Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

(Tiểu luận) bài tập nhóm môn lịch sử đảng cộng sản việt nam đề tài tìm hiểu về đại hội xii (2016) và đại hội xiii (2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.99 MB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
~~~~~***~~~~~

BÀI TẬP NHĨM
MƠN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU VỀ ĐẠI HỘI XII (2016) VÀ ĐẠI HỘI XIII (2021)

Lớp học phần

:

LLDL1102(123)_07

Nhóm sinh viên thực hiện

:

Nhóm 5

GVHD

:

Lê Thị Hồng Thuận

HÀ NỘI – 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
~~~~~***~~~~~



BÀI TẬP NHĨM
MƠN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU VỀ ĐẠI HỘI XII (2016) VÀ ĐẠI HỘI XIII (2021)

Danh sách thành viên:

Tăng Nguyễn Thiên Bảo

Lị Anh Tú

Bùi Đức Minh

Hồng Minh Hằng

Đỗ Minh Tuấn

Lý Thị Trang

Mai Thị Thuỳ Linh

Trương Quang Anh

Hoàng Như Ngọc

Đinh Lương Đức Anh


HÀ NỘI – 2023



MỤC LỤC
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRONG NƯỚC VÀ THẾ GIỚI.........................................1
1. Bối cảnh lịch sử diễn ra đại hội XII (2016) và XIII (2021)............................1
2. Về bối cảnh thế giới.......................................................................................3
3. Về bối cảnh trong nước..................................................................................3
II. TỔNG QUAN VỀ ĐẠI HỘI XII (2016) VÀ ĐẠI HỘI XIII (2021).....................5
1. Đại hội XII (2016).........................................................................................5
2. Đại hội XIII (2021)........................................................................................6
III. CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN MÀ ĐẠI HỘI XII VÀ XIII ĐÃ THÔNG QUA.....7
1. Các nội dung cơ bản của Đại Hội XII (2016).................................................7
2. Các nội dung cơ bản của Đại Hội XIII (2021)...............................................9
IV. SAU 5 NĂM, NHỮNG THÀNH TỰU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC, HẠN CHẾ,
NGHUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP..............................................................................11
1. Một số thành tựu sau 5 năm.........................................................................11
2. Những hạn chế còn tồn tại...........................................................................15
3. Nguyên nhân................................................................................................16
4. Giải pháp......................................................................................................17
V. SO SÁNH HAI ĐẠI HỘI XII (2016) VÀ XIII (2021)........................................18
VI. MỘT SỐ CÂU HỎI MINI GAME....................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................32

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRONG NƯỚC VÀ THẾ GIỚI
1. Bối cảnh lịch sử diễn ra đại hội XII (2016) và XIII (2021)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng diễn ra trong thời điểm hết sức
quan trọng của đất nước gặp nhiều khó khăn và thách thức:
Kinh tế:
Trong giai đoạn 2011-2015, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức
tạp, một số nền kinh tế lớn suy giảm tăng trưởng, đặc biệt là tình hình căng thẳng gay

gắt ở Biển Đông... đã tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy
nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của cả hệ thống chính trị, cùng cộng
đồng doanh nghiệp, Việt Nam vừa kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia,


giữ vững hịa bình, ổn định vừa nỗ lực phấn đấu đạt kết quả cao nhất kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015.
Đại hội toàn quốc lần thứ XII (1-2016) của Đảng diễn ra trong bối cảnh đất nước
đã có bước phát triển về mọi mặt trong đó có kinh tế. Giai đoạn 2011-2015 trước khi
bước vào 2016 thì nền kinh tế Việt Nam là một trong những giai đoạn khó khăn nhất
kể từ sau khi thực hiện cơng cuộc đổi mới tồn diện nền kinh tế năm 1986, nền kinh tế
vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mơ và tiềm lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô
cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp
lý, từ năm 2013 dần khơi phục, năm sau cao hơn năm trước (tăng trưởng GDP năm
2011 đạt 6,24%; năm 2012: 5,25%; năm 2013: 5,42%; năm 2014: 5,98% và 2015 đạt
6,68%). Đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba khâu đột
phá chiến lược được tập trung thực hiện, bước đầu đạt kết quả tích cực.
Chính trị:
Trong những năm này tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Hồ bình,
hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang,
khủng bố, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ diễn ra ở nhiều nơi, diễn biến phức tạp.
Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng năng lượng, ơ nhiễm mơi trường, biến đổi khí hậu
xảy ra nghiêm trọng trên toàn thế giới.
Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục
tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra, nhưng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần được khắc
phục. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt động
“diễn biến hồ bình”. Qua 5 năm 2011-2015, những đổi mới về hệ thống chính trị đã
góp phần ổn định tình hình chính trị-xã hội, quốc phòng, an ninh được tăng cường;
kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hịa bình, ổn định để phát triển đất nước. Cơng tác

xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt kết quả tốt. Dân
chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy.
Ngồi ra, cơng tác cải cách hành chính trên nhiều lĩnh vực cịn chậm, thủ tục còn phiền
hà. Cơ cấu tổ chức, bộ máy nhà nước còn cồng kềnh; chức năng, nhiệm vụ vẫn còn
chồng chéo, chưa đủ cụ thể; một số quy định chưa phù hợp với thực tiễn; vẫn cịn tình
trạng nợ đọng văn bản.
Văn hóa - Xã hội:
Qua 5 năm 2011-2015, việc xây dựng, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học
và cơng nghệ, văn hóa, xã hội, y tế có bước phát triển và giải quyết các vấn đề xã hội
có bước phát triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm,


đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Bảo vệ tài ngun, mơi trường và ứng
phó với biến đổi khí hậu có những chuyển biến tích cực, tùy vẫn còn nhiều vấn đề bức
xúc cần phải giải quyết. Xã hội và chính trị đất nước ổn định làm tiền đề quan trọng để
nước ta tiếp tục phát triển nhanh, bền vững hơn trong thời kỳ mới. Tuy nhiên tại thời
điểm này vẫn đang có một số vấn đề hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và
đào tạo, khoa học và cơng nghệ, văn hóa, xã hội, y tế chậm được khắc phục. Đời sống
của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa cịn nhiều khó khăn. Bốn nguy
cơ mà Đảng chỉ ra vẫn cịn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp. Tình hình suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi.
Đối Ngoại:
Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Vị thế, uy tín
quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao.
2016-2020, Đại hội XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh đất nước đang đứng
trước nhiều thời cơ và thách thức đan xen, nhiều vấn đề chiến lược mới đặt ra cần phải
giải quyết, từ tình hình quốc tế, khu vực dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường
đến các thách thức mang tính tồn cầu về biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và cả
những thành tựu ngoạn mục của tiến bộ khoa học công nghệ đang tác động, ảnh hưởng

mạnh mẽ tới đời sống kinh tế - xã hội của đất nước ta cũng như toàn thế giới.
2. Về bối cảnh thế giới
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức Đại hội XIII khi thế giới đang trải qua những
chuyển biến rất nhanh, phức tạp, khó lường. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn
diễn ra gay gắt so với các giai đoạn trước. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tiếp
tục diễn ra mạnh mẽ hơn, mở ra những không gian phát triển mới rộng lớn và cả
những thách thức mới cho loài người, mỗi quốc gia, cộng đồng và mỗi cá nhân. Đại
dịch COVID-19 bùng nổ theo cách thức khó ai lường trước được và gây ra những hậu
quả, hệ quả chưa từng có.
Sự bùng nổ của cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư đang làm thay đổi lịch
sử nhân loại, không chỉ dưới góc độ đời sống xã hội mà cịn làm thay đổi mạnh mẽ
phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất. Cuộc cách mạng này được xác định vẫn đang
ở giai đoạn đầu và tạo ra cơ hội quý giá “ngàn năm có một”, đặc biệt cho các nước
đang phát triển trong đó có Việt Nam có thể “đi tắt, đón đầu” bắt kịp các nước phát
triển.


Document continues below
Discover more
from:sử Đảng
Lịch
CSVN
lsđ01
Đại học Kinh tế…
999+ documents

Go to course

Trắc nghiệm lịch sử
15


Đảng chương 1 phầ…
Lịch sử
Đảng…

100% (39)

Trắc nghiệm lịch sử
20

Đảng chương 1 phầ…
Lịch sử
Đảng…

100% (16)

Bài tập lớn LS Đảng 12

14

vai trò lãnh đạo của…
Lịch sử
Đảng…

100% (14)

Đại hội VI,đại hội VII Đại hội VI và Đại hội…
Lịch sử
Đảng…


100% (14)


[123doc] - bai-thu27

hoach-lop-cam-…

3. Về bối cảnh trong nước
Lịch sử
100% (12)
Đảng…
Đại hội được tổ chức vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân ta thực
hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu và nhiệm vụ đã được xác định trong Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng, đạt được nhiều thành quá rất quan trọng, khá toàn diện,
tạo nhiều dấu ấn nổi bật; góp phần tơ đậm những thành tựu to
lớn, sử
có ýĐảng
nghĩa lịch
sử
Lịch
- Tại
của 35 năm đổi mới; 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991; 10 năm thực hiện
sao nói, sau cách…
Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và Chiến lược16phát triển kinh tế - xã hội 10
Lịch những
sử mặt còn hạn
năm 2011 - 2020. Đồng thời, Đại hội cũng thẳng thắn nhìn nhận

100% (12)


chế, những vấn đề cần khắc phục, vượt qua cho giai đoạn 5 Đảng…
năm tiếp theo, hiện thực
hóa khát vọng phát triển đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045.

Đại hội XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh tình hình an ninh, chính trị, kinh tế
thế giới và khu vực diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó dự báo:
- Thế giới đang trong quá trình phân tách từ đơn cực sang đa cực bởi sự trỗi dậy
mạnh mẽ của một số cường quốc và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn biến
đứng trước những thách thức vô cùng lớn. Cuộc binh biến ở My-an-ma cho thấy mỗi
quốc gia, dân tộc trong khu vực và trên thế giới không chỉ đang đối mặt với những
thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng lớn, mà ngay cả những thách thức an
ninh truyền thống cũng không phải dễ dàng giải quyết bằng con đường hịa bình.
- Thách thức mang tính tồn cầu về biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và cả
những thành tựu ngoạn mục của tiến bộ khoa học công nghệ đang tác động, ảnh hưởng
mạnh mẽ tới đời sống kinh tế - xã hội của đất nước ta cũng như toàn thế giới.
- Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra gay gắt so với các giai đoạn
trước. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tiếp tục diễn ra mạnh mẽ hơn, mở ra
những không gian phát triển mới rộng lớn và cả những thách thức mới cho loài người,
mỗi quốc gia, cộng đồng và mỗi cá nhân. Đại dịch COVID-19 bùng nổ theo cách thức
khó ai lường trước được và gây ra những hậu quả, hệ quả chưa từng có. Đất nước đứng
trước nhiều thuận lợi, thời cơ đan xen với nhiều khó khăn, thách thức, nhiều vấn đề
mới đặt ra phải giải quyết
- Đối mặt với nhiều thách thức về cạn kiệt tài ngun, ơ nhiễm, suy thối mơi
trường, thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu
Giai đoạn 2016-2020, kinh tế Việt Nam đạt được những bước phát triển quan
trọng, gây tiếng vang trên thế giới. Việt Nam được đánh giá là một trong 16 nền kinh
tế mới nổi thành công nhất. Đến năm 2020, Việt Nam vươn lên đứng thứ 4 trong
ASEAN về quy mô GDP. Theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nếu tính theo
sức mua tương đương, nền kinh tế Việt Nam đã vượt 1.000 tỷ USD. Vượt qua những



khó khăn, thách thức, đặc biệt là dịch Covid-19, kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết lĩnh vực, tạo nhiều dấu
ấn nổi bật. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 1,7 lần, từ 327,8 tỷ USD
năm 2015 lên 545 tỷ USD vào năm 2020. Năm 2020, dù kinh tế thế giới ảnh hưởng
nặng nề của dịch bệnh Covid-19, thành tích xuất khẩu vẫn rất đáng tự hào, với mức
xuất siêu 20 tỷ USD. Xuất khẩu hàng hóa tăng từ 162 tỷ USD năm 2015 lên khoảng
282 tỷ USD năm 2020, tăng bình quân 10,5%/năm giai đoạn 2016-2020, là động lực
quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Cán cân xuất, nhập khẩu hàng hóa chuyển từ thâm
hụt sang thặng dư cuối kỳ 5 năm, tạo điều kiện cán cân thanh tốn giữ được trạng thái
tích cực, góp phần ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mơ khác. Chương trình mục tiêu quốc
gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 được triển khai mạnh mẽ, chuyển từ
cách tiếp cận đơn chiều sang đa chiều, tập trung vào nhóm, hộ nghèo nhất. Tỷ lệ hộ
nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống
còn 3,75% cuối năm 2019 và giảm cịn dưới 3% vào cuối năm 2020. Tốc độ đơ thị hóa
tăng nhanh, tỷ lệ đơ thị hóa đạt mục tiêu đặt ra. Tỷ lệ đơ thị hố tăng từ 35,7% năm
2015 lên khoảng 39,3% năm 2020 và bước đầu gắn kết với cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phát triển nông thôn.
II. TỔNG QUAN VỀ ĐẠI HỘI XII (2016) VÀ ĐẠI HỘI XIII (2021)
1. Đại hội XII (2016)
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng được tổ chức tại Trung tâm Hội
nghị Quốc gia, Thủ đô Hà Nội từ ngày 20 đến 28/1/2016.
Chủ đề của Đại hội là “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát
huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ
cơng cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn
định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại”.
Dự Đại hội có 1.510 đại biểu thay mặt cho hơn 4,5 triệu đảng viên toàn Đảng. Số
lượng đại biểu dự Đại hội lần thứ XII tăng 133 đại biểu so với Đại hội XI. Đây là Đại

hội có số lượng đại biểu đông nhất trong 12 kỳ Đại hội Đảng tồn quốc. Trong đó có
197 Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, 1.300 đại biểu được bầu từ
đại hội đảng bộ các tỉnh, thành phố và đảng bộ trực thuộc Trung ương, 13 đại biểu
thuộc Đảng bộ Ngoài nước do Trung ương chỉ định theo quy định. 194 đại biểu nữ
(chiếm tỉ lệ 12,85%); 174 đại biểu là dân tộc thiểu số (11,52%); 99,93% đại biểu có
trình độ đại học trở lên.


Tới dự Đại hội có các đại biểu khách mời: Các đồng chí nguyên Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Đồng chí Đỗ Mười, đồng chí Lê
Khả Phiêu, đồng chí Nơng Đức Mạnh. Các đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị,
nguyên Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Đồng chí Lê Đức Anh,
đồng chí Trần Đức Lương, đồng chí Nguyễn Minh Triết; đồng chí Phan Văn Khải,
nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hồ xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; đồng chí Nguyễn Văn An, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ
tịch Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; các đồng chí nguyên Uỷ
viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng; các đồng chí ngun Phó Chủ tịch
nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ; các đồng chí nguyên Uỷ viên
Trung ương Đảng từ khố II đến khố VI; các đồng chí Uỷ viên Uỷ ban Kiểm tra
Trung ương khoá XI. Đến dự Đại hội có đại diện các Mẹ Việt Nam Anh hùng, nhân sĩ,
trí thức, văn nghệ sĩ, chức sắc tơn giáo tiêu biểu; đại diện thanh niên tiêu biểu cho thế
hệ trẻ Việt Nam. Đến dự Đại hội, có các vị đại sứ, đại biện các nước và trưởng đại diện
các tổ chức quốc tế trong đoàn ngoại giao tại Hà Nội. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XII của Đảng đã nhận được 248 điện, thư chúc mừng của các chính đảng, tổ chức,
bạn bè quốc tế từ khắp các châu lục trên thế giới và các đoàn ngoại giao tại Hà Nội.
Đây là Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng nhận được điện, thư chúc mừng nhiều
nhất so với các kỳ Đại hội trước, cho thấy tình cảm sâu sắc của bạn bè quốc tế đối với
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; đồng thời, khẳng định vai trị, vị thế, uy tín của Đảng,
Nhà nước và dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.
2. Đại hội XIII (2021)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức
khai mạc sáng ngày 26/01/2021, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Thủ đơ Hà Nội.
Dự Đại hội có 1.587 đại biểu thay mặt cho hơn 5 triệu đảng viên tồn Đảng.
Trong đó có 191 đồng chí đại biểu là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
XII, 1.381 đại biểu được bầu từ đại hội đảng bộ các tỉnh, thành phố và đảng bộ trực
thuộc Trung ương, 15 đại biểu thuộc các Đảng bộ ngồi nước do Bộ Chính trị chỉ định.
Đại biểu nam có 1.365 đồng chí, chiếm 86,01%, đại biểu nữ có 222 đồng chí, chiếm tỷ
lệ 13,99%. Đại biểu là người dân tộc thiểu số có 175 đồng chí, chiếm tỷ lệ 11,03%. Có
3 đại biểu là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, chiếm 0,19%; 13 đại biểu là Nhà
giáo ưu tú, chiếm 0,82%; 15 đại biểu là Thầy thuốc nhân dân, Thầy thuốc ưu tú, chiếm
0,95%.
Chủ đề của Đại hội là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy ý chí và quyết tâm phát triển đất nước, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh


tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững môi trường hồ bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở
thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
Dự Đại hội XIII có 1.587 đại biểu (tăng 77 đại biểu so với Đại hội XII) đại diện
cho gần 5,2 triệu đảng viên trong cả nước; trong đó đại biểu đương nhiên có 191 đồng
chí là Ủy viên chính thức và Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương khóa XII,
1.381 đại biểu chính thức được bầu tại các đại hội Đảng bộ trực thuộc Trung ương, 15
đại biểu ngoài nước được Bộ Chính trị chỉ định.
Tới dự Đại hội có các đại biểu khách mời: Đồng chí Nơng Đức Mạnh, ngun
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Các đồng chí
nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam: đồng chí Trần Đức Lương, đồng chí Nguyễn Minh Triết, đồng chí Trương Tấn
Sang. Đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, ngun Thủ tướng Chính phủ nước
Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng. Các đồng chí nguyên Uỷ

viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam: đồng chí Nguyễn Văn An, đồng chí Nguyễn Sinh Hùng. Các đồng chí nguyên
Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng; các đồng chí nguyên Chủ tịch
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các đồng chí ngun Phó Chủ tịch
nước, ngun Phó Chủ tịch Quốc hội, ngun Phó Thủ tướng Chính phủ; các đồng chí
ngun Uỷ viên Trung ương Đảng từ khoá III đến khoá VII; các đồng chí Uỷ viên Uỷ
ban Kiểm tra Trung ương khoá XII. Đại diện các Mẹ Việt Nam Anh hùng, nhân sĩ, trí
thức, văn nghệ sĩ, chức sắc tơn giáo tiêu biểu; đại diện thanh niên tiêu biểu cho thế hệ
trẻ Việt Nam.
Đại hội XIII đã nhận được 298 thư, điện mừng của 149 đảng, 06 tổ chức khu vực
và quốc tế, 93 tổ chức hữu nghị, nhân dân, 25 Đoàn ngoại giao, 16 cá nhân từ 92 quốc
gia. Đây là Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng nhận được điện, thư chúc mừng nhiều
nhất so với các kỳ Đại hội trước, cho thấy tình cảm sâu sắc của bạn bè quốc tế đối với
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; đồng thời, khẳng định vai trò, vị thế, uy tín của Đảng,
Nhà nước và dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.
III. CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN MÀ ĐẠI HỘI XII VÀ XIII ĐÃ THÔNG QUA
1. Các nội dung cơ bản của Đại Hội XII (2016)
a. Mục tiêu tổng quát
Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức
mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng


cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của Nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hồ bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên
thế giới.

b. Các nhiệm vụ trọng tâm
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, trên cơ sở quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện
việc thực hiện các quan điểm, nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực đã nêu trong Báo cáo
chính trị và Báo cáo kinh tế - xã hội, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững; đặc
biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả các nhiệm vụ trọng tâm
sau:
(1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội
bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng
lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
(2) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
(3) Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất
lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá
chiến lược (hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và
đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng; đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước, chú trọng cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nông
thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an tồn nợ
cơng.
(4) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định để phát
triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội. Mở rộng và
đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực


hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín

của đất nước trên trường quốc tế.
(5) Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của Nhân dân.
Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết;
tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo
đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
(6) Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung
xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây
dựng mơi trường văn hố lành mạnh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đã thảo luận và thông qua:
- Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khố XI trình Đại hội XII. Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tiếp thu ý
kiến của Đại hội, phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ tới.
- Báo cáo tổng kết việc thi hành Điều lệ Đảng khoá XI; đồng ý không sửa đổi, bổ
sung Điều lệ Đảng hiện hành. Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII hướng
dẫn, quy định cụ thể và tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm thi hành nghiêm,
thống nhất Điều lệ trong toàn Đảng.
- Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố
XII kiên quyết, kiên trì với quyết tâm chính trị cao lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục thực hiện
tồn diện Nghị quyết Trung ương 4 khố XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay” gắn với việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng.
2. Các nội dung cơ bản của Đại Hội XIII (2021)
a. Mục tiêu tổng quát
Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh tồn diện; củng cố, tăng
cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi
dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh

đại đồn kết tồn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ
cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ


quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta
trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
b. Các nhiệm vụ trọng tâm
(1) Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị tồn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi
mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh
phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích nhóm", những biểu
hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán
bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lịng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước,
chế độ xã hội chủ nghĩa.
(2) Tập trung kiểm soát đại dịch Covid-19, tiêm chủng đại trà vắc-xin Covid-19
cho cộng đồng; phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh mẽ mơ hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp
với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự
liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh
doanh; có chính sách hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp trong nông nghiệp; đẩy mạnh
nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo,
nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển
đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo
động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững; hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất
là pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ và giải quyết các tranh chấp dân sự, khắc phục
những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước.
(3) Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động

đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Qn
đội nhân dân, Cơng an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây
dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại;
kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định để phát triển đất
nước.
(4) Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị
văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,


hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hoá đồng bào dân tộc thiểu số;
thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển
biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.
(5) Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy
mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư
pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân
theo pháp luật, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính
quyền, MTTQ Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên;
tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc.
(6) Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải
thiện mơi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí
hậu, thiên tai khắc nghiệt.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng đã thảo luận và thông qua:
- Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại
biểu tồn quốc lần thứ XIII.
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025.

- Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng của Ban
Chấp Trung ương khóa XII;
- Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII trình Đại hội XIII.
IV. SAU 5 NĂM, NHỮNG THÀNH TỰU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC, HẠN CHẾ,
NGHUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
1. Một số thành tựu sau 5 năm
Đại hội XII của Đảng phải thực hiện phương châm kế thừa, ổn định, đổi mới và
phát triển; phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc, siết chặt kỷ luật, kỷ
cương; coi trọng chất lượng, hiệu quả, đề cao trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức
đảng, trước hết là người đứng đầu; bảo đảm an tồn, thiết thực, khơng phơ trương,
hình thức; kiên quyết chống lãng phí, tiêu cực.
So với nhiệm kỳ trước, kinh tế nhiệm kỳ này chuyển biến tích cực, tồn diện.
Kinh tế vĩ mơ ổn định, lạm phát ln được kiểm sốt ở mức thấp; các cân đối lớn của


nền kinh tế cơ bản được bảo đảm; nợ công giảm, nợ xấu được kiểm soát. Mặc dù năm
cuối nhiệm kỳ, đại dịch Covid-19 và thiên tai, bão lũ tác động nặng nề tới mọi mặt của
đời sống kinh tế - xã hội, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 2020 vẫn đạt khoảng 6%/năm (riêng năm 2020 tăng trưởng GDP vẫn đạt 2,91% là
mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới).
Trong bối cảnh thế giới có nhiều khủng hoảng, đặc biệt năm 2020 nhiều quốc gia
tăng trưởng âm, nhưng Việt Nam vẫn tăng trưởng dương. Việt Nam được đánh giá là 1
trong số 10 nước trên thế giới có tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất; 1 trong 16 nền kinh
tế mới nổi thành công nhất trong năm 2020.
Quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người tăng lên (năm 2020, GDP
đạt 271,2 tỉ USD và thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD/người). Chất lượng
tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011-2015
lên 5,9%/năm giai đoạn 2016 - 2020.
Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng được tập trung thực
hiện và bước đầu đạt những kết quả quan trọng. Cơ cấu các ngành kinh tế chuyển dịch

tích cực, tỉ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm, tỉ trọng khu vực công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng lên. Công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển nhanh;
cơng nghiệp hỗ trợ có bước phát triển, góp phần nâng cao tỉ lệ nội địa hóa và giá trị gia
tăng của sản phẩm. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tiếp tục tăng; du lịch
phát triển nhanh. Nơng nghiệp có bước chuyển mạnh sang sản xuất hàng hố, ứng
dụng cơng nghệ cao, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh
tế; kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển; chương trình xây dựng nơng thơn mới đạt
nhiều kết quả quan trọng, hoàn thành sớm hơn gần 2 năm so với kế hoạch đề ra, góp
phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân. Phát triển kinh tế số bước
đầu được chú trọng.
Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu, rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình
thức, ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương thế hệ mới; xuất,
nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngồi tăng mạnh, đóng góp tích cực vào tăng
trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước.
Lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được quan tâm đầu tư phát triển, đạt nhiều kết
quả to lớn: “Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm xuống còn khoảng 4%. Hơn 54% số
xã đạt chuẩn nơng thơn mới, về đích sớm hơn kế hoạch gần 2 năm”. Sự nghiệp y tế,
thể dục, thể thao, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, xây dựng con người; quản lý tài nguyên, bảo vệ mơi trường, phịng, chống


thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển khoa học và công nghệ, phong trào
khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo đạt được nhiều kết quả tích cực, rõ nét. Kết quả của
Đoàn thể thao Việt Nam tại Đại hội thể thao Đông Nam Á vừa qua là một minh chứng
sinh động về sự nỗ lực không mệt mỏi, tinh thần, ý chí Việt Nam.
Về cơng tác xây dựng Đảng, nhiệm kỳ Đại hội XII, Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đặc biệt quan tâm đến lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng toàn diện với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt và đạt
nhiều kết quả rõ rệt. Trong đó, đề cao trách nhiệm của cấp uỷ, sự gương mẫu của cán

bộ, đảng viên, nhất là những người đứng đầu các cấp; phát huy dân chủ; tăng cường
đoàn kết thống nhất trong Đảng; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính
trị và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, góp phần nâng cao vị thế cầm quyền, khẳng
định vai trò lãnh đạo, đường lối đúng đắn của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân
đối với Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành 4 nghị quyết, 1 quy định và Bộ Chính
trị, Ban Bí thư ban hành gần 130 văn bản, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực
hiện toàn diện, đồng bộ cơng tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ
và đạo đức. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức được
tiến hành mạnh mẽ, đồng bộ, gắn với việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh và thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Thực hiện các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, việc kiện
tồn, sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế của hệ thống chính trị được chỉ đạo
thực hiện chặt chẽ, quyết liệt từ Trung ương đến cơ sở và đạt nhiều kết quả quan trọng.
Cả nước đã giảm 4 đầu mối trực thuộc Trung ương; 7 tổng cục và tương đương; 83
cục, vụ và tương đương; 119 sở, ngành và tương đương; 5.889 phòng và tương đương;
5.145 đơn vị sự nghiệp công lập. Các địa phương bước đầu đã giảm được 6 đơn vị
hành chính cấp huyện, 545 đơn vị hành chính cấp xã, hơn 15.300 thơn, tổ dân phố và
hơn 200.000 người hoạt động không chuyên trách cấp xã và thơn, tổ dân phố.
Cùng với đó, cơng tác ln chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, bố trí cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh, huyện là người ngoài địa phương được đẩy mạnh; tình trạng
chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy tội, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng và
những biểu hiện tiêu cực khác trong công tác cán bộ từng bước được kiềm chế, đẩy lùi
có hiệu quả.
Cơng tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và công tác đấu tranh phịng, chống
tham nhũng, tiêu cực, lãng phí chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá, quyết liệt, có


hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ giữa "xây" và "chống", với

quyết tâm “khơng có vùng cấm”, khơng có ngoại lệ đã đem lại nhiều kết quả cụ thể, có
tác dụng răn đe mạnh mẽ, phòng ngừa sai phạm. Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của
Đảng, có 113 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý bị thi hành kỷ luật, thậm chí một
số cán bộ bị xử lý hình sự…
Cơng tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nhất là phịng, chống tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực “tiếp tục được đẩy mạnh, tăng cường, kết hợp bài bản, nhuần nhuyễn
giữa "xây" và "chống". Tham nhũng, tiêu cực từng bước được kiềm chế, có chiều
hướng thuyên giảm. Nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng, nhất là các vụ án lớn, nghiêm
trọng tiếp tục được phát hiện, điều tra, tiến hành khởi tố, truy tố, xét xử nghiêm minh,
được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đánh giá cao, đồng tình ủng hộ. Cụ
thể là việc thanh tra, kiểm tra Dự án gang thép Thái Nguyên, Dự án Khu đô thị mới
Thủ Thiêm; bổ sung nhiều vụ việc vào diện trực tiếp chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung
ương về phòng, chống tham nhũng, trong đó có vụ Cơng ty Nhật Cường; đưa ra xét xử
vụ án Mobiphone mua 95% cổ phần của Cơng ty AVG...
Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường.
Tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng;
sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và lực
lượng vũ trang. Xây dựng Quân đội nhân dân, Cơng an nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến
thẳng lên hiện đại, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững mơi trường
hịa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Tư duy về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển mới và ngày
càng hồn thiện. Sự kết hợp giữa quốc phịng, an ninh và đối ngoại ngày càng chặt
chẽ, hiệu quả. Chủ động phát hiện, có các phương án, đối sách ngăn ngừa các nguy cơ
chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa và kiểm sốt tốt các nhân tố có thể gây bất lợi đột
biến. Tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường; thế trận lòng dân được chú
trọng; thế trận quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân, nhất là trên các địa

bàn chiến lược, trọng điểm, được củng cố vững chắc. Bước đầu hình thành hệ thống
pháp luật và cơ sở vật chất cho việc bảo đảm an ninh mạng, an tồn thơng tin quốc gia,
không gian mạng quốc gia. Ban hành và thực hiện Chiến lược an ninh mạng quốc gia.
Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo
khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Chủ động tham gia xây dựng


các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu; xử lý
đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến
lược, đối tác toàn diện và các đối tác khác. Đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối
ngoại nhân dân được triển khai đồng bộ và tồn diện. Tiếp tục hồn thiện và thực thi
có hiệu quả cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại; tăng cường công tác
bảo hộ công dân và cơng tác người Việt Nam ở nước ngồi. Hội nhập quốc tế tiếp tục
được triển khai chủ động, tích cực, tạo không gian quan hệ rộng mở, tranh thủ được sự
hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế.
Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn hoàn thành tốt với
vai trò là Chủ tịch ASEAN; hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực qua
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương hay Hiệp định Đối tác
kinh tế toàn diện khu vực... Điều này cho thấy vị thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc
tế ngày càng nâng cao.
2. Những hạn chế còn tồn tại
Đánh giá về những hạn chế, khuyết điểm với nhiều điểm mới là: Nền kinh tế phát
triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, đứng trước nhiều khó khăn, thách
thức mới do tác động của đại dịch COVID-19 và khủng hoảng kinh tế tồn cầu gây ra.
Xu hướng già hóa dân số nhanh; tốc độ cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa tăng mạnh; biến
đổi khí hậu gay gắt, phức tạp... là những yếu tố tác động đến phát triển nhanh, bền
vững của đất nước. Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng cũng đã chỉ rõ 4
nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, khuyết điểm, rút ra 5 bài học kinh nghiệm.
Đại hội cũng xác định và chỉ ra những thách thức cần vượt qua như tham nhũng
vẫn là nguy cơ đối với sự tồn vong chế độ; một bộ phận đảng viên phai nhạt lý tưởng,

tính tiền phong, gương mẫu giảm sút. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
với hệ thống chính trị, trọng tâm là Nhà nước chậm, có mặt lúng túng. Thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập. Luật pháp, cơ
chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực còn chồng chéo.
Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thơng thống, minh bạch, thuận lợi cho
doanh nghiệp. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn
thấp. Tăng trưởng xuất khẩu và xuất siêu chủ yếu ở nhóm hàng của doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi; già hóa dân số; sự chống phá của các thế lực thù địch, sự gia
tăng căng thẳng tranh chấp biển đảo, biến đổi khí hậu nhất là ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long…
3. Nguyên nhân
Thứ nhất, hạn chế, bất cập trong nhận thức lý luận về đảng cầm quyền, nội dung,
phương thức cầm quyền của Đảng.


Mặc dù Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng hơn 91 năm,
trong đó có hơn 75 năm cầm quyền; tuy nhiên, khái niệm về đảng cầm quyền, nội
dung, phương thức cầm quyền của Đảng dường như vẫn là vấn đề cịn mới mẻ, thậm
chí trong một thời gian dài, vấn đề này không được đặt ra nghiên cứu một cách bài
bản, đúng mức.
Hiện nay, trong Đảng vẫn có những ý kiến khác nhau về chức năng lãnh đạo và
cầm quyền của Đảng. Có ý kiến cho rằng, lãnh đạo là nói đến chức năng, nhiệm vụ
xuyên suốt của Đảng. Đảng lãnh đạo cả trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và
cả sau khi giành được chính quyền. Theo đó, nội hàm khái niệm “Đảng lãnh đạo” rộng
hơn nội hàm khái niệm “Đảng cầm quyền”. Có ý kiến khác lại cho rằng, khái niệm
“Đảng lãnh đạo” khơng gắn với quyền lực chính trị, đó chỉ là sự tác động, định hướng,
tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tạo ảnh hưởng của Đảng đối với hệ thống chính
trị và quần chúng nhân dân. Có ý kiến đi sâu hơn về học thuật thì cho rằng, nói “Đảng
cầm quyền” là đề cập đến quyền lực chính trị của Đảng sau khi giành được chính
quyền, nghĩa là vai trị lãnh đạo, kỹ năng lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền nhà

nước.
Thứ hai, hạn chế, bất cập trong xây dựng chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Một số chủ trương, nghị quyết của các cấp ủy do các cơ quan tham mưu đề xuất
chưa thực sự được nghiên cứu, tổng kết thực tiễn kỹ lưỡng; chưa đánh giá, dự báo
những tác động, ảnh hưởng một cách đầy đủ, khoa học. Hiện nay, chưa có quy định cụ
thể về việc lấy ý kiến của nhân dân tham gia đóng góp xây dựng các chủ trương, nghị
quyết. Tương tự như vậy, một số chính sách cơng mới chỉ được ban hành dựa trên
những nhận thức và mong muốn chủ quan của các cơ quan quản lý nhà nước, sự tham
gia đề xuất và góp ý của người dân và doanh nghiệp với tư cách là đối tượng thụ
hưởng, chịu sự tác động của chính sách cịn rất hạn chế
Thứ ba, hạn chế, bất cập trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách
mạng, chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới để phục vụ
việc hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng, tăng cường sự nhất trí
về chính trị, tư tưởng trong xã hội
Thứ tư, hạn chế, bất cập về cán bộ và công tác cán bộ, đảng viên của Đảng
Nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đơng nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa
thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế…
Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, những nhà khoa học và chuyên gia đầu



×