Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Ai da dat ten cho dong song final

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.81 KB, 20 trang )

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DỊNG SƠNG?
Hồng Phủ Ngọc Tường

“Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” ban đầu có tên là “Hương ơi, e phải mày chăng?” là bài bút
ký do nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ở Huế vào ngày 4 tháng 1 năm 1981, và được in trong
tập sách cùng tên vào năm 1986. Một phần bài bút ký này đã được đưa vào giảng dạy trong hệ
thống giáo dục ở Việt Nam (chương trình Ngữ văn lớp 12) và được đánh giá là một đoạn văn xi
súc tích và đầy chất thơ về sơng Hương.

I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937, tại thành phố Huế, nhưng quê gốc ở
làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông là một trong những gương
mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, và cũng là một cái tên tích cực tại các phong trào đấu
tranh chống Mỹ ngụy ở miền Nam (gia đoạn trước 1975). Ngay từ khi đi học, Hồng Phủ đã gắn bó
với văn chương và những giá trị văn hóa đẹp đẽ của dân tộc. Ông tốt nghiệp ban Việt Hán – Đại học
Sư phạm Sài Gòn và cả Đại học Văn khoa Huế, ngành triết học. Trước khi hoạt động văn nghệ
chống Mỹ, ông từng là giáo viên tại trường chuyên Quốc học Huế. Với từng ấy lí do, có lẽ người ta
khơng cịn thắc mắc về tính đa chiều và tài hoa trong văn chương của ông. Chứa đựng trong tác
phẩm thật nhiều những kiến thức chọn lọc về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí, … có lẽ Hồng Phủ
đã, đang và sẽ mãi luôn ghi được dấu ấn đạm nét trong lịng bạn đọc.
Hồng Phủ Ngọc Tường được người đời biết tới là nhà văn của những dòng sông. Bởi nếu
sông miệt mài chảy về biển lớn không ngơi nghỉ thì Hồng Phủ Ngọc Tường miệt mài sáng tác
khơng ngơi nghỉ để đóng góp cho đời những áng văn thơ hay. Các tác phẩm chính làm nên tên tuổi
của Hồng Phủ Ngọc Tường bao gồm: “Ngơi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu” (1971), “Rất nhiều ánh
lửa” (1979), “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” (1986), “Bản di chúc của cỏ lau” (1984), “Ngọn núi ảo
ảnh” (1999), …

Hoàng Phủ Ngọc Tường gây ấn tượng với độc giả bởi phong cách văn học độc đáo. Ông là
nhà văn chuyên viết về kí và là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất nước ta hiện nay”. Nét đặc
sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình,


giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học,
văn hóa, lịch sử, địa lý... Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài
hoa. Mặc dù quê gốc không phải ở Huế, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ra và lớn lên ở nơi
này, tất cá những quãng đường học tập, trưởng thành và hoạt động cách mạng của ông đều là ở Huế.
Có lẽ bởi vậy, cho nên hơn ai hết, tác giả đã gắn bố máu thịt với mảnh đất này. Cả tâm hồn ông
dành tặng cho Huế với những gì đẹp đẽ, thơ mộng và ý nghĩa nhất. Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho
dịng sơng” là một minh chứng tiêu biểu cho niềm yêu tha thiết của Hồng Phủ Ngọc Tường với
Huế và dịng sơng Hương lặng lờ, trữ tình.


2. Tác phẩm
a. Thể loại
Kí là thể loại đặc trưng của văn học dùng để ghi chép, tái hiện những sự việc, hồn cảnh
mang tính chân thật. Giá trị cơ bản của kí là đưa đến cho người đọc những hình ảnh sống động và cụ
thể nhất về đối tượng. Do hướng đến những phạm vi thông tin và nhận thức đa dạng, kí cũng rất
phong phú, bao gồm nhiều thể, nhiều tiểu loại như ký sự, phóng sự, bút kí, ... Khi phân tích tác
phẩm này, chúng ta cần đặc biệt quan tâm đến tiểu loại tùy bút. Tùy bút là một thể của ký đối lập
với phóng sự. Nếu phóng sự thiên về tự sự với điểm tựa là sự kiện, thì tùy bút nghiêng hẳn về trữ
tình với điểm tựa là cái tơi của tác giả. Hình thức thể loại này cho phép nhà văn phóng bút viết tùy
theo cảm hứng, tùy cảnh, tùy việc mà suy tưởng, nhận xét, đánh giá, trình bày v.v. Những chi tiết,
con người cụ thể trong tác phẩm chỉ là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh
giá.
b. Hồn cảnh sáng tác
Bài kí "Ai đã đặt tên cho dịng sơng?" in trong tập bút kí cùng tên. Tập sách gồm tám bài kí,
viết ngay sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, đang bừng bừng cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa anh
hùng cách mạng. Nhưng ở Hồng Phủ Ngọc Tường lịng u nước, tinh thần dân tộc thường gắn với
tình yêu thiên nhiên và truyền thống văn hóa sâu sắc.
Bài kí lấy cảm hứng mãnh liệt từ dịng sơng Hương thơ mộng của xứ Huế. Qua cái nhìn của một
người con yêu Huế đến tha thiết, sơng Hương đã được soi chiếu dưới nhiều góc độ như lịch sự, văn
hóa, địa lí, … Qua những suy tư và liên tưởng ấy, dịng sơng khơng chỉ trở thành một biểu tượng

đẹp đẽ của vùng đất cố đơ, mà tác giả cịn khẳng định chắc chắn hơn với người đọc vị trí quan trọng
mà trang nghiêm của nơi này trong những trang sử vẻ vang. Với cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng,
sông Hương của Huế và sông Hương của trang văn Hồng Phủ vẫn ln là một hình ảnh khơng thể
nào qn đối với bạn đọc.

c. Ý nghĩa nhan đề
Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã dẫn dắt người đọc đến với cội nguồn tên gọi của
dịng Hương thơ mộng. Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” đã lý giải tên dịng sơng bằng một
huyền thoại mỹ lệ của người dân làng Thành Chung. Lấy tên nhan đề cho bài bút ký dưới hình thức
của một câu hỏi nhằm mục đích dẫn dắt, gợi mở người đọc về nguồn gốc tên gọi của dịng sơng, nói
lên những khát vọng, niềm tự hào của con người khi muốn mang cái đẹp, tiếng thơm để gây dựng,
vun đắp cho văn hóa, lịch sử của xứ Huế. Cùng với đó, nhan đề “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”
cũng thể hiện được niềm biết ơn đối với những con người đã khai phá vùng đất này, bộc lộ niềm tự
hào về vẻ đẹp của đất nước.

II.

TÌM HIỂU CHI TIẾT

“Ai đã đặt tên cho dịng sông” đã thể hiện được vẻ đẹp của sông Hương từ cảnh sắc thiên nhiên
cho đến bề dày lịch sử, văn hóa và tâm hồn con người vùng đất cố đơ. Qua đó tác giả ca ngợi dịng
sơng Hương và bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng với xứ Huế. Nó gợi lên trong lịng người đọc tình
u q hương xứ sở và niềm khao khát khám phá những vùng đất mới lạ. Tác phẩm được viết dưới


dạng bút kí, thiên về thể loại tùy bút đã thể hiện những nét đặc sắc về nghệ thuật trong lối viết kí của
Hồng Phủ Ngọc Tường. Cách viết của ông tài hoa, phong phú bởi những liên tưởng ẩn dụ, so sánh,
nhân hóa bất ngờ và thú vị. Ơng đã dệt nên những trang văn đẹp bởi kho từ vựng phong phú, uyển
chuyển, giàu hình ảnh, kết hợp linh hoạt giữa kể và tả làm nổi bật vẻ đẹp của Hương giang, vẻ đẹp
riêng của xứ Huế.

Dòng Hương giang được nhìn nhận qua nhiều góc độ khác nhau mà ở đây nhà văn Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã kể ra ở nhiều góc độ như lịch sử, địa lý, văn hóa, văn chương. Đất nước Việt Nam với
sơng nước hữu tình, hoa trái quanh năm đã thêu dệt nên một áng văn tuyệt đẹp. Sông Hương, xứ
Huế là nguồn cảm hứng say mê bất tận với tâm hồn người nghệ sĩ. Không phải ngẫu nhiên mà ở
phần đầu của tác phẩm, Hồng Phủ Ngọc Tường đã viết: “Trong những dịng sơng đẹp ở các nước
mà tơi thường nghe nói đến, hình như chỉ có sơng Hương là thuộc về một thành phố duy nhất.”
Xứ Huế mộng mơ, nên thơ, nên hoạ từ lâu đã trở thành một điểm đến thân thuộc của những người
nghệ sĩ, những nhà thơ, nhà văn với bao niềm say đắm. Ta khơng khó để bắt gặp nét Huế trong các
khúc ca dao, dân ca; bắt gặp “Hương Giang nhất phiến nguyệt” trong thơ Nguyễn Du; hay gần hơn
là nơi thôn Vĩ với thi nhân họ Hàn; … Dù khác nhau về thời đại, về thể loại hay bút pháp nghệ thuật
nhưng tất cả đã cùng nhau tô điểm thêm cho sắc nước hương trời nơi Huế, làm nên một Huế rất thơ
và cũng rất tình. Và chắc chắn, khi nhắc đến những tác phẩm nghệ thuật viết về xứ Huế, ta không
thể không kể đến bài kí “Ai đã đặt tên cho dịng sơng” của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường – một
con người đã “trầm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước xứ Huế”.
Bằng việc miêu tả vẻ đẹp của dịng sơng Hương dưới phương diện địa lí, lịch sử và văn hố, Hồng
Phủ Ngọc Tường qua bài kí đã tỏ bày tình u nước tha thiết theo một cách rất riêng, đầy trữ tình,
mê đắm và tài hoa.

1. Sơng Hương dưới góc nhìn địa lí
a. Sơng Hương nơi thượng nguồn
Đoạn trích được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan về dịng sơng Hương:
“Trong những dịng sơng đẹp ở các nước mà tơi thường nghe nói đến, hình như chỉ sơng Hương là
thuộc về một thành phố duy nhất”. Nhận xét ấy mang đậm cái tôi cá nhân của tác giả. Thế nhưng
không vì thế mà câu văn mang đậm tính chủ quan. Vì sao à? Bởi trong khi thể hiện những cảm nhận
riêng của mình về dịng sơng Hương, tác giả đã khéo léo thể hiện tầm hiểu biết sâu rộng của mình
về các dịng sơng trên thê sgiowis. Để từ đó, tác giả khẳng định với người đọc nét đặc biệt của dịng
sơng này “chỉ sơng Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Và cũng chính bởi vì thế, con sông
lại càng trở nên đặc biệt hơn với đặc điểm ngọt ngào đó.
Nói đến sơng Hương, xứ Huế người ta thường nghĩ đến sự êm đềm, phẳng lặng của dịng sơng trong
cảnh thanh bình. Nhưng Hồng Phủ Ngọc Tường đã khơng dừng lại ở ngắm nhìn “khn mặt kinh

thành” của nó mà ngược dịng cảm xúc để trở về với thượng nguồn của nó để khai phá vẻ đẹp bí ẩn
của dịng sơng. Thủy trình của sơng Hương từ góc nhìn địa lí được nhà văn miêu tả qua các chặng
từ thượng nguồn về đến châu thổ rồi từ đó Sơng Hương vào với Thành phố Huế và chảy ra biển cả.
Giữa lịng Trường Sơn hùng vĩ, Sơng Hương hiện ra trong vẻ đẹp man dại đầy cá tính, mạnh mẽ
phóng khống nhưng vẫn giữ được nét dịu dàng đắm say. Nhà văn đã so sánh Sông Hương như một
“bản trường ca của rừng già” gợi ra một con sơng với chiều dài hùng vĩ và có dịng chảy mãnh liệt.


Rừng già là hình ảnh hoang sơ, bí ẩn và mênh mơng trong đó mang các sắc thái với nhiều tiết tấu
trầm bổng: “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như
cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm
dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh kết hợp với
tính từ gợi tả đã thể hiện rất rõ sức mạnh man dại mang vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ. Người đọc
từ đó có thể khám phá ra nét tính cách mới mẻ, độc đáo của sơng Hương mà khơng chỉ ngắm nhìn
bộ mặt kinh thành của nó. Trường Sơn đã hun đúc cho “cơ gái Digan” ấy một bản lĩnh gan góc lạ
thường, tính cách mạnh mẽ, tâm hồn trong sáng trẻ trung nhưng cũng rất hoang dại. Bên cạnh vẻ
đẹp hùng vĩ ấy, Hương giang dường như vẫn giữ được nét duyên dáng của dòng sơng khi Hồng
Phủ Ngọc Tường trở thành người họa sĩ phối màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng với màu xanh mênh
mang của rừng già, sông nước. Bằng cảm quan thẩm Mỹ tinh tế, tác giả đã có những liên tưởng bất
ngờ và thú vị khi biến sông Hương trở thành một sinh thể có hồn, có cá tính, có cuộc sống riêng với
dòng chảy hoang dại thu hút mọi ánh nhìn.
Người đọc thấy rõ được khao khát của Hồng Phủ Ngọc Tường khi đã ngược dịng khơng gian, tìm
về cội nguồn của rừng đại ngàn, khám phá những vẻ đẹp bí ẩn, những sức mạnh tiềm tàng được
đóng kín trong “phần tâm hồn sâu thẳm” của dịng sơng trước khi nó về tới Huế. Khi nhìn ngắm con
sơng lặng lờ, thanh bình chảy giữa Huế mộng mơ, hẳn rằng chẳng mấy ai có thể tưởng tượng được,
“nàng thơ” ấy đã có những dịng chảy đầy mãnh liệt giữa đại ngàn.

Đặt dịng sơng trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn xa xôi, nhà văn đã thể hiện những cảm
hứng khám phá, cắt nghĩa và lý giải trong cái nhìn sâu sắc về cội nguồn – và đó cũng là một cảm
hứng quen thuộc của tình yêu. Nếu như Xuân Quỳnh đã từng khao khát:

Trước mn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng khơng biết nữa
Khi nào ta u nhau
thì Hồng Phủ cũng mang một khao khát lí giải tương tự như thế. Chỉ có điều, nhà văn khơng chỉ
đặt cảm xúc, mà cịn đặt cái cái nhìn đa chiều và cả vốn kiến thức phong phú của mình vào hành
trình kiếm tìm và khám phá ấy.
Với trí tưởng tượng và niềm say mê, Hồng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dịng sơng Hương ở khúc
thượng lưu trong những vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính. Hình ảnh về “bản trường ca của rừng già”
khiến sông Hương hiện ra với cả chiều dài rộng hùng vĩ và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng
mộ và niềm say mê của nhà văn.


Âm vang của núi rừng không chỉ khiến nhà văn cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng đã hun đúc
cho dịng sơng những gì mạnh mẽ, man dại nhất, đồng những âm thanh vang động đó cịn được so
sánh mang cả ý tình, lí trí của con người. “Trường ca” là áng văn chương có dung lượng lớn thường
mang đậm cảm hứng ngợi ca, còn “rừng già” lại là hình ảnh của những cánh rừng đại ngàn hoang
sơ, bí ẩn, mênh mơng. Gọi dịng chảy của sơng Hương nơi thượng nguồn mang âm thanh như “bản
trường ca của rừng già”, hẳn rằng Hồng Phủ đã khơng chỉ thể hiện trong câu chữ đó một tình u
mến thiết tha. Nếu như Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà ở những vị trí cao, xa và cái nhìn tổng
qt như nhìn từ trên tàu bay xuống, hay “sông Đà tuôn dài, tn dài như áng tóc trữ tình” thì dường
như Hồng Phủ Ngọc Tường lại đứng lặng bên bờ sông, lắng nghe tiếng nước chảy vang vọng của
núi rừng, ngắm nhìn từng sắc đỏ của hoa đỗ quyên quyến rũ rủ bóng bên dịng sơng.
Qua cái nhìn cụ thể và tỉ mỉ, con sông khi chảy qua dãy Trường Sơn không chỉ mang tất cả những
sắc thái phong phú, đa dạng của rừng già khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua

những ghềnh thác”, “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, mà cịn có những khi “dịu
dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, …
Với cách miêu tả uyển chuyển, tài hoa qua những hình ảnh đối lập, nhà văn làm hiện lên hình ảnh
dịng sơng Hương nơi thượng nguồn với đồng thời cả sức mạnh và vẻ đẹp. Dịng sơng với những
lớp sóng hung hãn cuộn trào bởi sự tiếp sức của thác ghềnh sóng gió, những xốy hút dữ dội tiềm ẩn
nỗi kinh hồng của vực sâu, những miên man da diết của cỏ cây hoa lá nơi rừng đại ngàn; do đó
sơng Hương vừa tràn đầy sức mạnh hoang sơ, man dại, vừa khơi gợi những bí ẩn say mê, vừa ngời
sáng vẻ đẹp kiêu sa, rực rỡ. Không chỉ dừng lại ở đó, Hồng Phủ đã tiếp tục dùng phép nhân hóa để
biến dịng sơng thành một cơ gái mang trong mình “bản lĩnh gan dạ”, “tâm hồn tự do và trong
sáng”. Được tôi luyện bởi đại ngàn, sông Hương như cô gái yêu tự do, mạnh mẽ và cũng vô cùng
quyến rũ đắm say.

Với sắc thái nhân hóa đậm nét, nhà văn đã lý giải được những tính cách đối lập của dịng sơng
Hương nơi thượng nguồn và khi chảy về thành phố. Điều ấy khẳng định rằng, nhà văn không chỉ
mang đến cho người đọc khao khát tìm kiếm, phá phá của mình, mà đồng thời cịn chỉ rõ kết quả
của quá trình khám phá ấy, bằng những đặc điểm đầy mới mẻ và say mê về sông Hương. Đặt những
kiến thức phong phú và tình yêu mến của mình vào việc miêu tả, giới thiệu dịng sơng, Hồng Phủ
đã ghi vào lòng bạn đọc thật nhiều những điều mới mẻ và ý nghĩa. Trong cảm nhận của nhà văn,
sông Hương khi về tới Huế đã hoàn toàn trở thành người mẹ phù sa của “một vùng văn hóa xứ sở”–
những thét gào man dại, những phóng túng tự do nay đằm lắng trong sự bồi đắp dịu dàng, thương
mến của đồng bằng châu thổ. Những hình ảnh phong phú, ấn tượng, những liên tưởng tài hoa và thủ
pháp nhân hóa đặc sắc đã làm hiện lên dịng sơng Hương khúc thượng nguồn với vẻ đẹp của một
sức sống mãnh liệt đầy cá tính, qua đó cho thấy cách cảm nhận suy tư có bề sâu trí tuệ của nhà văn.

b. Sông Hương ở ngoại vi thành phố
Khi ra khỏi rừng, sơng Hương nhanh chóng mang vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ. “Với cuộc hành
trình gian trn mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dịng sơng
hình như khơng muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá



dưới chân núi Kim Phụng”. Sông Hương giờ đây đã mang vẻ đẹp kinh thành mà người ta vẫn
thường thấy để phù hợp với xứ Huế. Từ cô gái Digan man dại, phóng khống nhà văn đã nâng tầm
cho sơng Hương trở thành người mẹ của vùng văn hóa xứ sở đất đế đơ. Một người mẹ từng trải, trí
tuệ, dịu dàng. Cái dịu dàng mà người ta thường mong sau những thác ghềnh, trí tuệ ở những con
người từng trải, bản lĩnh.

Qua những hình ảnh so sánh, liên tưởng, Hồng Phủ Ngọc Tường đã tái hiện thành cơng vẻ đẹp
của sơng Hương ở khúc thượng nguồn, đó là những phát hiện độc đáo và đầy bất ngờ của tác giả.
Bút kí cuốn hút người đọc ở sự việc lạ, tri thức mới và cách viết hay. Thường người ta chỉ nghĩ đến
sông Hương với vẻ đẹp dịu dàng, êm đềm nhưng có mấy ai biết rằng “Sơng Hương đã sống một nửa
cuộc đời mình trong dãy Trường Sơn hùng vĩ”. Rồi nhiều thế kỉ qua đi, sông Hương như một người
con gái đẹp nằm ngủ mơ màng ở cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại và đợi chờ người tình trong
mộng của mình là xứ Huế đến để đánh thức.

Trước khi trở thành người tình chung thủy của cố đơ, Sơng hương đã trải qua một cuộc hành
trình đầy thử thách trong cái nhìn tinh tế, lãng mạn của nhà văn. Khi được Huế đánh thức, sông
Hương bắt đầu cuộc hành trình của mình, đó là một cuộc tìm kiếm có ý thức. Nó chuyển dịng đột
ngột theo hướng Nam Bắc rồi sang Tây Bắc, vòng giữa những khúc quanh đột ngột và uốn mình
theo những đường cong thật mềm để vẽ một cánh cung thật trịn rồi ơm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi
dần về Huế. Ta bắt gặp ở đây hàng loạt những động từ gợi cảm cùng với nghệ thuật kể kết hợp tả đã
thể hiện vẻ đẹp duyên dáng của sông Hương khi về Châu Thổ.

Khơng cịn những cuộn xốy trào bọt trắng xóa, sơng Hương khi chảy về xi càng lúc càng trữ
tình và trĩu nặng tâm tư, cảm xúc với Huế. Nói đến Huế cịn phải nói đến những lăng tẩm - dường
như đây là điều không thể tách rời. Nét trầm mặc của lăng tẩm, đề đài nơi đây đã mang đến cho con
sơng một sắc điệu hồn tồn khác.

Tác giả nói đến một đoạn sông Hương trôi chảy giữa quần sơn lơ xơ, nơi đấy chỉ có những rừng
thơng u tịch, như cảm nhận được niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm, bao nhiêu lăng của vua
chúa khiến cho một đoạn sơng Hương như chìm trong núi phủ mây phong cùng với bóng tùng – như

một dịng sơng bước ra từ cổ thi:

Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên

Ở ngoại vi của Thành phố Huế, sơng Hương thay đổi tính cách của mình, nó uốn mình thành
những đường cong mà người ta thường thấy “dịng sơng mềm như tấm lụa”, có khi lại trầm mặc, có
lúc lại xơn xao rạo rực. Phải là một con người gắn bó đến mức máu thịt và am tường sâu sắc, có


năng lực khám phá cái đẹp của sơng Hương thì mới có được những câu văn độc đáo và cách so
sánh, ví von đầy trữ tình như thế. Sơng Hương chảy qua những thành trì lăng tẩm của vua chúa thời
trước được phong kín trong lịng những rừng thơng u tịch, sông Hương giờ đây mang một vẻ kiêu
hãnh, trầm mặc, vẻ đẹp sang trọng và đầy bí ẩn và chứa đựng vẻ kiêu hãnh của một vùng thượng
lưu.

Với vốn kiến thức phong phú về địa lí, tác giả đã mang đến cho tác phẩm một sự so sánh diệu kì.
Sơng Hương giữa lịng thành phố Huế có gì đó gợi nhắc đến sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của
Bu-đa-pét, ... nhưng những dịng sơng ấy vừa giống lại vừa khác với Hương giang. Chúng đều
giống nhau khi chảy giữa kinh thành của một đất nước, thế nhưng riêng dòng Hương lại đem đến
những sắc thái riêng biệt.

Sông Hương không chỉ là dịng sơng chỉ thuộc về một thành phố, mà cịn là dịng sơng nối liền
q khứ với hiện tại. Sự cần kề của những xóm thuyền, những ánh lửa thuyền chài với phố thị đông
vui bên bờ đã tạo nên một nét đan cài giữa hiện đại và truyền thống. Thêm nữa, nét êm đềm, lặng lờ
của dòng sơng chính là điều khiến cho diện mạo của thành phố như thơ mộng hơn, in một dấu đậm
nét hơn trong lịng người đọc:
Hương Giang ơi, dịng sơng êm
Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình
(Tố Hữu)


Dịng sơng đã vượt qua bao gian truân, trắc trở cuối cùng cũng như một người đi xa tìm đúng lối
về, nó náo nức bồi hồi giữa q hương, xứ sở, khơng cịn vẻ băn khoăn, trầm mặc hay kiếm tìm điều
gì nữa. Giáp mặt thành phố ở Cồn Dã Viên, nó uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến làm cho
“dịng sơng mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” khơng nói ra của tình yêu.” So sánh là một thủ pháp
nổi trội của Hồng Phủ Ngọc Tường nhưng ơng ln biết làm mới nó bằng cách ví von với tiếng
“vâng” của người con gái trong tình u cịn bao e lệ, e ấp, đó là nét kín đáo, dịu dàng trong giọng
nói Huế ngọt ngào, thân thương. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có những phát hiện mới mẻ từ những
gì đặc trưng nhất của Sơng Hương trong lịng xứ Huế.

Cách diễn đạt hết sức gợi cảm, tinh tế khi nhìn từ phía xa, cầu Tràng Tiền in bóng xuống dịng
sơng mà ngỡ như một “vành trăng non”. Tác giả vừa vẽ lên dáng mềm mại, cong cong, thanh mảnh
của cây cầu, vừa hịa sắc lấp lánh của dịng sơng trong khơng gian thơ mộng, êm đềm. Cây cầu như
một tín hiệu mà nhìn từ xa như đang vẫy gọi sơng Hương hịa làm một cùng Huế. Sông Hương là
người con gái đang u gặp được người tình trong mộng của mình, đó là một cuộc hội ngộ của tình
yêu. Huế là một đô thị cổ trải dọc hai bờ sông để che chở và gắn bó cho “người con gái của mình”,
cịn sông Hương được chia ra làm nhiều nhánh, tỏa nước ra khắp các ngõ ngách trong thành phố
như ôm trọn lấy tình yêu của đời mình.


Mỗi tác giả có những cảm nhận khác nhau về dịng sơng này. Nếu như qua thơ Hàn, dịng
Hương giang mang những nét buồn man mác của một kẻ si tình, u đơn phương trong ngóng về
chốn cũ:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay
(Hàn Mặc Tử)
thì Hồng Phủ Ngọc Tường – con người gắn bó cả cuộc đời với mảnh đất cố đơ lại dường như có
được cái nhìn êm đềm hơn, những bớt bơ vơ, buồn tủi hơn so với Hàn Mặc tử. Chính vì thế, dù ở
thủy trình nào, tác giả cũng mang đến cho dịng sơng những sức sống, nhưng ân tình khơng thể kiếm
tìm thấy ở bất kì một tác phẩm nào khác.


c. Sơng Hương khi chảy trong lịng thành phố
Em nằm xanh nhé, sông Hương
Ta nghiêng núi Ngự ngồi thương... dịu dàng
Khoả vào trong vắt mênh mang
Có soi kịp nếp cũ càng tháng năm

Khói sương dâu bể toan cầm
Lại e vương nỗi thăng trầm ngón tay
Chẳng hồ tan được rủi may
Huế cho khơng cả ly đầy... bóng vua

Vàng son rồi cũng gió lùa
Sắc rêu thiền định ngày xưa nhói buồn
Cung tần mỹ nữ nằm suông
Hương giang như thể chiếc gương gố chồng

Thơi thì cũng một đời sơng
Thời gian phế đổ tơ hồng đến leo
Trời ơi áo mão vương triều
Lẫn trong hạt bụi gieo neo mắt người!
(Trương Nam Hương)


Nếu như hình ảnh sơng Hương ở ngoại vi thành phố Huế mang vẻ đẹp kì diệu của quần thể thiên
nhiên thơ mộng nơi cố đơ thì khi chảy trong lịng thành phố, nó lại mang đến cho người đọc những
cảm giác thật khác biệt. Dưới cái nhìn của hội họa, dịng sơng hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng. Tác giả
sử dụng hàng loạt những so sánh, liên tưởng mang đậm chất trữ tình kiến con sơng Hương hiện lên
đầy thủy chung và tình tứ. Giữa thành phố, nó hệt như một bức tranh lụa huyền ảo với những đường
nét uốn lượn mềm mại và duyên dáng. Con sông khi nằm trong Huế, vận tốc của dòng nước như

giảm hẳn, “cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh”. Tác giả gọi đó là “một điệu slow tình cảm dành riêng
cho Huế”. Chất trữ tình được đặt rất rõ nét ở chi tiết này, làm nổi bật với người đọc sự tha thiết, đắm
say như một bản nhạc êm đềm của dịng nước. Trên trang văn của Hồng Phủ, Hương giang đã đẹp,
đã mộng mơ nay lại càng say đắm đến thế. Càng yêu quý điệu nhảy lặng lờ của dịng sơng, tác giả
càng muốn so sánh nó với những dịng sơng lớn nổi tiếng trên Thế giới như Sông Xen của Paris,
Sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Le-nin-grat… chảy băng băng như một chuyến tàu
tốc hành. Không phải là ngẫu nhiên mà nhà văn lại so sánh con sơng Hương với những dịng sơng
ấy. “Sơng nê-va cuốn trơi những đám băng lơ xơ”, nó “chảy nhanh q”, “khơng kịp cho lũ hải âu
nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trơng theo”.

Cịn Hương giang thì sao? “Sơng Hương nằm ngay giữa lịng thành phố yêu quý của mình, Huế
trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông”. Những nhánh sông đào
mang nước sông Hương tỏa đi khắp nơi. “Những cây đa, cây dừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống
những xóm thuyền xúm xít”. Và đặc biệt, điều khiến tác giả mê đắm nhất, có lẽ là dòng chảy “chậm,
thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Có lẽ trước những tĩnh lặng si tình đó, con người
ta mới muốn nán lại bên con sơng một chút, ngắm nhìn một chút, yêu thương thêm một chút. Và
bản thân tác giả, con người gắn bó cả cuộc đời với Huế và những dịng sơng, thì dáng điệu này của
sơng Hương là một trong những điều ơng u mến nhất.

Khi miêu tả dịng chảy của con sơng, nhà văn cịn đưa vào đó chi tiết phong tục, lễ hội và biến
chúng thành hình tượng nghệ thuật. Để miêu tả dịng sơng, ơng mượn lại tư tưởng của nhà triết gia
người Hy Lạp Hê-ra-clit: “khơng ai tắm hai lần trên một dịng sơng” để tơ đậm vẻ đẹp lặng lờ của
nó mà có lần ta bắt gặp trong dịng sơng của nhà thơ Thu Bồn:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lịng nên Huế rất sâu”

Sơng Hương đã đến lúc phải rời xa Huế để đổ ra biển nhưng nó bỗng “ngập ngừng như muốn
đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”. Rời khỏi kinh thành,
con Sơng chếch về hướng chính Bắc, ơm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng sương khói, lưu

luyến ra đi trên màu xanh mướt của thôn vườn Vĩ Dạ. Sơng Hương đột ngột chuyển dịng để gặp lại
thành phố như muốn nói lời thề trước khi về với biển cả. Cảnh chia tay rất lạ và tự nhiên nhưng rất
giống với con người: Có cử chỉ bịn rịn, có tâm trạng lưu luyến, có địa điểm chia tay, có lời thề tiễn
biệt nhắn nhủ.


Lối liên tưởng của tác giả hết sức độc đáo và được nhân hóa lãng mạn, nhà văn cho rằng đó
là nỗi vương vấn và một chút lẳng lơ kín đáo của tình u. Nó cứ chùng chình như muốn nói lời thề
với Huế, lời thể thủy chung, son sắc. Sông Hương ra đi trong cảm xúc bịn rịn, như một người tình
chung thủy, như nàng Kiều trong đêm Tự tình trở về tìm Kim Trọng nói lời thề: “Cịn non, cịn
nước, cịn dài.” Vẻ đẹp ấy chính là vè đẹp thủy chung, đằm thắm của sông Hương. Ở đây ta nhận ra
ba thái độ chí tình: Chí tình của sơng Hương với Huế, chí tình của người Huế trong tình u và cuối
cùng là tình u của Hồng Phủ Ngọc Tường với sông Hương, xứ Huế. Nếu như tách sơng Hương
ra khỏi xứ Huế, nó chỉ là một dịng chảy vơ thức chảy trơi giữa đơi bờ.

Hồng Phủ Ngọc Tường đã thổi hồn vào sơng Hương, gắn nó với cánh sắc Huế, con người
Huế để rồi sông Hương mang một cá tính riêng, phong phú và độc nhất: Có lúc như cơ gái Digan
phóng khống đầy man dại, có lúc lại như người mẹ của vùng văn hóa xứ sở, hay lại là người thiếu
nữ với vẻ đẹp nhẹ nhàng, trầm lắng sâu sắc và kín đáo. Lẳng lơ nhưng rất mực chung tình, khéo
trang sức nhưng lại khơng phơ trương.

2. Sơng Hương trong dịng chảy lịch sử
Sơng Hương
Con sông của những người ra đi và trở lại
Đưa anh qua những ngày bình an như bàn tay mẹ
Khơng nỗi đau đớn nào sông không rửa sạch với từng giọt nước ngời sáng
Không một cơn khát nào không được san sẻ bằng vị ngọt thần thánh
Người có đủ nước cho những cánh đồng, đủ tôm cá cho phiên chợ sớm Diên
Trường, đủ nước mặn cho những ao tơm ngồi cửa Thuận
Người đủ phù sa để làm nên một châu thổ khơng có trên bản đồ

Nhưng mãi mãi phì nhiêu trong tâm hồn người xa xứ
Người là bùn, là mây, là bến, là hành trình của nước khơng dừng lại
một ngày
(Nguyễn Khoa Điềm)
Dưới lăng kính sử thi, Hồng Phủ Ngọc Tường đã không quên tô đậm niềm vinh quang mà sông
Hương có được trong lịch sử lâu dài của dân tộc. Đó là dịng sơng của những chiến cơng hiển hách,
của sử thi được viết dưới màu cỏ lá xanh biếc. Nó là bản trường ca ghi dấu những kỉ niệm quang
vinh, là chứng nhân lịch sử phải chịu nhiều những mất mát, hy sinh cùng với các thế hệ nhân dân
Huế. Từ hồi vua Hùng dựng nước cho đến khi Nguyễn Trãi viết “Dư địa chí”, dịng sơng mang tên
Linh Giang - Viễn Châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ Đại Việt.


Đi qua thế kỉ trung đại, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân gắn với tên tuổi của người anh
hùng áo vải Nguyễn Huệ. Nó bầm da tím máu, sống hết lịch sử đau thương, bi tráng của thế kỉ 19
với máu của những cuộc khởi nghĩa. Sông Hương đi vào thời đại Cách Mạng tháng 8 với chiến
công rung chuyển như tiếng trống của cuộc khởi nghĩa Mậu Thân 1968. Nó oằn mình lên để hứng
chịu những trận bom dội của khơng qn Hoa Kì tàn phá những di sản của cố đô. Suy cho cùng,
sông Hương là dịng sơng của thời gian ngân vang, là biểu tượng của bề dày văn hóa Huế, là tình
u bất tận của Hoàng Phủ Ngọc Tường- Một nhà văn đã có hơn 40 năm gắn bó với nơi đây.

“Các trung tâm lớn của chúng ta về lịch sử, văn hóa, học thuật và về chính quyền rất nhiều. Phải
hiểu rằng Huế là một thành phố kết hợp tất cả những cái đó, giống như các thành phố Ln Đơn, Pari và Béc-lin, … Một trong số những di sản đó đã bị phá hủy lúc Nội thành Huế bị ném bom. Không
thể so sánh sự mất mát này với sự mất mát của một viện bảo tàng hay một thư viện ở Mĩ”. Sự phá
hủy những di sản này cũng có tính chất giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh châu Âu
khi một số công trình của nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhờ thờ bị phá
hoại”.

Với những dịng ấy, Hồng Phủ khơng chỉ mang đến cho chúng ta sự ngậm ngùi tiếc nuối trước
những giá trị văn hóa đã bị phá hủy, khi Huế oằn mình chống lại những tàn phá của chiến tranh, mà
kèm theo đó, cũng khơng thiếu những dư âm của sự tự hào. So sánh Huế với Pa-ri hay Luân Đôn,

hẳn rằng trong lòng tác giả đang trào dâng một nỗi vui mãnh liệt và tha thiết khẳng định vị thế, tầm
quan trọng của thành phố cố đô này. Trong cái nhìn đa diện và nhiều chiều của Hồng Phủ Ngọc
Tường, sơng Hương hiện lên với vẻ đẹp có sức hấp dẫn mê hồn bởi nó gắn liền với phong tục tập
quán ở xứ Huế. Nhà văn dường như thấm thía rằng, tất cả mọi thứ rồi cũng sẽ bị lãng quên, chỉ có
văn hóa là tồn tại mãi mãi. Nhà văn đã từng tâm sự “Sơng Hương là nỗi hồi vọng về một cái đẹp
nào đó chưa đạt tới” ý chính bởi điều đó ơng khao khát khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn của sơng Hương
bằng cả tâm hồn mình.

Từ góc nhìn văn hóa, nhà văn đã gắn sơng Hương với âm nhạc cổ điển Huế. Từ trong khoảnh
khắc trùng lại của sơng nước, nhà văn liên tưởng đến hình ảnh người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya
để thấy được đây là nơi sinh thành ra nền âm nhạc kinh thành Huế, là cái nôi của nền âm nhạc
truyền thống. Đây là so sánh rất lạ và độc đáo nhưng vơ cùng chính xác, nó thể hiện cái nhìn đồng
nhất hóa, nâng sơng Hương lên trở thành cái đích thực của tâm hồn. Lắng nghe âm thanh của dịng
sơng mà thấy được những thổn thức của cha ơng, đó là đại thi hào Nguyễn Du: “Bao năm lênh đênh
trên quãng sông này với một phiến trăng sầu và từ đó là những bản đàn đi suốt cuộc đời Kiều”.

Khơng phải ngẫu nhiên trong bài kí mà tác giả nhiều lần nhắc đến Truyện Kiều khi nói đến sơng
Hương. Đối với người Việt Nam, Truyện kiều là một kiệt tác đại thành của dân tộc, và trong truyện
Kiều luôn soi bóng hình ảnh của dịng sơng Hương. Nhà văn Hồng Phủ Ngọc Tường đã cảm nhận
dịng sơng âm nhạc ở nhiều không gian, thời gian và địa điểm bằng sự quan sát và vốn kiến thức
uyên bác. Ông đã làm sống dậy mảnh đất của nhã nhạc cung đình Huế từ giai điệu âm vang của
Hương giang, tới những bản nhạc nổi tiếng như “Tứ đại cảnh”:


“Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”

Hồng Phủ Ngọc Tường cũng đã khơng qn khắc họa một Hương giang với sức mạnh trong thi
ca kì diệu. Ta dễ dàng nhận thấy sơng Hương khơng tự lặp lại mình trong cảm hứng của những
người nghệ sĩ vì nó là nguồn cảm hứng bất tận để bao thế hệ lãng tử chìm mình vào sơng Hương.

Trong đôi mắt của Tản Đà, sông Hương xanh biếc chuyển thành “dịng sơng trắng, lá cây xanh”. Là
dịng sơng Trăng của Hàn Mặc Tử, và từ một Linh giang đang mơ màng với bóng hồng hơn bảng
lảng trong nỗi quan hồi vạn cổ của Bà Huyện Thanh Quan. Dịng sơng còn trở thành “thanh kiếm
dựng trời xanh” trong những lời thơ hào hùng của Cao Bá Quát. Rồi nó trở thành sức mạnh phục
sinh trong tầm hồn của những người con gái trong thơ ca của Tố Hữu. Ta nhận thấy sơng Hương
được thể hiện qua nhiều góc độ khác nhau mang vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ nhờ cách viết tài hoa và
đầy mê đắm của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

3. Sơng Hương nhìn từ góc độ văn hóa
a. Nền âm nhạc cổ điển xứ Huế trên dịng sơng Hương
Trong cái nhìn đa diện và nhiều chiều của Hồng Phủ Ngọc Tường, sơng Hương hiện lên với
vẻ đẹp có sức hấp dẫn mê hồn bởi nó gắn liền với phong tục tập quán ở xứ Huế. Nhà văn dường như
thấm thía rằng, tất cả mọi thứ rồi cũng sẽ bị lãng quên, chỉ có văn hóa là tồn tại mãi mãi. Ơng cũng
từng tâm sự “Sơng Hương là nỗi hồi vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới”. Ý thức được điều
đó cây bút Hồng Phủ ln khao khát khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn của sông Hương bằng cả tâm hồn
mình. Từ góc nhìn văn hóa, nhà văn đã gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế. Sông Hương là
cái nôi sinh thành nền âm nhạc kinh thành và không gian phát triển, tồn tại của nền âm nhạc truyền
thống suốt mấy thế kỉ qua.

Từ trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước, nhà văn liên tưởng sơng Hương đến hình ảnh
“người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Đây là so sánh rất lạ và độc đáo nhưng vơ cùng chính xác,
nó thể hiện cái nhìn đồng nhất hóa, nâng sơng Hương lên trở thành cái đích thực của tâm hồn. Ai đã
từng đến Huế và có dịp ngồi thuyền lênh đênh trên sơng Hương thưởng thức nhã nhạc cung đình
Huế mới thấy hết được vẻ đẹp của nền âm nhạc nơi đây và đặc biệt cảm nhận hết cái vẻ đẹp của
Hương giang từ góc độ này. Lúc ấy độc giả mới có thể biết được nỗi niềm xao xuyến khi lắng nghe
“tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya” – tiếng nước rơi trầm đục theo cách cảm âm
nhạc.

Khi miêu tả vẻ đẹp của dịng sơng âm nhạc, Hồng Phủ còn tinh tế, khéo léo dẫn dắt người
đọc tới câu chuyện về “một người nghệ nhân già chơi đàn hết nửa thế kỉ, một buổi tối ngồi nghe con

gái đọc Kiều”, đọc tới mấy câu thơ: “Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa


vời”, người nghệ nhân bỗng thốt lên: “Đó chính là tứ đại cảnh!”. Để có được “Tứ đại cảnh” ấy thì
trước đó đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã có những trải nghiệm đầy cảm xúc.

Nhà thơ đã “bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu và từ đó là
những bản đàn đi suốt cuộc đời Kiều”. Khơng phải ngẫu nhiên trong bài kí mà tác giả nhiều lần
nhắc đến “Truyện Kiều” khi nói đến sông Hương. Đối với người Việt Nam, “Truyện Kiều” là một
kiệt tác đại thành của dân tộc, và trong “Truyện Kiều” ln soi bóng hình ảnh của dịng sơng
Hương. Nhà văn Hồng Phủ Ngọc Tường đã cảm nhận dịng sông âm nhạc ở nhiều không gian, thời
gian và địa điểm bằng sự quan sát và vốn kiến thức uyên bác. Ông đã làm sống dậy mảnh đất của
nhã nhạc cung đình Huế từ giai điệu âm vang của Hương giang.

Nét buồn, nét mộng của sông Hương cũng là nguồn cảm hứng vơ tận cho bao bản tình ca êm
đềm, xao xuyến lòng người. Và để viết ra những câu văn đắm say như vậy, Hoàng Phủ Ngọc Tường
chắc đã từng nghe vọng mấy câu hò Huế:

“Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trơng
Thuyền ai thấp thống trên sơng
Đưa câu mái đẩy chạnh lịng nước non.”

b. Sơng Hương – dịng sơng của thi ca
Hồng Phủ Ngọc Tường cũng đã không quên khắc họa một Hương giang với sức mạnh trong
thi ca kì diệu. Đã có biết bao “cố nhân” đến và trầm mình với sắc nước của Hương giang để rồi tuôn
trào những vần thơ thật đẹp. Hương giang chính là nguồn cảm hứng bất tận của bao thi sĩ nhưng
mỗi nhà cầm bút lại tìm cho mình một cảm hứng riêng, độc đáo và mới mẻ. Hoàng Phủ với vốn văn
chương uyên bác cùng cái nhìn tinh tế và tư duy sâu sắc đã phát hiện ra Hương giang là dịng thi ca

“khơng bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”.

Vẻ đẹp phong phú và đa dạng của cô gái sông Hương trong thơ ca có phải chăng xuất phát từ
quy luật sáng tạo văn chương của người nghệ sĩ, như Marcel Proust từng nói: “Thế giới được tạo lập
khơng phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo
lập”. Dù trong cùng một đề tài, đi tới cùng một mảnh đất hay đắm mình cùng một dịng sơng, mỗi
người nghệ sĩ đều có một nhãn quan mới. “Đơi mắt mới” chính là điều khơng thể thiếu ở một người
làm văn chương chân chính. Mặt khác qua những tìm hiểu về Hương giang dưới góc nhìn địa lí ở
phần đầu, ta cũng nhận thấy đầy là dịng sơng với vẻ đẹp đầy biến ảo.


Sông Hương ở vùng thượng nguồn, ở ngoại vi thành phố hay trong lịng thành phố lại mang
dáng vẻ, tính cách riêng. Nếu nhìn sơng Hương như một người con gái thì cơ gái ấy cũng phức tạp
đến lạ kì. Có khi cơ là cơ gái Di – gan “phóng khống”, có khi cơ là “người gái đẹp nằm ngủ mơ
màng giữa cánh đồng châu Hóa đầy hoa dại”, có khi cô trở thành “người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya”. Cô cũng yểu điệu trong màu áo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Và ở những khoảng thời
gian khác nhau của lịch sử, người con gái ấy lại mang trong mình những vai trị khác nhau. Vì lẽ đó
Hương giang bước vào văn chương với những bộ mặt rất khác nhau.

Trong đôi mắt của Tản Đà, sông Hương mang sắc màu biến ảo, từ tấm áo xanh biếc Hương
giang đột ngột chuyển thành áo trắng
“Dịng sơng trắng lá cây xanh
Xuân giang xuân thụ cho mình nhớ ai”
Dưới cái nhìn của Cao Bá Qt sơng Hương lại có vẻ đẹp thật hùng tráng:
“Muôn dãy non xanh ngát cánh đồng
Sông dài như kiếm dựng trời xanh”

Có khi Hương giang bảng lảng với “nỗi quan hoài vọng cổ” trong thơ Bà huyện Thanh Quan.
Và có lúc sơng Hương mang trong mình “sức mạnh phục sinh tâm hồn” trong lời thơ Tố Hữu.
Những lúc ấy, tác giả “Từ ấy” thấy sông Hương rất Kiều, đến độ say đắm lịng người:

“Cơ gái thẫn thờ vê áo mỏng,
Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai
Ven bờ sơng phẳng con đị mộng
Lả lướt đi về trong gió mai... “

Vẻ đẹp của Hương giang thật thơ, thật mê đắm. “Sơng Hương hóa rượu ta đến uống”. Và với
mỗi thi sĩ, có hơi men nào ngây ngất như Hương giang. Sơng Hương cứ lặng lờ và tình tự như thế đi
vào những tác phẩm nghệ thuật, đi vào lòng người. Đọc tác phẩm xong, chắc hẵn những ai chưa
từng một lần đến với Huế mộng mơ thì hình ảnh dịng Hương giang vẫn sẽ in đậm trong tâm trí.

Bằng ngịi bút đầy tinh tế và một tình u Huế dạt dào, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã để lại một
ấn tượng đậm nét trong lịng người đọc về dịng sơng Hương, về Huế. Đất nước ta vẫn ln có
những cảnh đẹp, danh lam thắng cảnh nổi tiếng làm thổn thức biết bao trái tim. Chúng ta hãy cùng
nhau gìn giữ và tự hào về cảnh sắc thiên nhiên của đất nước mình, hãy tự hào là người con đất Việt!
4. Cái tơi nghệ sĩ tài hoa Hồng Phủ Ngọc Tường qua “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”
Đặc điểm của thể loại tùy bút là cho phép nhà văn phóng bút viết tùy theo cảm hứng, tùy
cảnh, tùy việc mà suy tưởng, nhận xét, đánh giá, trình bày. Thế nhưng, không phải tác giả nào cùng


thành cơng được ở thể loại này. Với Hồng Phủ Ngọc Tường, có lẽ lí do để ơng khẳng định được
tên tuổi của mình với tùy bút, có lẽ chính là nhờ cái tơi nghệ sĩ tài hoa của chính ông.

Để thể hiện được vẻ đẹp của sông Hương, Hoàng Phủ đã quan sát dịng sơng từ rất nhiều
điểm nhìn khác nhau: khi thì theo thủy trình, khi thì bằng cái nhìn của văn hóa hay là lịch sử, có lúc
lại là cái nhìn đầy cảm xúc của người con đã gắn bố và nhiều mến thương với mảnh đất cố đơ. Qua
đó, người đọc thấy được con mắt của một người nghệ sĩ tài hoa, tạo nên những nét vè liên hoàn,
tươi tắn và đầy thân thương về con sông cũng như cả thành phố.
Một cái tôi mê đắm và tài hoa
Khơng có một cái tơi mê đắm và tài hoa, có lẽ rằng hồng Phủ đã chẳng thể nào viết nên
được “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” Ấn tượng đầu tiên về cái tơi trữ tình của tác giả có lẽ là ở sự

mê đắm và tài hoa khi viết về con sông Hương của xứ Huế. Với cách quan sát dịng sơng từ nhiều
điểm nhìn khác nhau: khi thì theo hành trình mà nó di duyển (điểm nhìn từ ngọn nguồn xi ra
biển”, khi thì đứng từ trên cao, từ đồi Tam Thai, Vọng Cảnh, ngắm nhìn dịng sơng phản quang ánh
sáng bầu trời “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; khi lại đặt mình vào lịng sông, tự làm một tấm
gương soi chiếu những cảnh vật mà nó đi qua: những lăng tẩm đồ sộ, uy nghiêm ẩn mình trong
những rừng thơng u tịch:
Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên
Trong bút kí Ai đã đặt tên cho dịng sơng? nhà văn đã dành nhiều tâm trí, tình cảm, tài năng
của mình để say sưa khám phá và miêu tả vẻ đẹp của Hương giang.
“Tiếng hát ai mà nghe nhớ thương
Mái nhì man mác nước sơng Hương
Hà ơi…tiếng mẹ ru nhè nhẹ
Cay đắng bao nhiêu nỗi đoạn trường”.
(Tố Hữu)
Điều ấy đã thực sự khẳng định với người đọc, một cái tôi của Hồng Phủ khi viết kí. Ơng tài hoa,
mê đắm, nhưng cái tôi mê đắm ấy được thể hiện một cách rất khác. Qua bài tùy bút Ai đã đặt tên
cho dịng sơng?, cái tơi mê đắm và tài hoa của ông đã được thể hiện khi ông quan sát dịng sơng ở
nhiều điểm nhìn khác nhau, mang đến cho người đọc một cái nhìn khách quan, mới mẻ và đày tính
khám phá về dịng sơng này. Trước tiên, cái tôi mê đắm và tài hoa của Hoảng Phủ được thể hiện qua
sự cảm nhận con sơng Hương từ góc nhìn địa lí. Thật vậy, trên mỗi chặng hành trình của dịng sơng
từ thượng nguồn đổ về xi rồi đi ra biển, con sông đều hiện lên với một vẻ đẹp khác nhau. Dù ở
thượng nguồn, ở ngoại vi thành phố hay khi đã chảy giữa lòng thành phố rồi, con sông vẫn mang
những nét đẹp phong phú mà thống nhất, làm say lịng người. Ở thượng nguồn, sơng Hương khơng
chỉ được hình dung như “bản trường ca của rừng già” – một khúc ca dài hùng tráng và lãng mạn của
đại ngàn thiên nhiên hùng vĩ mà còn mang dáng dấp của một “cơ gái Di-gan phóng khống và man
dại”. Đến khi rời vùng núi để về đồng bằng, ném chiếc chìa khóa vào tận trong rừng sâu, sự hoang


dại lại nhường chỗ cho một nét mềm mại khác. Con sông khi về xuôi giống như “người gái đẹp nằm

ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức”.

Đến khi chảy giữa lịng thành phố u thương, sơng Hương là “người tài nữ đánh đàn lúc
đêm khuya”. Và trước khi chia tay “người tình mà nó mong đợi” ở “thị trấn Bao Vinh xưa cổ” sông
Hương cứ như thể là nàng Kiều trở về tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa… Dưới góc
nhìn địa lí, một bức tranh màu sắc tươi tắn nhưng thanh thoát nhẹ nhàng đã được hiện lên thật đẹp
trên trang văn của Hoàng Phủ. Trong niềm say mê của nhà văn, con sơng khơng chỉ hiện lên ở góc
nhìn địa lí, mà còn trở thành một “thiên sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Đó là con sơng “biết
cách tự hiến đời mình làm một chiến cơng” trong chiến tranh. Nhưng khi trở về với cuộc sống đời
thường, nó lại lặng lẽ, khiêm nhường làm một “người con gái dịu dàng của đất nước”.

Với cái nhìn của một con người coi Huế là tất cả máu thịt của tâm hồn mình như Hồng Phủ
Ngọc Tường, từ lâu sơng Hương đã khơng cịn là một dịng chảy địa lý thuần túy, mà nó giống như
một người dân Việt Nam yêu nước trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng của dân tộc. Nó
mang trong mình những vẻ đẹp truyền thống đã làm thành bản sắc của văn hóa Việt:

Sống vững trãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hịa

(Huy Cận)

Cái tơi tài hoa mà mê đắm của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện qua Ai đã đặt tên cho
dịng sơng, còn ở nhiều phương diện khác nữa. Tuy nhiên, bởi đã nhắc đến và phân tích nội dung
này ở những nội dung trước, thầy sẽ không nhắc lại những ý này nữa. Chỉ mong rằng, dưới cái nhìn
tổng thể, các bạn có thể cảm nhận được một cách sâu sắc cái tơi tài hoa ấy của tác giả. Có thể nói,
bằng tình u và tài năng của mình, Hồng Phủ Ngọc Tường đã tìm kiếm, phát hiện và khẳng định
những vẻ đẹp khác nhau của sơng Hương. Hành trình chữ nghĩa ấy về con sơng xứ Huế khơng chỉ
nói lên tình cảm yêu mến, sự say mê đến độ đắm đuối của nhà văn trước những vẻ đẹp độc đáo, đa

dạng của Hương giang mà còn cho thấy sự tài hoa, chất lãng mạn bay bổng của tác giả.

Thế nhưng, cơng minh mà nói, thì cái tơi tài hoa của Hồng Phủ khơng chỉ được thể hiện qua
việc nhìn con sơng ở nhiều góc độ. Điều quan trọng là, sau ngần ấy sự quan sát tỉ mỉ, ngắm nhìn và
yêu thương, ơng đã thể hiện lên trang văn của mình một “vùng thẩm mĩ” đẹp đẽ. Vùng thẩm mĩ ấy
chính là Huế, là sông Hương – nhưng là cố đô và sơng Hương chỉ có trên trang văn của ơng mà thơi.
Người ta có thể cũng nói về Hương giang và Huế, nhưng cái tình mà người ta gửi và đó, chẳng thể


nào giống với Hồng Phủ. Đặc biệt hơn, ơng viết về đối tượng này bằng một trái tim say đắm, một
vốn liếng ngôn từ tinh luyện và một kho tri thức phong phú, để tạo nên những trang văn đẹp, giàu
chất trữ tình mà vẫn lấp lánh chất trí tuệ.

Cái tôi uyên bác, giàu tri thức về địa lý, lịch sử, văn hóa Huế

Bài viết Làm rõ ngịi bút tài hoa uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bút kí Ai đã đặt
tên cho dịng sơng trên theki.vn đã chỉ rõ và phân tích cái tơi un bác, giàu tri thức về địa lý, lịch
sử, văn hóa Huế rất hay như thế này:

“Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là một bài bút kí. Tuy nó nghiêng nhiều hơn về phía tùy bút,
tức là thiên về chất trữ tình và sự phóng khống nhưng cái hồn cốt của thể loại khơng vì thế mà mất
đi. Bản chất của kí là ghi chép và người viết kí chính là thư kí trung thành nhất của thời đại. Hồng
Phủ Ngọc Tường là một “thư kí” như thế, thậm chí cịn là một “thư kí” xuất sắc vì ơng có vốn hiểu
biết sâu rộng về địa lý, lịch sử, văn hóa của sơng Hương. Ơng tỏ ra am hiểu tường tận những gì
mình viết. Với sơng Hương, nhà văn khơng chỉ nắm bắt từng chỗ “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn
xoáy”, những chỗ “dịu dàng”, “say đắm”…; không chỉ thông thuộc từng “khúc quanh”, chỗ
“chuyển dịng” của con sơng trong từng khơng gian địa lý mà còn tường tận cả chiều dài lịch sử của
sơng Hương từ thuở nó cịn là một dịng sông biên thùy xa xôi ở thời đại các vua Hùng…

Nhưng thú vị nhất vẫn là những khám phá, phát hiện của nhà văn về đặc điểm văn hóa của

sơng Hương. Dấu tích văn hóa in đậm ở cả trên và hai bên bờ sơng. Đó là cái vẻ trầm mặc như triết
lí, như cổ thi của con sơng khi chảy bên những lăng tẩm đền đài của các đời vua chúa triều Nguyễn;
là nền âm nhạc cổ điển đã được sinh thành trên mặt nước của dịng sơng này. Đó cịn là dịng sơng
thi ca – nơi đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao văn nghệ sĩ, nhất là các nhà thơ, như Cao Bá Quát
đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”; như Hàn Mặc
Tử thấy dịng “sơng trăng” lung linh, thơ mộng: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó. Có chở trăng về
kịp tối nay”; như Thu Bồn nhìn dịng nước lững lờ của sơng Hương mà bâng khuâng: “Con sông
dùng dằng con sông không chảy. Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”…

Và nhắc đến sắc màu văn hóa của sơng Hương thiết nghĩ khơng thể khơng nhắc đến một giai
thoại đẹp mà nhà nhà văn đã phải kì cơng lục tìm đâu đó trong kho tư liệu bác học của xứ Huế hoặc
trong cái vốn văn hóa dân gian của người bình dân xưa về nguồn gốc tên gọi của con sơng: “Tơi
thích nhất một huyền thoại kể rằng vì u q con sơng xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ
đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dịng sơng để làn nước thơm tho mãi mãi”. Giai thoại này,
không phải ai cũng biết, kể cả những người sống lâu năm ở Huế. Vì thế, nó trở thành một thơng tin
mà nhiều người phải ngỡ ngàng trong sự thích thú dù có thể khơng ít lần họ đã đến Huế, đến sơng
Hương, thậm chí đã từng đặt ra câu hỏi Ai đã đặt tên cho dịng sơng? nhưng chưa có được câu trả
lời ưng ý.Có thể nói, bằng những hiểu biết phong phú, nhà văn đã cung cấp cho người đọc một
lượng thơng tin lớn về địa lý, lịch sử, văn hóa Huế nói chung và sơng Hương nói riêng. Vốn kiến


văn sâu rộng đó hẳn phải là kết quả của nhiều chuyến du lãm và du khảo của nhà văn suốt dặm dài
của mảnh đất cố đơ. Nhưng cái chính vẫn là những trang ghi chép về Hương giang đã được tưới tắm
trong vô vàn cung bậc cảm xúc phong phú của tác giả, đã thăng hoa trong cảm hứng mê đắm và sự
tài hoa của nhà văn.”

Thế mới biết, khi yêu và gắn bó thật sự, người ta thể hiện cảm xúc của mình đẹp đẽ đến thế
nào. Khơng phô trương, không rực rỡ sắc màu, cảm xúc cảu Hồng Phủ có lẽ chỉ mang nặng sắc
xanh, sắc tím thủy chung của Huế và của cảnh quan nơi đây. Thế nhưng, chỉ cần một gam màu thế
thôi, cũng đã rất đầy đủ và trọn vẹn rồi.


Cái tôi yêu quê hương đất nước, gắn bó mật thiết với xứ Huế

Như chúng ta đều biết, Hoàng Phủ Ngọc Tường quê gốc không phải là ở Huế, nhưng cuộ đời
ông lại gắn bó với mảnh đất này tha thiết. Nhà văn của những dịng sơng – vì thế - làm sao có thể
qn được dịng sơng em dịu của mảnh đất này. Viết về Huế mà khơng viết về Hương giang, có lẽ
sự mệnh danh “nhà văn của những dịng sơng” mà Hồng Phủ Ngọc Tường có, chắc rằng cũng
khơng thể nào trọn vẹn được.

Phải u Huế, gắn bó với sơng Hương đến mức nào, Hồng Phủ Ngọc Tường mới có được
những trang viết đầy ắp tri thức và rất đỗi tài hoa về Hương giang như vậy. Tài năng nghệ thuật là
một phần, cái yếu tố tiên quyết trong nghệ thuật vẫn là tình cảm, cảm xúc chân thành, sâu đậm. Một
trong số những nét phong cách tiêu biểu của nhà văn, chính là biết đặt cảm xúc cá nhân của mình
một cách hài hịa lên trên trang viết. Người thấy một Hoàng Phủ đầy tài hoa, mê đắm nhưng cũng
tràn đầy một tình yêu thiết tha với Huế hiện lên trên trang văn.

Với Hồng Phủ Ngọc Tường, sơng Hương đã chiếm trọn tâm hồn ơng. Liệu có phải, Hồng
Phủ thích cái lặng lờ, chảy trơi em dịu của dịng sơng này? Nó đã khiến trái tim ơng phải ngân rung
những giai điệu yêu thương với những cung bậc khác nhau: khi thì băn khoăn, trăn trở, e ngại con
người – vì “mải mê nhìn ngắm khn mặt kinh thành” của sơng Hương – mà có thể “khơng hiểu
một cách đầy đủ bản chất” của nó, “khơng hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm mà dịng sơng hình như
khơng muốn bộc lộ”; khi lại nhớ đến nao lịng một nét sơng Hương với “điệu chảy lững lờ” mà ông
gọi là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”; có khi “thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban
ngày” bởi “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dịng sơng”…

Những cảm xúc ấy chỉ là một số ít trong rất nhiều những biểu hiện của tình cảm gắn bó u
thương đối với sơng Hương mà nhà văn đã trực tiếp nói ra và kín đáo thể hiện. Như I.Ê-ren-bua đã
từng viết: “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường giang Von-ga, con sơng Von-ga đi ra
biển. Lịng u nhà, u gia đình, yêu miền quê trở thành tình yêu tổ quốc”. Người ta thể hiện
những cái tôi mạnh mẽ, nổi bật lên trang văn, nhưng dường như Hồng Phủ khơng làm thế. Ông



cũng có sự mãnh liệt trong khao khát kiếm tìm những nét đẹp của sơng Hương; ơng cũng mang
những tình u khơng thể nói hết thành lời với mảnh đất này. Thế nhưng, cái cách thể hiện của ông
lại đầy dịu dàng. Nó tĩnh lặng mà trữ tình như dịng nước sơng Hương, nó u hồi và đẹp đẽ như
chính cố đơ vậy. Vì thế, tình cảm đối với sơng Hương của Hồng Phủ Ngọc Tường, xét đến cùng, là
tình cảm đối với đất nước, là tấm lòng yêu mến quê hương xứ sở nồng nàn của nhà văn.

 Kết luận:

“Ai đã đặt tên cho dịng sơng” đã thể hiện được vẻ đẹp của sông Hương từ cảnh sắc thiên
nhiên cho đến bề dày lịch sử, văn hóa và tâm hồn con người vùng đất cố đơ. Qua đó tác giả ca ngợi
dịng sơng Hương và bộc lộ tình u tha thiết, sâu lắng với xứ Huế. Nó gợi lên trong lịng người đọc
tình u q hương xứ sở và niềm khao khát khám phá những vùng đất mới lạ. Tác phẩm được viết
dưới dạng bút kí, thiên về thể loại tùy bút đã thể hiện những nét đặc sắc về nghệ thuật trong lối viết
kí của Hồng Phủ Ngọc Tường. Cách viết của ông tài hoa, phong phú bởi những liên tưởng ẩn dụ,
so sánh, nhân hóa bất ngờ và thú vị. Ông đã dệt nên những trang văn đẹp bởi kho từ vựng phong
phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, kết hợp linh hoạt giữa kể và tả làm nổi bật vẻ đẹp của Hương
giang, vẻ đẹp riêng của xứ Huế.

III.

TỔNG KẾT
1. Nghệ thuật

- Chất trí tuệ, chất thơ kết hợp hài hòa, kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí…
được thể hiện trong tác phẩm tạo nên một phong cách nghệ thuật đặc sắc
- Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép
tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, liên tưởng… có sự kết hợp hài hịa giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ
quan và khách quan…


2. Nội dung
- Bài kí ngợi ca dịng sơng Hương và rộng hơn là vùng đất cố đơ Huế đẹp thơ mộng hữu tình, ca
ngợi lịch sử vẻ vang của Huế, ca ngợi văn hóa và tâm hồn người Huế.
- Tác giả coi sông Hương là biểu tượng cho tất cả những gì là vẻ đẹp của cảnh và người đất đế đơ
này.
- Bài kí chứng tỏ sự gắn bó máu thịt, tình u thiết tha với Huế và một vốn hiểu biết sâu sắc về nền
văn hóa đất cố đơ của tác giả.

Nhận định về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”
1. Kí của Hồng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa
(Nguyễn Tuân)


2. Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất nước ta hiện nay
(Nguyên Ngọc)

3. Hồng Phủ Ngọc Tường có một phong cách viết bút kí văn học của riêng mình. Thế mạnh của
ơng là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa lý sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì, ở thời
điểm nào và ở đâu thì ơng vẫn có thể tung hồnh thoải mái ngịi bút được.
(Hồng Cát)

4. Hồng Phủ Ngọc Tường là một trong số rất ít nhà văn viết bút ký nổi tiếng ở nước ta vài chục
năm nay. Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người đọc ở tấm lòng nhân văn sâu sắc, trí
tuệ uyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc, quyến rũ. Đó là những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình...
Thực ra, bút ký Hồng Phủ Ngọc Tường chính là những áng thơ văn xuôi cuốn hút người đọc... Thơ
Hoàng Phủ Ngọc Tường là vẻ đẹp của nỗi buồn hoài niệm, những day dứt triết học, từ sâu thẳm
thời gian, sâu thẳm đất đai vọng lên trong tâm khảm người đọc. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho
rằng thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường thấm đẫm "triết học về cái chết... thơ anh buồn mỗi nỗi buồn đứt
ruột... Đấy là thơ của cõi âm"... Đó là một nhận xét xác đáng.

(Nhà thơ Ngô Minh)

5. …Nhiều thế hệ văn nghệ sĩ đến với Huế và đã bị con Sông Hương mê hoặc. Nhiều tác phẩm văn
học đã đưa con sông này đến với người đọc để từ đó đem lịng u Huế, dù chưa một lần đặt chân
đến nơi này. Nhưng với Hồng Phủ Ngọc Tường, người một đời gắn bó với Huế, bằng tình cảm tha
thiết, bằng tiềm năng văn hóa đã khám phá vẻ đẹp của Hương Giang một cách tồn diện, đưa Sơng
Hương trở thành biểu tượng của đất cố đô…
(Bùi Thị Hải Hạnh)



×