhỏ thì đây
là phương thức dễ nhất để đưa các sản phâm của mình ra thị trường nước


ngồi, tuy nhiên làm cách này sẽ bị phụ thuộc hoàn toàn vào bên đ;
thu mua, khiến doanh nghiệp không nắm bắt được hành vi ngườ



tiêu

dùng cũng như mức độ cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, nếu doanh


nghiệp có ý định kinh doanh lâu dài ở thị trường nước ngồi thi nên lựa
chọn phương thức có mức độ chủ động cao hơn để có được sự am hiểu
sâu hơn về thị trường đó.

- Mơi giới (broker). Một đạng thức trung gian khác là môi giới xuất
khẩu. Người này đóng vai trị đứng giữa kết nối thơng tin để bên bán
hàng ở trong nước và bên mua hàng ở nước ngồi có thể tiếp xúc và giao
dịch với nhau. Người môi giới chịu trách nhiệm giúp các bên bán hàng
và bên mua hàng kết nói để tiến tới ký kết hợp đồng và giao dịch hàng
hóa, chứ khơng trực tiếp xử lý và sở hữu hàng hóa trong q trình giao
dịch mua bán. Đổi lại người mơi giới được nhận hoa hồng từ bên người
mua, bên người bán, hoặc cả hai bên cho việc kết nối này. Thông thường

người mơi giới thường chun sâu về một sản
hàng hóa cụ thể. Với kiến thức chuyên

phẩm hoặc một chủng loại

sâu về mỗi loại hàng hóa và am


hiểu thị trường tiêu thụ các loại hàng hóa đó, người mơi giới sẽ cung cấp
những thơng tin hữu ích để giúp bên bán hàng và bên mua hàng đến từ
các nước kết nối được với nhau, từ đó thỏa thuận tiễn hành các giao dịch.
~ Công ty quản ý xuất khẩu (export management company). Day 1a
các công ty chuyên trách nhận ủy thác và quản lý hoạt động xuất khẩu
hàng hóa cho các doanh nghiệp sản xuất khác nhau. Các công ty này có
nhiều kinh nghiệm trong việc làm thủ tục xuất nhập khẩu và cung cấp các

dịch vụ này cho những doanh nghiệp có nhu cầu xuất

Căn cứ hợp đồng ủy thác, mỗi thương vụ xuất khâu thì

khẩu hàng hóa.
cơng ty quản

xuất khẩu sẽ thực hiện đưới danh nghĩa của công ty xuất khẩu. Các công
ty quản lý xuất khẩu này sẽ sử dụng những kinh nghiệm sẵn có và sự am
hiểu tập quán kinh doanh cũng như các yêu cầu về thủ tục xuất nhập
khẩu hàng hóa ở từng quốc gia để thay mặt bên ủy thác thức hiện các
phần công việc liên quan đến xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ ra nước
ngoài. Việc làm thủ tục xuất khẩu hàng hóa cho nhiều doanh nghiệp trên
nhiều lĩnh vực sẽ giúp cho công ty quản lý xuất khẩu sử dụng hiệu quả
chỉ phí quản lý, cũng như cắt giảm được các chỉ phí liên quan đến vận tải
bởi tính kinh tế theo quy mô khi vận chuyển số lượng lớn hàng hóa cho
nhiều doanh nghiệp cùng một lúc. Ở Việt Nam, các công ty quản lý xuất
khẩu này thường được biết đến với tên gọi là công ty nhận ủy thác xuất


khâu và các công ty này thường thu một khoản phí tùy theo từng giá trị

hợp đồng ủy thác giữa các công ty đề chỉ trả cho phần công việc mà mình

thực hiện.
- Cơng ty thương mại (Trading company). Đây là các doanh nghiệp
hoạt động như nhà phân phối độc lập với chức năng kết nối các khách
hàng nước ngoài với các công ty sản xuất và xuất khẩu trong nước để đưa
các hàng hóa và dịch vụ đến với khách hàng ở thị trường nước ngồi
Những cơng ty thương mại đầu tiên được hình thành từ thế kỷ 17 bởi các
để quốc như Anh, Pháp, Hà Lan nhằm quản lý hoạt động giao thương

hàng hóa với

các nước thuộc địa của mình. Ngày nay, các doanh nghiệp

thương mại được thấy nhiều ở các nước châu
Latin. Trong đó, Nhật Bản là quốc gia được biết
rất nhiều các công ty thương mại, được gọi là
đến 50% hoạt động xuất khẩu và 67% hoạt động

Á, châu Phi, hoặc
đến với sự hiện diện
Sogo Shohas, kiểm
nhập khẩu của quốc

Mỹ
của
sốt
gia

này. Chức năng chính của các cơng ty thương mại là nhận diện các nhà

cung cấp phù hợp, đàm phán và mua hàng hóa của họ để rồi thông qua
các kênh phân phối để bán lại hàng hóa đó ở thị trường các nước. Bên
cạnh việc thực hiện các hoạt động liên quan trực tiếp đến xuất khẩu, các
cơng ty chun doanh thương mại cịn đóng vai trò quan trọng trong một
loạt các lĩnh vực khác như vận tải, kho bãi, tài chính, chuyển giao cơng.
nghệ, tài trợ cho các dự án thương mại và đầu tư, bảo hiểm, bất động
sản... Về bản chất, công ty chuyên doanh thương mại sẽ đảm trách c‹
dịch vụ xuất khâu nhằm kết nối giữa các nhả sản xuất trong nước với

người mua ở thị trường nước ngoài.

- Hợp tác xuất khẩu (Piggybacl). Đây là dạng thức công ty sản xuất

dùng mạng lưới phân phối của doanh nghiệp khác để bán các sản phẩm.
của mình trên thị trường nước ngồi. Theo đó, một cơng ty nhỏ và vừa
chưa có kinh nghiệm xuất khẩu sẽ thương thảo với một doanh nghiệp lớn
hơn có nhiều kinh nghiệm ở một số thị trường cụ thể để nhờ doanh
nghiệp đó giúp phân phối hàng hóa trên kênh phân phối của họ. Điều này
sẽ đem lại lợi ích cho cả hai phía bởi cơng ty nhỏ có thé tiếp cận được thị

trường quốc tế trong khi doanh nghiệp lớn hơn có thể khai thác tối đa hệ
thống phân phối bán hàng mà mình đang có. Doanh nghiệp lớn hơn có


thể đóng vai trị là đại lý đề phân phối hàng hóa ở thị trường quốc tế hoặc

đơn giản là nhận hoa hồng từ việc bán hàng. Các sản phẩm được phân

phối ở đây thường là những sản phẩm có liên quan nhưng không cạnh
tranh trực tiếp hoặc là các mặt hàng phụ trợ cho các sản phẩm mà doanh

nghiệp lớn đang kinh doanh.
b. Ui diém

Xuất khâu luôn được xem là phương thức chứa đựng ít rủi ro và
khơng tốn quá nhiều chỉ phí của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp lựa
chọn phương thức xuất khâu như bước đầu tiên đề tiến ra thị trường nước
ngồi bởi thơng qua cách này doanh nghiệp có thể đánh giá được nhu cầu
của thị trường nước sở tại đối với sản phẩm mà mình cung cấp từ đó điều
chỉnh được hoạt động sản xuất trong nước để đáp ứng được nhu cầu. Nếu

sản phẩm xuất khẩu được thị trường nước ngoài chấp nhận và tiêu dùng.

rộng rãi, doanh nghiệp sẽ có chiến lược phù hợp đề tiếp tục mở rộng hoạt

động kinh doanh và thâm nhập vào thị trường đó qua những phương thức
khác với mức độ gắn kết cao hơn nhằm đây mạnh hiệu quả kinh doanh.
Việc xuất khâu ra thị trường nước ngoài cũng giúp doanh nghiệp mở
rộng thị trường và đa dạng hóa khách hàng, từ đó tăng doanh thu và giảm
sự phụ thuộc vào thị trường trong nước. Thêm vào đó, việc nâng cao
được doanh số tiêu thụ cũng giúp doanh nghiệp đạt được tính hiệ quả

kinh tế theo quy mơ, qua đó tiết giảm chỉ phí sản xuất trên mỗi đơn vị

hàng hóa sản phẩm, giúp giảm giá thành từ đó nâng cao tính cạnh tranh
của sản phẩm đó trên thị trường.

Ngoài ra, việc tham gia vào hoạt động xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
sang thị trường mới địi hỏi doanh nghiệp có sự nghiên cứu đẻ thích ứng
các sản phẩm của mình phù hợp với thói quen và thị hiếu tiêu dùng ở
từng thị trường nước ngoài. Điều này thúc đẩy doanh nghiệp liên tục

nghiên cứu đề cải

tiến và phát triển các sản phẩm của mình, đồng thời

học hỏi các kỹ năng cần thiết đề từng bước xây dựng kênh phân phối của

mình ở thị trường nước ngồi.

e¿ Nhược điểm

Lựa chọn hình thức kinh doanh xuất khẩu, đặc biệt là xuất khâu gián

tiếp có thê khiến doanh nghiệp không trực tiếp giao dịch được với khách


hang ở thị trường nước ngoài. Việc thiếu sự hiện diện trực tiếp ở thị
trường nước ngồi như vậy có thể khiến cho doanh nghiệp khó nắm bắt

được phản hồi của khách hàng, cũng như không học hỏi được nhiều kinh
nghiệm từ hoạt động marketing và kinh doanh ở các thị trường đó. Đồng
¡, doanh nghiệp

cũng có thê đối mặt với nguy cơ mất khả năng kiểm

soát đối với việc phân phối hàng hóa ở thị trường nước ngồi khi quá phụ
thuộc vào các đối tác là trung gian thương mại.
4.1.2. Nhập khẩu

a. Khái niệm
Cùng với xuất khẩu thì nhập khẩu là hoạt động không thể tách rời

trong nghiệp vụ ngoại thương đồng thời cũng đóng góp quan trọng trong,
thương mại quốc tế và giúp cho cán cân thương mại của mỗi quốc gia

được cân bằng. Nhập khẩu hàng hóa được hiểu là các nghiệp vụ cần thiết
để đưa hàng hóa hay ngun vật liệu từ bên ngồi vào trong lãnh thổ một
quốc gia hoặc từ khu vực đặc biệt như khu vực hải quan riêng nằm trên

quốc gia đó dé phục vụ tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh,
hoặc để chờ tái xuất nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, hoạt động nhập

khẩu đóng vai trị quan trọng trong nền kinh

quốc

gia bởi hình thức

này đảm bảo khai thác hiệu quả lợi thế so sánh của mỗi nước và góp.

phần thực hiện chun mơn hóa trong sản xuất. Thực tế cho thấy khơng
có quốc gia nào là có lợi thế về mọi mặt đề tự

sản xuất và cung ứng tắt cả

các hàng hóa phục vụ cho đời sống của người dân trong nước. Dựa trên
lợi thế so sánh, mỗi quốc gia sẽ tập trung nguồn lực để đẩy mạnh sản
xuất những loại hàng hóa mà mình có lợi thế nhất để cung cấp cho thị
trường trong nước cũng như quốc tế. Đồi lại họ sẽ nhập khâu những mặt

hàng vốn là lợi thế của quốc gia khác về phục vụ tiêu dùng trong nước.

Có thể khăng định hoạt động nhập khẩu thể hiện một số vai trò quan
trọng như sau:

- Nhập khâu góp phần làm đa dạng thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng hàng hóa của người đân trong nước đồng thời tránh được tình trạng
khan hiém bat ơn. Hoạt động nhập khâu hàng hóa từ thị trường nước ngồi

giúp thị trường hàng hóa trong nước trở nên đa dạng và nhiều

chủng loại


hơn. Nhờ đó người tiêu dùng có thêm nhiều sự lựa chọn hàng hóa với chất
lượng, giá cả, mẫu mã và nguồn gốc xuất xứ khác nhau. Bên cạnh đó, có

những mặt hàng đặc biệt do khan hiếm hoặc do trình độ cơng nghệ mà một

quốc gia có thể chưa tự sản xuất được thì nhập khâu từ nước ngồi là kênh
hiệu quả giúp người tiêu dùng ở quốc gia đó tiếp cận vả sử dụng được các

mặt hàng nay.
~ Nhập khâu góp phần xóa bỏ thế độc quyền của các doanh nghiệp
sản xuất trong nước đỏng thời tạo động lực thúc đẩy các doanh nghiệp
nay không ngừng thay đổi để phát triển. Khi hàng hóa được nhập khẩu từ
nước ngoài về nhiều, sức ép cạnh tranh ở thị trường trong nước cũng

không ngừng tăng lên. Việc người tiêu ding thêm sự lựa chọn đối với
các hàng hóa hay nguyên vật liệu ngoại nhập khiến các doanh nghiệp
trong nước phải không ngừng thực hiện các hoạt động nghiên cứu và


phát triển để cải tiến và nâng cao chất lượng các sản phẩm hiện

có cũng

như tạo ra các sản phẩm mới với chất lượng cao hơn, đồng thời thực hiện
các hoạt động marketing và xây dựng kênh phân phối hiệu quả hơn từ đó
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường.
~ Nhập khâu là qua trình dé thực hiện việc chuyển giao công nghệ giữa
các quốc gia, từ quốc gia có trình độ phát triển cơng nghệ cao hơn sang các
quốc gia khác. Việc chuyển giao công nghệ và học hỏi giữa các quốc gia giúp

các công nghệ mới nhanh chóng được lan tỏa đồng thời tạo nên sự cân bing
về trình độ sản xuất giữa các quốc gia. Các nước đang phát triên sẽ có điều
kiện tiếp cận được với các công nghệ mới nhanh hơn với mức chỉ phí thấp

hơn. Điều này cũng giúp cho việc phân cơng lao động và chun mơn hóa

trong sản xuất ở các nước được thực hiện hiệu quả hơn, từ đó nâng cao năng,

suất lao động và phát huy được lợi thế so sánh của mỗi quốc gia.
Trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế khi
thực hiện hoạt động nhập khâu thường sử dụng hai hình thức nhập khâu.

chính là nhập khẩu trực tiếp và nhập khẩu ủy thác. Căn cứ theo điều kiện
kinh doanh, điều kiện cơ sơ vật chất hạ tằng, năng lực kinh nghiệm cũng

như yêu

cầu


cụ thể của khách hàng mà doanh nghiệp lựa chọn phương.

thức nhập khẩu phù hợp, theo đó:


- Nhập khẩu trực tiếp là việc doanh nghiệp trực tiếp thực hiện các
nghiệp vụ cần thiết để nhập khẩu hàng hóa hay ngun vật liệu từ thị

trường nước ngồi vào trong nước với chỉ phí và danh nghĩa của mình rồi
sau đó phân phối hàng hóa nhập khẩu nảy đến những khách hàng có nhu
cầu trong nước.

- Nhập khẩu ủy thác là việc doanh nghiệp ủy thác cho một đơn vị
trung gian làm cầu nối thực hiện các nghiệp vụ cần thiết để nhập khẩu
hàng hóa từ nước ngồi vào thị trường trong nước. Với cách thức này thì
đơn vị trung gian

sẽ thực hiện các

công

việc được giao với danh nghĩa

của mình nhưng ing chỉ phí của bên ủy
thác giao cho.
b. Uu diém
~ Đối với phương thức nhập khẩu trực tiếp:
+ Khi tiến hành nhập khâu trực tiếp doanh nghiệp thực hiện bằng danh
nghĩa và chỉ phí của mình, vì vậy doanh nghiệp có thẻ tiết kiệm được chỉ phí
kinh doanh đo khơng phải chỉ trả phí ủy thác cho bên trung gian. Điều này.

giúp doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận hơn khi tiêu thụ hàng hóa nhập
khẩu ở thị trường trong nước.

+ Thực hiện nhập khẩu trực tiếp khiến doanh nghiệp phải tự mình
nghiên cứu thị trường, tìm kiếm, xây dựng và duy trì mơi quan hệ với các
đối tác cung ứng ở nước ngoài. Tuy phải tự đảm trách nhiều công việc
liên quan để mua và đưa hàng từ nước ngoài về tiêu thụ trong nước
nhưng bằng cách này doanh nghiệp có thể bám sát và nắm vững được
thông tin thị trường, thường xuyên trao đổi và hiểu rõ được đối tác, qua
đó giúp nắm bắt được các cơ hội trên thị trường.
+ Phương thức trực tiếp này cũng giúp doanh nghiệp

giám

kiểm soát chặt chẽ các phẩn cơng việc trong q trình tìm kiếm đối

tác, ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khâu. Từ đó doanh nghiệp có

thể nhanh chóng nắm bắt và đưa ra cách thức xử lý phù hợp khi cỏ vấn
để nảy sinh trong q trình nhập khẩu hàng hóa và ngun vật liệu từ
nước ngoài.
- Đối với phương thức nhập khâu ủy thác:

+ Đây là hình thức phù hợp với những cá nhân chưa có tư cách pháp
nhân hoặc với doanh nghiệp nhỏ hay mới được thành lập, chưa có nhiều


kinh nghiệm thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến nhập khâu hàng hóa

đặc biệt là các mặt hàng khó nhập khâu hoặc thường bị yêu cầu nhiều

loại giấy tờ và thủ tục phức tạp. Bằng cách ký hợp đồng ủy thác cho bên

trung gian thay mặt thực hiện hoạt động nhập khẩu, doanh nghiệp có thể
ìn dụng sự am hiểu thị trường và kinh nghiệm của bên trung gian này để

tiết kiệm được thời gian cũng như nhân lực đồng thời đảm bảo việc nhập
khẩu hàng diễn ra thông suốt như kế hoạch.
©- Nhược điểm
- Đối với phương thức nhập khâu trực tiếp:

+ Thực hiện phương thức trực tiếp này đòi hỏi doanh nghiệp kinh
doanh nhập khẩu phải tự mình chịu tồn bộ trách nhiệm đối với các hoạt

động của mình liên quan đến nhập khẩu hàng hóa. Điều này có thể tiềm
ẩn rủi ro dẫn đến sai sót khi thực hiện hợp đồng nếu đội ngũ nhân viên
của cơng ty khơng có kinh nghiệm trong quan hệ thương mại quốc tế,
không am hiểu về các nghiệp vụ và quy trình liên quan đến nhập khẩu
hàng hóa từ nước ngồi, hoặc khơng nắm vững luật pháp cũng như các
tập quán thương mại trong nước và quốc tế.
- Đối với phương thức nhập khẩu ủy thác:

+ Doanh nghiệp phải trả chỉ phí sử dụng dịch vụ ủy thác cho bên
trung gian. Mức chỉ phí này sẽ do các bên thỏa thuận trước và thường
được tính theo một tỷ lệ phẩn trăm nhất định trên giá trị của hợp đồng.
Với các lô hàng nhập khẩu phức tạp về mặt thủ tục và địi hỏi nhiều giấy

tờ liên quan, có thể bên trung gian được ủy quyền sẽ yêu cầu mức phí ủy
thác cao, vì vậy doanh nghiệp cần cân nhắc mức phí và lựa chọn đối tác
trung gian phù hợp nhằm đảm bảo đạt được lợi nhuận và hiệu quả kinh


doanh như kỳ vọng.
+ Bên ủy thác có thể rơi vào tình trạng bị động và chậm phản ứng

trước các tinh hudng phat sinh trong q trình nhập khẩu hàng hóa do
phải làm việc qua bên trung gian. Phương thức này cũng tiểm ân những.
rủi ro nhất định về thông tin liên quan đến nhà cung cấp nước ngoài và
sản phẩm nhập khẩu do quá tin tưởng vào bên được ủy thác. Trong thực

tế, có những trường hợp bên trung gian sau khi hoàn thành hợp đồng ủy

thác nhập khẩu đã tận dụng mồi quan hệ với nhà cung cấp ở nước ngoài


để tự mình thực hiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa vào tiêu thụ ở thị

trường trong nước. Lúc này bên trung gian từ vị thế là cầu nối để thực
hiện hợp đồng nhập khâu sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với

doanh nghiệp trên thị trường.
4.1.3. Mua bán đối lưu

a. Khdi niém
Mua bán đối lưu là một phương thức giao dịch trong đó hoạt động

xuất khâu kết hợp chặt chẽ với hoạt động nhập khẩu, người Bán đồng
thời là người Mua, với lượng hàng hóa trao đơi có sự tương đương về
mặt giá trị. Trong hoạt động mua
lưu thơng thường, mục đích của
trao đơi khơng phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mả nhằm thu về một


hàng hóa khác có giá trị tương đương.

Với những đặc điểm như vậy, trong nhiều trường hợp hoạt động

mua

bán đối lưu thường được gọi là phương thức xuất nhập khẩu liên kết hoặc
phương thức đổi hàng. Lúc này, thuật ngữ giao dịch đối lưu được dùng.
để chỉ hình thức giao dịch kinh doanh, trong đó bao gồm yếu tổ trao đồi
Thực tiễn hoạt động kinh doanh quốc tế chỉ ra các doanh nghiệp sử dụng
nhiều phương thức mua bán đối lưu khác nhau để đáp ứng nhu cầu mua

bán và trao đổi hàng hóa với đ ác nước ngồi, song tựu chung lại có
một số hình thức chính như sau:
Hình thức hàng đổi hàng (barter). Trong thực tiễn hoạt động kinh
doanh quốc tế, hình thức hàng đổi hàng được biểu hiện ở hai dạng chính
dưới đây:

- Hình thức hàng đồi hàng trực tiếp này ln địi hỏi các bên ký kết
hợp đồng xuất khâu và hợp đồng nhập khâu đồng thời, một thương vụ
giao dịch thường chỉ ký kết hợp đồng bao gồm hai bên giao hàng tương

xứng nhau. Đây là hình thức trao đổi hàng phổ biến nhất. Do đi

phương pháp này là đòi hỏi việc thực hiện hợp đồng xuất khâu và nhập.
khẩu phải tiến hành đồng thời nên sẽ gây ra những khó khăn. Vì thế,

trong nghiệp vụ thực tế xuất hiện cách làm biến đổi, hay thấy nhất là tiền
hành hàng đổi hàng thông qua phương thức tín dụng đối khai để đảm bảo
các bên thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.



~ Dang thit hai trong hình thức hàng đổi hàng được gọi là hàng đổi
hàng tổng hợp. Trong nghiệp vụ này, hai chủ thể của quan hệ buôn bán
thỏa thuận chỉ định ngân hàng thanh toán. Ngân hàng này mở tài khoản,
gọi là tài khoản clearing, để ghi chép tổng giá trị hàng giao nhận của mỗi
bên. Sau

thời hạn quy định, ngân hàng mới quyết toán tài khoản

clearing và bên bị nợ (tức nhận nhiều mà giao ít) sẽ phải trả khoản nợ bội
chỉ mà mình đã gây ra.
- Hình thức mua đối lưu (counter purchase). Mua đôi lưu hay còn
gọi là mua của nhau, hoặc mậu dịch song song. Với phương thức này, hai
bên giao dich trước n cần ký một hợp đồng thỏa thuận là nước nhập
khẩu trực
sẽ dùng tiền mua hàng (máy móc, thiết bị...) của đối tác, v
nước xuất khẩu trước cam kết trong hợp đồng này mua hằng trở lại trong
khoảng thời gian nhất định. Sau đó, hai bên cịn ký một hợp đồng thóa

thuận cụ thể là bên xuất khẩu trước dùng một phần hoặc toàn bộ số tiền
hang đã nhận được dé mua hàng ngược lại (nguyên vật liệu, sản phẩm

công nghiệp chế biến, bán thành phẩm...) của nước nhập khẩu trước như
đã thỏa thuận. Đặc điểm của mua đối lưu không phải lấy hàng đổi hàng
đơn thuần mà là giao dịch có thanh toán bằng tiền. Điểm khác biệt giữa
mua đối lưu với giao dịch thương mại thông thường là ở chỗ bên xuất
khẩu trước sẽ có nghĩa vụ mua ngược lại hàng hóa của đối tác và khơng
địi hỏi trao đổi ngang giá trị
- Hình thức mua lại sản phẩm (Buy back). Với hình thức này, một


bên sẽ cung cấp thiết bị tồn bộ hoặc bằng sáng chế, hoặc bí quyết kỹ

thuật (know-how) cho bên khác, đồng thời cam kết sẽ mua lại những sản
phẩm do thiết bị hoặc sáng chế hoặc do bí quyết kỹ thuật mà họ đã
chuyển giao đó tạo ra. Phương thức này thường được sử dụng trong các
giao dịch chuyển giao cơng nghệ.

- Hình thức bù trừ (compensation). Trong hình thức mua bản bù trừ
bai bên trao đơi hàng hóa với nhau trên cơ sở ghỉ trị giá hàng hóa giao và
nhận. Đến cuối kỳ hạn, hai bên mới đối chiếu số s ách, so sánh giữa giá trị
hàng thực giao và thực nhận.

Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như

thế,

cịn số dư thì số tiền đó được giữ lại đẻ chỉ trả theo yêu cầu của bên chủ
nợ về những khoản chỉ tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ. Trong thực tế,


hợp đồng bù trừ thường được ký kết cho khoảng thời gian di
nhiều trường hợp có thê lên đến 5 đến 10 năm.

trong

- Hình thức chuyển nợ (switch trading). Đây là hình thức mà bên
nhận hàng chuyển khoản nợ về tiền hàng cho một bên thứ ba để bên thứ
ba này trả tiền. Hình thức này nhằm đảm bảo cho các công ty khi nhận
hàng đối lưu không phủ hợp có thé bán hàng đó đi.

- Hình thức giao dịch bồi hoàn (offset). Trong phương thức giao dịch

này, các bên đổi hàng hóa hoặc dich vụ lấy những dịch vụ và ân huệ (như
ân huệ trong đầu tư hoặc giúp đỡ bán sản phẩm),
b. Ưw điểm
Một

ố quốc gia đang phát triển khơng có khả năng tài chính, hoặc vì

lý do như đang bị cắm vận về mặt kinh tế hoặc nhận các lệnh trừng phạt
về thương mại nên khơng có điều kiện để nhập khẩu hàng hóa theo các

phương thức thơng thường Trong khi đó, doanh nghiệp và người dâ ở

các quốc gia này vẫn cần những nhu yêu phẩm để sinh hoạt hoặc cần
những yếu tố đầu vào cơ bản để phục vụ sản xuất các hàng hóa phục vụ

tiêu dùng vì thế họ lựa chọn phương thức mua bán đối lưu với các đối tác

đề đảm bảo vẫn nhập khẩu được những hàng hóa thiết yếu.
Phương thức thanh tốn này giúp giải quyết một số khó khăn tài

chính mà các doanh nghiệp xuất khẩu sang các nước đang phát triển
thường gặp phải, đó là tình trạng bị đọng vốn. Tình trạng đọng vốn có thẻ

diễn ra dưới một số hình thức như lợi nhuận của các cơng ty con khơng

được chun về nước, hay các khoản thanh tốn nhập khâu bị chậm hoặc

đọng lại do các biện pháp quản lý việc chỉ trả ngoại hồi ra nước ngoài

theo quy định của chính phủ bên nước nhập khẩu. Bằng cách sử dụng

giao địch đối lưu, các khoản nợ có thể được thanh toán bằng hàng xuất

khẩu ngược trở lạ từ nước người mua
e Nhược điền
Do đặc trưng của giao dịch theo phương thức mua bán đối lưu đó là
hoạt động xuất khẩu gắn liền với nhập khẩu nên không phải doanh

nghiệp nảo cũng có thể lựa chọn để thực hiện đưa hàng hóa dịch vụ ra
thị trường nước ngồi theo phương thức này bởi họ khơng có nhu cầu


hoặc khơng có chức năng nhập khẩu ngược trở lại những hàng hóa của

phía đối tác. Một hạn chế khác của phương thức mua bán đối lưu đó là

các bên có thể gặp khó khăn trong việc định giá thị trường cho cá loại
hàng hóa mà hai bên định trao đổi với nhau để đảm bảo sự cân bằng về
mặt lợi ích trong giao dịch, đặc biệt là với những mặt hàng mới hoặc ít
được giao dịch trên thị trường
4.2. Theo hình thức hợp đồng

Ở phương thức xuất khẩu, doanh nghiệp đưa sản phẩm của mình vốn
được sản xuất ở trong nước để tiêu thụ ở thị trường quốc tế. Nhiều doanh
nghiệp lựa chọn xuất khẩu để tiếp cận và xâm nhập thị trường nước ngoài

bởi đây là phương thức có tính hiệu quả cao và ít rủi ro. Tuy nhiên,

khơng phải lúc nào doanh nghiệp cũng có thể chỉ dựa vào nguồn hàng


trong nước đề phân phối và tiêu thụ ở thị trường nước ngoài. Thực tế,
trong nhiều trường hợp việc sản xuất hàng hóa ngay tại thị trường nước

ngồi mà doanh nghiệp đang nhắm tới có thể hiệu quả hơn so với sản
xuất trong nước rồi xuất khâu. Chắng hạn như khi chỉ phí sản xuất sản

phẩm ở trong nước cao hơn do chỉ phí nhân cơng lớn hay nguyên liệu

đầu vào phục vụ sản xuất khan hiếm trong khi ở thị trường nước ngoài
mục tiêu những yếu tố này lại dư thừa. Hoặc khi chỉ phí vận chuyên hàng

hóa quốc tế giữa các quốc gia quá cao khiến cho việc sản xuất hàng hóa ở

đã lựa chọn tiến hành
sản xuất sản phẩm ở nước ngoài và phân phối các sản phẩm ngay tại thị

trường đó. Để làm điều này, nhiều doanh nghiệp đã lựa chọn các hình

thức kinh doanh quốc tế theo dạng thông qua hợp đồng khi mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình ra thị trường quốc tế. Đây là cách

làm mà doanh nghiệp thay vì phải đầu tư lượng lớn vốn vào nhà xưởng,

máy móc thiết bị, hay xây dựng mạng lưới kinh doanh phân phối ở thị

trường nước ngồi, thì các doanh nghiệp này sẽ ký các hợp đồng hợp tác
với đối tác ở nước sở tại để cùng sản xuất và cung ứng các hàng hóa hay



sản phẩm ra thị trường. Thông thường doanh nghiệp sé chuyén giao tri

thức, kỹ năng, bí quyết kinh doanh và các nguồn lực cần thiết mà mình

có cho đối tác để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua

các dạng thức hợp đồng hợp tác này, doanh nghiệp có thể chia sẻ rủi ro

và chỉ phí, đồng thời có thể tận dụng được những lợi thế sẵn có như cơ sở
ha ting, máy móc thiết bị, hay sự am hiểu thị trường của phía đối tác

Các hình thức kinh doanh quốc tế thông qua hợp đồng bao gồm một số
dạng chính như sản xuất theo hợp đồng, hợp đồng cắp phép kinh doanh
quốc tế, hợp đồng nhượng quyền thương mại, hay hợp đồng chìa khóa
trao tay. Nội dung cụ thể của từng dạng thức được đẻ cập cu thé trong
phần dưới đây.

a. Khái niệm

Hợp đồng thuê ngoài hoạt động sản xuất là hình thức kinh doanh
mà theo đó một cơng ty trong nước sẽ tìm kiểm lựa chọn
ngồi phù hợp dé ký kết hợp đồng thuê đi
xuất các sản phẩm mang nhãn hiệu của mình va theo đúng quy cách,

phẩm chất cũng như mẫu thiết kế mà mình đưa ra. Về bản chất hình
thức kinh doanh này là một dạng cụ thể của hoạt động th ngồi
(outsourcing) nói chung khi doanh nghiệp chuyển một phần chức năng,

nhiệm vụ của cơng ty để th đơn vị bên ngồi thực hiện giúp những.
chức năng mà trước dây doanh nghiệp vẫn đảm nhiệm. Tuy nhiên trong.

trường hợp này, mục đích của bên th ngồi hoạt động sản xuất khơng.
chỉ là th đ tác ở nước ngồi chế tạo ra hàng hó: , sin phim ma con
là thông qua các hợp đồng sản xuất này để thâm nhập vào thị trường
nước ngoài mục tiêu. Một số công ty đa quốc gia lớn hiện nay đang
hoạt động theo chiến lược là tập trung tồn bộ năng lực của mình vào
hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới cùng với đó là xây

dựng mạng lưới phân phối và tiếp thị hiệu quả ở các thị trường quốc tế.
Trong khi đó, sản phẩm sẽ được công ty đa quốc gia này thuê các đối

tác chuyên sản xuất có nhà xưởng, máy móc thiết bị, và nhân công được
đặt ở nhiều quốc gia khác nhau.


Đối với hợp đồng thuê ngoài hoạt động sản xuất thường có sự tham

gia của hai chủ thể chính gồm bên th ngồi hoạt động sản xuất (có thể
gọi là công ty đặt sản xuất) và nhà sản xuất theo hợp đồng. Cụ t

- Công ty đặt sản xuất với mong muốn đưa sản phẩm của mình vào

một thị trường cụ thể sẽ tiến hành lựa chọn nhà sản xuất phù hợp đang
hoạt động ở thị trường đó. Tiếp đó công ty đặt sản xuất sẽ đưa ra những

yêu cầu cụ thể về chủng loại, kiểu dáng, đặc tính, chất lượng của sản
phẩm mà mình mong muốn cho nhà sản xuất. Các hoạt động quảng cáo,
tiếp thị và xây dựng kênh phân phối cho sản phẩm ở thị trường nước

ngoài vẫn do công ty đặt hàng đảm trách. Các doanh nghiệp thuộc một số
lĩnh vực như ngành hàng điện tử, quần áo, giảy dép, đồ chơi, dược phẩm.


thường hay áp dụng hình thức này.

- Nhà sản xuất theo hợp đồng ở thị trường nước ngoài là doanh

nghiệp chuyên đầu tư xây dựng nhà xưởng, máy móc trang thiết bị, và

thuê nhân lực để sản xuất một

số mặt sản phẩm nhất định. Khi khách

hàng có nhu cầu đặt sản xuất, căn cứ theo đơn đặt hàng mà đối tác đưa
cho các doanh nghiệp này sẽ tiến hành việc sản xuất các sản phẩm phù
hợp với thỏa thuận
Trong thực tế, phương thức này có thê phù hợp khi cơng ty tiến hành

mở rộng hoạt động kinh oanh sang những thị trường mà ở đó quy mơ thị
trường chưa đủ lớn để đảm bảo thiết lập một nhà máy sản xuất riêng và

nơi đó có hàng rào thuế nhập khẩu cao. Bên cạnh đó với những cơng ty

chưa có đủ nguồn lực để tự xây dựng một nhà máy sản xuất riêng ở thị

trường nước ngoài hoặc chưa muốn đầu tư nhiều vốn và các nguồn lực
khác vào mua sắm nhà xưởng ở nước ngồi thì đây cũng là một phương
thức phù hợp để tiền vào thị trường mới.
b, Ưu điểm
~ Hình thức kinh doanh quốc tế thơng qua hợp đồng th ngồi
động sản xuất có thể giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được vốn cũng
các nguồn lực cần thiết khác. Khi chuyển giao hoạt động sản xuất

vậy doanh nghiệp không phải đầu tư chỉ phí vào các tài sản có định

hoạt
như
như
như

máy móc, thiết bị, hay nhà xưởng để phục vụ cho việc sản xuất, cũng như
tiết kiệm được các chỉ phí liên quan đến nhân lực và đào tạo nguồn nhân



×