Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

BÀI TẬP LỚN Môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ĐỀ BÀI Phân tích vai trò lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Em hãy nêu nhận thức của mình về vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.71 KB, 14 trang )

lOMoARcPSD|11346942

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
---o0o---

BÀI TẬP LỚN
Môn : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
ĐỀ BÀI : Phân tích vai trị lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng Tháng
Tám năm 1945. Em hãy nêu nhận thức của mình về vai trị lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay

Họ tên

: Trần Thị Cẩm Linh

Mã sinh viên

: 11202299

Lớp học phần

: LLDL1102_12

Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Hữu Công

HÀ NỘI - 9/2021
MỤC LỤC

Trang




lOMoARcPSD|11346942

MỞ ĐẦU ……………………………………………………………….…1
I. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với thắng
lợi
của
cách
mạng………………………………………………………...1
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin…………………………………..1
2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh………………………………….2
II. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Cách mạng Tháng Tám năm 1945……2
1. Bối

cảnh

lịch

sử

giai

đoạn

1939-

đường


lối

1945……………………………………..2
2. Lãnh

đạo

về

mặt

………………………………………………..3
3. Lãnh

đạo

về

mặt

thực

hiện

………………………………………………..4
III. Nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay……7
1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ………………….7
2. Trách nhiệm của bản thân………………………………………………10
KẾT LUẬN ………………………………………………………………12

TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc
gia Sự Thật, 2021, t.I
(2) Hồ Chí Minh : Tồn tập , Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật , Hà Nội,
2011
(3) Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam


lOMoARcPSD|11346942

MỞ ĐẦU
Trải qua thời kì tranh đấu mãnh liệt, giành giật sự sống dân tộc trước bàn tay thơn
tính của các Đế Quốc trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với mục tiêu
tối cao là lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam đánh đánh đuổi bè lũ thực dân đế quốc
cùng sự tàn bạo bóc lột của chúng ra khỏi bờ cõi quốc gia và xây dựng đất nước
độc lập, đi lên định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, giúp đồng bào ấm no hạnh phúc.
Vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được bạn bè quốc tế công nhận, được nhân
dân tin tưởng là ngọn hải đăng soi sang đường đi cho nhân dân lao động và cho
toàn thể dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, cách mạng Tháng Tám (1945) đã khẳng định
vai trò quan trọng của Đảng trong việc đề ra đường lối giải phóng dân tộc đúng
đắn, tập hợp đoàn kết lực lượng của toàn dân tộc và phương pháp đấu tranh thích
hợp tạo nên sức mạnh tổng hợp, đồng thời động viên nhân dân cả nước giành thắng
lợi.
I. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với thắng lợi của cách mạng.
1.Quan niệm của Chủ nghĩa Mác-Lênin
Vladimir Ilych Lenin là người sáng lập và dẫn dắt Đảng Bơnsêvích Nga tiến đến
sự thắng lợi vang dội và hào hùng của Cách mạng Tháng Mười, tạo một sự cổ vũ
to lớn đối với giai cấp cơng nhân trên tồn thế giới. Sự kế thừa và đóng góp phát
triển chủ nghĩa Mác của Lênin thể hiện qua các luận điểm chính sau: Một là, trong

sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin nhấn mạnh rằng : Đảng ln ln giữ
vai trị lãnh đạo trong hệ thống chính trị chuyên chính của giai cấp vơ sản. Thiếu đi
vai trị thiêng liêng và cao quý ấy của Đảng, cuộc đấu tranh cách mạng của quần
chúng nhân dân lao động nói riêng và của giai cấp vơ sản nói chung chắc chắn sẽ
khơng thể thành công.Hai là, về vấn đề thành lập nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa,
Lênin khẳng định rằng, bộ máy nhà nước phải do giai cấp vô sản đứng đầu và trực
tiếp điều hành là tiên quyết để xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Ba là, khi tiến hành
xây dựng chế độ mới, xã hội chủ nghĩa, phải tật hợp toàn bộ lực lượng quần chúng
nhân dân.V.I. Lênin đã từng tuyên bố: “Hãy cho chúng tôi một tổ chức những
người cách mạng, chúng tôi sẽ đảo lộn nước Nga”. Tổ chức những người cách
mạng mà Lênin nói đến đó là “một đảng kiểu mới, thực sự cách mạng và thực sự
cộng sản". Bởi theo Người “chỉ có Đảng Cộng sản, nếu nó thực sự là đội tiền
phong của giai cấp cách mạng, nếu nó bao gồm tất cả những đại biểu ưu tú nhất
của giai cấp đó, nếu nó gồm tất cả những chiến sĩ cộng sản hồn tồn có ý thức và
trung thành, có học vấn và được tơi luyện bằng kinh nghiệm đấu tranh cách mạng
bền bỉ; nếu nó biết gắn liền toàn bộ với cuộc sống của giai cấp mình và thơng qua
giai cấp đó, gắn liền với tất cả quần chúng bị bóc lột và biết làm cho giai cấp và
quần chúng đó tin tưởng hồn tồn vào mình.”

1


lOMoARcPSD|11346942

2. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tiếp thu những lý tưởng mang hàm ý sâu sắc từ V.I. Lê-nin và học tập những điểm
mạnh của Cách mạng Tháng Mười Nga, nhưng người thanh niên cộng sản Nguyễn
Ái Quốc khơng sao chép hồn tồn chủ nghĩa Mác - Lênin, mà Người tiếp thu
những tinh hoa tinh túy nhất của chủ nghĩa, đồng thời thêm thắt và sửa đổi sao cho
hợp với tình hình nước ta lúc bây giờ. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa Mác Lê-nin là “cẩm nang thần kỳ” nhưng Người chưa từng quá lạm dụng nó mà thậm

chí cịn ln ln nhấn mạnh rằng cần phải vận dụng một cách sáng tạo cái "cẩm
nang thần kỳ" đó. Trong cuộc phỏng vấn với báo Nhân đạo (L'Humanite') vào ngày
15-7-1969, Người khẳng định: "Về phần chúng tơi, chính là do cố gắng vận dụng
những lời dạy của Lê-nin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế
Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được những thắng lợi to
lớn như đồng chí đã biết. Chúng tơi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố,
nhưng cần phải nhấn mạnh rằng - mà không chỉ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày
sinh Lê-nin - chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết nhờ cái vũ khí
khơng gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lê-nin". Đứng trước thực tiễn phát triển
đất nước, trong bối cảnh thế giới đang biến động sâu sắc và mãnh liệt, điều Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định vẫn bao hàm những ý nghĩa cực kì quan trọng và
thiết thực.
II. Sự lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945
1. Bối cảnh lịch sử giai đoạn 1939-1945
1.1. Tình hình thế giới
Ngày 1-9-1939,chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phát xít Đức lần lượt chiếm
các nước châu Âu. Đế quốc Pháp lao vào vịng chiến. Chính phủ Pháp đã thi hành
biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc
địa, mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ, Đảng cộng sản Pháp bị đặt ra ngồi vịng pháp
luật.
Tháng 6- 1940, Đức tấn cơng Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Ngày 22-61941, qn phát xít Đức tấn cơng Liên Xơ. Từ khi Phát xít Đức xâm lược Liên Xơ,
tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ
do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.
1.2. Tình hình trong nước
Chiến tranh thể giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến Đông Dương
và Việt Nam. Ngày 28-9-1939, Tồn quyền Đơng Dương ra nghị định cấm tun
truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đơng
Dương ra ngồi vịng pháp luật, giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài
sản của các tổ chức đó, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập
đông người. Trong thực tế, ở Việt Nam và Đơng Dương, thực dân Pháp đã thi hành

chính sách thời chiến rất trắng trợn.
Chúng phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của
nhân dân, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
2


lOMoARcPSD|11346942

Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940 phát xít Nhật đã tiến vào Lạng sơn
và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng
Nhật. Từ đó, nhân dân ta chịu cảnh một cổ hai trịng áp bức, bóc lột của Pháp Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta và đế quốc, phát xít Pháp — Nhật trở nên gay gắt
hơn bao giờ hết.
2. Lãnh đạo về mặt đường lối
Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra ( 1- 9- 1939), với tầm nhìn chiến lược đúng
đắn, Đảng đã nhận đinh: “ Nếu như chiến tranh thế giới lần thứ nhất đẻ ra một
Liên xơ thì chiến tranh lần này đẻ ra nhiều Liên xơ, ta cần tích cực chuẩn bị về mọi
mặt, đón đợi thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền”. Trên cơ sở nhận thức sáng
suốt đó, Đảng đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đưa nhiệm vụ chống đế quốc,
giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Chủ trương này của Đảng từng bước được hoàn
chỉnh sau qua ba hội nghị Ban chấp hành TW Đảng : Hội nghị TW lần thứ 6 (111939) ; Hội nghị cán bộ Đảng (11-1940) ; Hội nghị TW lần thứ 8 (5-1941). Các
Hội nghị này đã giải quyết đúng đắn những vấn đề cơ bản sau :
Thứ nhất, xác định đúng mâu thuẫn chủ yếu và gay gắt của xã hội Việt nam lúc này
là giữa nhân dân ta với bọn đế quốc Nhật – Pháp phải tập trung lực lượng đánh đổ
chúng, giành chính quyền, bởi vì dưới hai tầng áp bức Nhật-Pháp, “ quyền lợi tất
cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng”
Thứ hai, về mối quan hệ dân tộc - giai cấp. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng liên
quan đến sự thành bại của cách mạng. Vấn đề này nếu được giải quyết đúng đắn,
khoa học thì sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy cách mạng tiến lên khơng
ngừng, cịn giải quyết khơng đúng sẽ gây tác hại to lớn cho phong trào cách mạng
nước nhà. Với kinh nghiệm thu được qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng đã tự

mình vượt lên và có nhận thức mới rất đúng đắn : "Trong lúc này quyền lợi của bộ
phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc.
Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng thì chẳng
những tồn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ
phận, giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được" .
Thứ ba, mối quan hệ dân tộc - dân chủ ( giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến). Vấn đề này Đảng ta chỉ rõ: Đây là 2 nhiệm vụ chủ yếu có quan hệ
mật thiết với nhau trong cách mạng dân tộc, dân chủ. Tuy nhiên trong điều kiện
chiến tranh cần phải tập trung vào nhiệm vụ chống đế quốc giải phóng dân tộc.
Đảng chỉ rõ: "Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại, không phải là cuộc cách
mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và
điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải
phóng, vậy thì cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là cuộc cách mạng
dân tộc giải phóng".“Chưa chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền mà chủ
trương làm cách mạng giải phóng dân tộc”.“Đứng trên lập trường giải phóng dân
tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả
vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”. Khẩu hiệu
“cách mạng ruộng đất” phải tạm gác và thay bằng các khẩu hiệu chống địa tô cao,
chống cho vay lãi nặng, tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền
3


lOMoARcPSD|11346942

lợi dân tộc chia cho dân cày, chia lại ruộng đất công...Như vậy trong khi giải quyết
mối quan hệ dân tộc – dân chủ lúc này Đảng đã đặt nhiệm vụ dân tộc ( chống đế
quốc) lên hàng đầu.
Thứ tư, quan hệ dân tộc - quốc tế. Đảng chỉ rõ: chiến tranh lần này sẽ tạo điều kiện
để cách mạng nhiều nước thành công, Đảng và nhân dân ta cần phải tranh thủ mọi
sự giúp đỡ quốc tế (với Mỹ) và tích cực, chuẩn bị mọi mặt để khi tình hình quốc tế

thuận lợi kịp thời khởi nghĩa giành chính quyền với tinh thần: muốn người giúp
cho trước hết mình phải tự giúp mình. Phân tích tình hình lúc này lãnh tụ Hồ Chí
Minh dự báo năm ‘‘bốn lăm cách mạng thành công’’. Đảng chủ trương giải quyết
vấn đề dân tộc trong từng nước Đơng Dương, thi hành chính sách ‘‘dân tộc tự
quyết ’’ của Lê nin và thành lập ở mỗi nước Đông dương một Mặt trận riêng trực
tiếp lãnh đạo cách mạng mỗi nước.
Thứ năm, chủ trương ra sức xây dựng lực lượng để chuẩn bị khởi nghĩa giành
chính quyền, coi khởi nghĩa giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm. Chủ trương
xây dựng, củng cố, phát triển mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp lực lượng
chống đế quốc và tay sai (thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế , Mặt trận
Việt minh…). Nêu lên phương pháp giành chính quyền: khởi nghĩa từng phần,
giành chính quyền từng địa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trên tồn quốc, bằng lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu trên tinh thần:
đem sức ta mà giải phóng cho ta; dù phải hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả
dãy Trường sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.
Thứ sáu, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung
cả tồn thể dân tộc” ;‘‘chính phủ dân chủ cộng hịa”. Như vậy, từ Cương lĩnh chính
trị đầu tiên (3- 2- 1930) đến Luận cương chính trị tháng 10 -1930 và các Hội nghị
Trung ương trong các giai đoạn 1930 – 1935; 1936 – 1939; 1939 – 1945 nhất là
Hội nghị Trung ương 8 ( tháng 5 - 1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì,
đường lối đấu tranh của Đảng được xây dựng, bổ sung, hồn chỉnh, góp phần
quyết định vào thắng lợi của cơng cuộc giành chính quyền, làm nên thành công vĩ
đại của cách mạng tháng 8 – 1945.
3. Lãnh đạo về tổ chức thực hiện
Xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng cách mạng
Thắng lợi của cách mạng không tự đến, phải chuẩn bị và giành lấy nó. Ngay từ khi
mới ra đời, với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ lực lượng và sức
mạnh của cả dân tộc, làm nên một cao trào cách mạng rộng lớn trong phạm vi cả
nước, huy động đông đảo quần chúng tham gia, với những hình thức đấu tranh

phong phú đa dạng, làm rung chuyển trận địa của chủ nghĩa đế quốc ở nông thơn.
Lực lượng chính trị được tạo ra từ đó - Cao trào cách mạng 1930-1931.
Khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ (1/9/1939), Đảng chủ trương chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ chống đế quốc và bọn Việt gian tay sai để
giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị Trung ương 6 (11/1939) xác định: “Cần
tiếp tục lợi dụng khả năng hoạt động công khai, nửa công khai để tranh thủ quần
4


lOMoARcPSD|11346942

chúng bằng cách xây dựng các tổ chức hợp pháp đơn giản, đồng thời lập công hội,
nông hội, thanh niên phản đế, phụ nữ phản đế hoạt động bí mật nhằm vào mục đích
dự bị những điều kiện bước tới bạo động giành chính quyền”. Đến tháng 11/1940,
Hội nghị Trung ương 7 nhận định một cao trào cách mạng sẽ nổi dậy, Đảng phải
chuẩn bị để giành lấy sứ mệnh thiêng liêng lãnh đạo các dân tộc bị áp bức ở Đông
Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập. Hội nghị quyết định duy
trì lực lượng vũ trang của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940) và xây dựng căn
cứ địa cách mạng; quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỹ vì chưa đủ điều kiện
giành thắng lợi.
Đặc biệt, cuối năm 1940, đầu năm 1941, trước những chuyển biến mới của tình
hình trong nước và trên thế giới, từ xu thế phát triển của phong trào quần chúng và
nhu cầu của cách mạng, Hội nghị Trung ương 8 (5/1941) chủ trương tăng cường
hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc, nhằm tập hợp tất cả mọi giai cấp, mọi tầng lớp,
mọi đảng phái, mọi thành phần dân tộc, mọi cá nhân, tất cả những ai có tinh thần
cách mạng, yêu nước, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn đế quốc Pháp, phát xít
Nhật cùng bè lũ tay sai của chúng. Hội nghị quyết định thành lập “Việt Nam độc
lập đồng minh” (Việt Minh) thay thế cho “Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế
Đông Dương”. Hội nghị nêu rõ, trước hết phải mở rộng và củng cố các tổ chức
chính trị của quần chúng như: “Hội cơng nhân cứu quốc”,“Hội nơng dân cứu

quốc”,“Đồn thanh niên cứu quốc”,“Hội phụ nữ cứu quốc”,“Hội phụ lão cứu
quốc”… tại khắp các địa phương. Cũng tại Hội nghị này, Trung ương Đảng ra nghị
quyết thành lập các đội tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu (tổ du kích) làm cơ sở cho
đấu tranh ở địa phương, cũng như Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước. Tháng
12/1941, Hồ Chí Minh thành lập Đội vũ trang Cao Bằng, tự tay soạn thảo “Mười
điều kỷ luật” và những nguyên tắc cơ bản xây dựng quân đội.
Khi phong trào cách mạng phát triển, với chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang
ba thứ quân, nhằm đẩy mạnh hình thức đấu tranh quân sự, tháng 12/1944, Hồ Chí
Minh ra Chỉ thị thành lập “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”: Chọn lọc
trong số hàng ngũ du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng
hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội quân chủ lực. Ngay sau
khi ra đời, đội quân chủ lực đầu tiên của cách mạng đã đánh thắng liên tiếp hai trận
ở Phai Khắt (ngày 25/12/1944) và Nà Ngần (ngày 26/12/1944) thuộc tỉnh Cao
Bằng. Phát huy thắng lợi đầu tiên, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đẩy
mạnh vũ trang tuyên truyền, kết hợp chính trị và quân sự, xây dựng cơ sở cách
mạng, góp phần củng cố và mở rộng khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng, cổ vũ và thúc
đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng quần chúng trong cả nước.
Xây dựng căn cứ địa
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như nhiều học giả quân sự trên
thế giới đều cho rằng, hậu phương - căn cứ địa cách mạng giữ một vai trị vơ cùng
quan trọng đối với khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. Đặc biệt, khi
cách mạng phát triển chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền, việc xây
dựng căn cứ địa để phát triển lực lượng đấu tranh trở thành nhiệm vụ cấp bách đối
5


lOMoARcPSD|11346942

với những người cộng sản.Từ việc khẳng định vai trò quan trọng của căn cứ địa
cách mạng, Đảng chỉ ra những tiêu chí cơ bản để chọn và xây dựng căn cứ địa cách

mạng. Trước tiên, căn cứ địa phải là một nơi có điều kiện địa lý thuận lợi. Cụ thể là
địa hình phải hiểm trở, địa thế phải hiểm yếu, thuận lợi cho cách đánh du kích và
mở rộng địa bàn hoạt động ra các vùng lân cận.Sau điều kiện địa lý, căn cứ địa
cách mạng phải là nơi có điều kiện về kinh tế. Nếu bị địch bao vây, phong toả, thì
có khả năng tự cung cấp đầy đủ những nhu cầu kinh tế cần thiết.Với quan điểm đó,
từ năm 1940 đến năm 1945, Đảng đã tích cực chỉ đạo xây dựng và củng cố các căn
cứ địa cách mạng. Hội nghị Trung ương 7 của Đảng (11/1940) chủ trương thành
lập các căn cứ du kích, lấy Bắc Sơn - Võ Nhai làm trung tâm. Cuối năm 1940,
Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh lựa chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ
địa cách mạng. Đến Hội nghị Trung ương 8 (5/1941) quyết định duy trì và phát
triển các căn cứ du kích Bắc Sơn, Võ Nhai, đồng thời ra sức củng cố và mở rộng
căn cứ địa Cao Bằng. Sau khi xây dựng các căn cứ Cao Bằng, Bắc Sơn, Võ Nhai,
chỉ trong một thời gian ngắn, chúng ta đã xây dựng được một vùng căn cứ địa Việt
Bắc rộng lớn, bao gồm hầu hết các vùng nông thôn thuộc sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc
Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, cùng nhiều chiến khu và
căn cứ vũ trang khác. Đây thực sự là những nơi trọng yếu chỉ đạo quá trình xây
dựng, phát triển lực lượng cách mạng, là những trung tâm đầu não lãnh đạo lực
lượng khởi nghĩa trên phạm vi tồn quốc.
Nắm bắt chính xác thời cơ; dũng cảm , kiến quyết, lãnh đạo nhân dân đứng lên
khởi nghĩa dành chính quyền
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Lúc này, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
đang họp và nhanh chóng đưa ra những nhận định về thời cơ khởi nghĩa đang đến
rất gần: “những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín
muồi”; và ra Chỉ thị: “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đảng
quyết định phát động cao trào kháng Nhật cứu nước. Khi Chiến tranh thế giới lần
thứ hai kết thúc, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (14 và 15/8/1945)
quyết định phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay
phát xít Nhật trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương.
Ngày 16/8/1945,Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: “…Giờ
quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem

sức ta mà tự giải phóng cho ta…chúng ta khơng thể chậm trễ”. Cả dân tộc ta theo
tiếng gọi của Người, nhất tề đứng lên khởi nghĩa, chỉ trong gần một tháng, tất cả
các địa phương trong cả nước đã giành được thắng lợi, thành lập chính quyền nhân
dân. Có thể khẳng định, thành công vang dội của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 có vai trị to lớn của nhân tố khách quan. Bởi nếu khơng có cuộc đảo chính
của Nhật, khơng có thắng lợi của lực lượng đồng minh chống phát xít để Nhật đầu
hàng vơ điều kiện thì cách mạng Việt Nam sẽ không thể dễ dàng thành công.
Nhưng dù điều kiện khách quan có thuận lợi đến đâu đi chăng nữa mà khơng có sự
chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, khơng dự đốn đúng thời cơ và kịp thời chớp lấy
thời cơ phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền, thì cuộc khởi nghĩa cũng
6


lOMoARcPSD|11346942

khơng thể bùng nổ, hoặc nếu có nổ ra thì cũng dễ thất bại. Nhờ có sự chuẩn bị chu
đáo, lại nổ ra đúng thời cơ (từ ngày 14 đến 28/8/1945), Cách mạng Tháng Tám đã
giành được thắng lợi nhanh, gọn, ít đổ máu. Đó là một điển hình về nghệ thuật tạo
và chớp thời cơ trong cách mạng giải phóng dân tộc.
Kết quả và ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân
dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt
Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ra đời Nhà nước cơng nơng đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong
kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực
dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nơ lệ trở thành người dân một nước
độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt
Nam trở thành một Đảng cầm quyền.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng
tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ

Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công
đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây cịn là q
trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh
cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc
hịa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại
vì hịa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Có thể khẳng định, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kết hợp
chặt chẽ đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng với trí sáng tạo, tinh thần dũng
cảm và sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta. Kết hợp với các lực lượng dân chủ nói
chung trên tồn thế giới chống chủ nghĩa đế quốc. Vì thời cơ cách mạng xuất hiện
như một tất yếu, lịch sử đưa quần chúng đến ngưỡng cửa của khởi nghĩa giành
chính quyền rồi trơi đi một cách nhanh chóng. Nếu Đảng tiên phong khơng chuẩn
bị đầy đủ, khơng kịp thời chớp lấy thời cơ thì dù điều kiện khách quan có thuận lợi
đến đâu cách mạng cũng không nổ ra được.
III. Nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
1. Bối cảnh lịch sử của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Thực tiễn cho thấy, khơng có Đảng Cộng sản Việt Nam thì khơng có cơng cuộc đổi
mới, khơng có sự lãnh đạo sáng suốt của Ðảng Cộng sản Việt Nam thì khơng có
được cơng cuộc đổi mới theo định hướng đúng đắn. Sau 35 năm thực hiện công
7


lOMoARcPSD|11346942

cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu
toàn diện, to lớn và quan trọng. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và
tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình,
đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bộ mặt đất

nước, đời sống của nhân dân thật sự thay đổi; dân chủ được phát huy và mở rộng;
đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường.“Đất nước chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Đây là niềm tự hào, là động
lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt
qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn
diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Nếu như giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP bình quân
hằng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 1996-2000, tốc độ tăng GDP đạt 6,8%. Mặc
dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc
độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu
vực, thế giới. Quy mô GDP tăng gấp 2,4 lần, từ 116 tỷ USD năm 2010 lên 268,4 tỷ
USD vào năm 2020. GDP bình quân đầu người tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên
khoảng 2.750 USD năm 2020. Trong 10 năm trở lại đây, thị trường xuất khẩu được
mở rộng theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa. Việt Nam đã xuất khẩu hàng hóa
đến hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, chủ động từng bước chuyển dịch sang các
nước có trình độ phát triển cao và cơ cấu hàng hóa nhập khẩu có tính bổ sung cho
cơ cấu hàng hóa trong nước.Việt Nam hiện là một trong 10 nền kinh tế có độ mở
cửa thị trường lớn nhất thế giới với tỷ trọng xuất nhập khẩu/GDP tăng liên tục qua
các năm (từ 136% năm 2010 lên xấp xỉ 200% vào năm 2019).Trong bối cảnh dịch
COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế thế giới,
hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam 11 tháng năm 2020 vẫn đạt mức
xuất siêu kỷ lục lên tới 20,1 tỷ USD.
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, đẩy mạnh hợp tác và phát
triển với các nước trên trường quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước. Hiện nay, Việt
Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như APEC, ASEAN, Liên Hợp
Quốc, … mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội về giao lưu kinh tế, chính trị, xã hội
đối với các quốc gia trên thế giới.
Năm 2020, dư luận quốc tế đã đánh giá rất cao cơng tác phịng, chống đại dịch
Covid-19 tại Việt Nam, ngay cả những ngày đầu năm 2021, mặc dù tại một số địa
phương lại xuất hiện những ca nhiễm Covid-19 mới, nhưng các chuyên gia, học

giả và truyền thông quốc tế vẫn bày tỏ tin tưởng về vai trò lãnh đạo Đảng và tin
rằng, Việt Nam sẽ tiếp tục vượt qua được đại dịch, gặt hái thành cơng trong trạng
thái “bình thường mới”.Ba làn sóng dịch bệnh Covid-19 đã diễn ra tại Việt Nam từ
đầu năm 2020 đến nay đã được Đảng và Nhà nước, Chính phủ cùng các cấp các
ngành, các địa phương hành động kịp thời và kiểm sốt tình hình các vùng dịch tốt
8


lOMoARcPSD|11346942

nhằm giảm thiểu tối đa sự lây lan nhanh chóng của biến thể mới đang đe dọa đến
tính mạng cộng đồng. Sự thành cơng trong kiểm sốt tình hình dịch Covid-19 là
nhờ vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam “chống dịch như
chống giặc”, nhờ sự điều hành kịp thời của Chính phủ theo Chỉ thị số 15 và 16 về
giãn cách, cách ly xã hội cũng như kết hợp với sức mạnh đoàn kết, đồng lịng của
tồn dân, các bộ, ban, ngành từ Trung ương và địa phương, đó là sức mạnh to lớn
của thể chế chính trị ở nước ta .Làn sóng dịch bệnh Covid-19 lần thứ tư này đang
là mối đe dọa nghiêm trọng đến tình hình các nước, trong đó có Việt Nam, với mức
độ lây lan mạnh do chủng biến thể mới Delta gây ra. Tính đến ngày 22/9, cả nước
thêm 11.527 ca mắc Covid-19 nhưng số bệnh nhân được xuất viện đã tăng lên, số
ca tử vong cũng giảm xuống.Trước những diễn biến phức tạp của dịch bệnh, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Quốc hội, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 đã thường
xuyên chỉ đạo sát sao, quyết liệt, chủ động, kịp thời thực hiện các biện pháp mạnh
mẽ, quyết liệt để phòng, chống, ngăn chặn dịch bệnh. Tư tưởng nhất quán, xuyên
suốt "chống dịch như chống giặc", kiên định thực hiện “mục tiêu kép” phòng,
chống dịch hiệu quả đồng thời phát triển kinh tế, chăm lo đời sống, bảo vệ sức
khoẻ nhân dân, đã huy động được sự vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân, tồn
qn.Điều đó ngày càng khẳng định rõ vị thế và vai trò tất yếu của sự lãnh đạo của
Ðảng đối với hệ thống chính trị và trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và có
ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu
thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong thời gian tới, với
hướng đi đúng đắn, hợp quy luật, ý chí vươn lên mãnh liệt, tinh thần đổi mới sáng
tạo và quyết tâm chính trị cao, đất nước ta nhất định sẽ lập nên kỳ tích phát triển
mới, sẽ bước vào một giai đoạn phát triển mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, cơng bằng, văn minh”.
Trong khi đó, dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng, rất đáng tự hào, nhưng đất
nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế. Tăng trưởng kinh
tế chưa tương xứng với tiềm năng; 4 năm đầu của nhiệm kỳ liên tục tăng trưởng
cao, nhưng năm 2020 bị suy giảm mạnh do tác động tiêu cực của dịch bệnh và
thiên tai, hạn hán, bão lũ liên tiếp xảy ra. Tính tự chủ và khả năng chống chịu của
nền kinh tế chưa cao. Kinh tế tập thể, hợp tác xã phần lớn có quy mơ nhỏ, năng lực
nội tại còn yếu. Hiệu quả hoạt động của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp.
Kinh tế tư nhân trong nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi phát triển nhanh
nhưng chưa bền vững. Cơng tác lãnh đạo, quản lý, bảo đảm an ninh con người, trật
tự, an toàn xã hội; sử dụng tài nguyên, bảo vệ mơi trường cịn nhiều bất cập, gây
bức xúc xã hội. Các thế lực thù địch chống phá ngày càng ác liệt. Đấu tranh bảo vệ
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều thách thức. Giá trị lịch sử, truyền
thống văn hóa của dân tộc và con người Việt Nam chưa được phát huy đầy đủ.
9


lOMoARcPSD|11346942

Năng lực tổ chức thực hiện còn hạn chế; chất lượng luật pháp, chính sách trong
một số lĩnh vực cịn thấp. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của nhiều tổ chức

đảng, đảng viên còn chưa ngang tầm nhiệm vụ. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong
Đảng, Nhà nước chưa thật đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Việc thể
chế hóa, cụ thể hóa một số nghị quyết của Đảng còn chậm; tổ chức thực hiện vẫn
là khâu yếu. Những khó khăn, hạn chế và khuyết điểm đó địi hỏi chúng ta phải có
quyết tâm cao, nỗ lực lớn và hành động quyết liệt hơn nữa để khắc phục cho bằng
được. Tuyệt đối không được chủ quan, tự mãn, mất cảnh giác.
2.Trách nhiệm của bản thân
Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị đã có
một phương pháp mới nhằm chóng phá Đảng và Nhà nước, gọi là chiến lược “diễn
biến hịa bình”. Chiến lược “Diễn biến hịa bình” là chiến lược cơ bản của thế lực
thù địch nhằm lật đổ chế độ chính trị-xã hội của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa từ
bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự. Chúng bôi nhọ Đảng ta bằng
những lời lẽ xuyên tạc, vô căn cứ; bôi nhọ danh dự của những nhà lãnh đạo lỗi lạc
nhằm khiến lịng dân hỗn loạn, dẫn đến mất đồn kết trong nhân dân. Để không rơi
vào bẫy của các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội, cần đẩy
mạnh công tác đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, những lời lẽ bôi nhọ danh dự
của Đảng và Nhà nước; đồng thời, cũng cần phải đẩy mạnh công tác dự báo nhằm
chặn đầu âm mưu phản động của những phần tử bất hảo. Đó là nhiệm vụ thường
xuyên, quan trọng của tất cả các cấp, từ trung ương đến địa phương nhằm góp phần
ngăn chặn và đẩy lùi những lời lẽ khơng có căn cứ và sai sự thật của các thế lực
thù địch, là nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Trước khi diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt
Nam, các thế lực thù địch, các phần tử phản động ở trong nước và quốc tế càng có
những động thái thâm hiểm và phức tạp nhằm chống phá Đảng và Nhà nước.
Trọng tâm của sự chống phá là những lời lẽ xun tạc, những phát ngơn mang tính
hạ thấp, bôi nhọ danh dự của Đảng và Nhà nước về những mục tiêu, lý tưởng và
định hướng đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội, đường lối phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và quan trọng nhất là sự lãnh đạo của Đảng và công
tác nhân sự đại hội đảng các cấp... nhằm hạ thấp uy tín, danh dự và thành tựu cách
mạng của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Thủ đoạn chống phá, xuyên tạc của các

thế lực thù địch tập trung vào những nội dung sau: chống phá nền tảng tư tưởng,
Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; sử
dụng các trang mạng xã hội như một cơng cụ để tun truyền, xun tạc, bóp méo
sự thật về cuộc đấu tranh chống tham nhũng của nước ta; tun truyền những nội
dung xấu, độc, trá hình, bới móc, thổi phồng, xuyên tạc những sai lầm, khuyết
điểm hoặc lợi dụng những hạn chế, thiếu sót trong quản lý nhà nước để vu khống,
bơi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trị của các cấp ủy, chính quyền địa phương. Một sự
việc hết sức đáng lưu tâm là gần đây, một số tài liệu chống đối trắng trợn, xuyên
tạc lịch sử cùng với những luận điệu hết sức phản động đã bắt đầu len lỏi xuất hiện
trong xã hội; số phần tử bất hảo đã bóp méo sự thật về các điều luật của Đảng và
10
Downloaded by Quang Tr?n ()


lOMoARcPSD|11346942

Nhà nước đề ra, đòi Đảng phải từ bỏ quyền lãnh đạo, bác bỏ con đường xã hội chủ
nghĩa, đòi thực hiện đa nguyên, đa đảng ở Việt Nam theo quan điểm của phương
Tây nhằm gây tâm lý hoang mang cho đồng bào ta với mưu đồ làm mất lòng tin
của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.
Trong những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt công tác đấu tranh phản
bác các quan điểm sai trái, thù địch là một trong những nhiệm vụ cốt lõi nhằm bảo
vệ nền tảng tư tưởng, đường lối lãnh đạo của Đảng. Chính vì lẽ đó, nghị quyết số
35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình
mới đã chỉ ra rằng: “bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, bảo vệ
Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc;
giữ gìn mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước. Đó là nội dung cơ

bản, hệ trọng, sống cịn của cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của toàn Đảng, tồn qn, tồn dân,trong đó các cơ quan thơng tấn,
báo chí là lịng cốt; là cơng việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng,
chính quyền và của cả hệ thống chính trị”.Trong nghị quyết nêu ra tất cả 7 nhiệm
vụ với những giải pháp chủ yếu, chủ yếu tập trung vào việc tiếp tục nâng cao nhận
thức cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân sao cho ngày càng sâu sắc hơn với những
nội dung cơ bản và giá trị to lớn để có thể tự bảo vệ trước những âm mưu thủ đoạn
của địch. Ngoài ra, cần phải đổi mới và nâng cao chất lượng hiệu quả cơng tác giáo
dục chính trị, tư tưởng; cơng tác tuyên truyền, phổ biến đến các tầng lớp nhân dân,
đặc là thế hệ trẻ, nhằm nâng cao khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những
quan điểm sai trái, thù địch.
Với tư cách là sinh viên, là người Việt Nam máu đỏ da vàng, là những công dân
trong thời đại mới của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam,chúng em rất
biết ơn Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo, dẫn dắt dân tộc trải qua bao khó khăn gian
khổ để đến với ngày hơm nay,để chúng em có một cuộc sống ấm no hạnh phúc,
không phải lo sợ vì mạng sống bị chèn ép, bị đe dọa. Tuy rằng hiện tại đất nước đã
khơng cịn chiến tranh, nhưng các phần tử bất hảo vẫn luôn luôn lợi dụng những kẽ
hở nhỏ nhất để thực hiện những âm mưu chống phá Đảng và Nhà nước. Chính vì lẽ
đó, là cơng dân của nước Cộng Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, chúng em cần
phải bảo vệ đất nước của mình như chính người cha anh đi trước, những người đã
không tiếc máu thịt để cho chúng em những ngày bình n hơm nay. Vậy để bảo vệ
được đất nước tươi đẹp của mình, chúng em cần phải làm gì? Trước hết cần phải
nâng cao nhận thức của bản thân về vai trò của Đảng, cần phải hiểu những chỉ thị
và đường lối của Đảng là đúng đắn và là những hướng phát triển tốt nhất cho đất
nước. Ngoài ra, cần góp sức vào việc tuyên truyền và nâng cao nhận thức của cộng
đồng về Đảng và Nhà nước, góp phần nhỏ vào việc chặn đứng những âm mưu của
những kẻ phản động với ý nghĩ lật đổ Đảng. Nếu muốn giữ vững sự yên bình của
đất nước, chúng em cần phải bắt đầu từ chính bản thân chúng em, chỉ có đồn kết
thì mới đánh bại được kẻ thù chung.
11

Downloaded by Quang Tr?n ()


lOMoARcPSD|11346942

Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử nhằm đáp ứng những
nhu cầu trong sự nghiệp làm cách mạng của dân và quân Việt Nam cả trong quá
khứ, hiện tại và tương lai. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
đứng trên cương vị lãnh đạo chủ chốt, là một nhân tố không thể thay thế được của
đất nước. Đất nước dù đã đang trên đà phát triển vẫn cần có những nhân tài với
tấm long nhiệt huyết nắm vai trò lãnh đạo cũng như tuyên truyền nhân dân đồng
lòng để đưa đất nước Việt Nam ngày càng phát triển, đủ khả năng để sánh vai được
với các Cường Quốc năm châu. Và để đạt được điều đó khơng thể thiếu sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một tổ chức ln đặt lợi ích của nhân dân lên
hàng đầu, luôn luôn không ngừng phấn đấu để sự phát triển của dân tộc Việt Nam
ngày càng trở nên mạnh mẽ. Tuy rằng hiện đang là thời bình, Đảng vẫn phải đoàn
kết để tham chiến với các chuyển biến của xã hội hiện đại, có gắng hết sức để Việt
Nam có thể theo cùng nhịp đập của thế giới đồng thời bảo vệ và chăm lo cho
miếng ăn manh áo của nhân dân. Thế hệ chúng em luôn thấy tự hào và biết ơn về
sự lãnh đạo sáng suốt Đảng với tầm nhìn xa trơng rộng, những đường lối chính
sách hợp với thời đại để đưa đất nước đến với sự vinh quang của độc lập dân tộc
cùng với sự phát triển vượt bậc của đất nước Việt Nam thân yêu hiện nay.

KẾT LUẬN
Thành quả vĩ đại của dân tộc, của đất nước ta trong hơn tám thập kỷ qua gắn liền
với vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng. Thực tế lịch sử đã chứng minh, Đảng
Cộng sản Việt Nam tồn tại và hoạt động vì một mục tiêu duy nhất là đô ̣c lâ ̣p dân
tô ̣c, chủ nghĩa xã hơ ̣i, làm tất cả chỉ vì hạnh phúc, quyền sống, quyền tự do và làm
chủ của nhân dân - đó là một Đảng cách mạng chân chính, là đạo đức, là văn minh.
Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng như thực hiện một trọng trách lịch sử

mà dân tộc và nhân dân giao phó, ủy thác, là nhân tố bảo đảm mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Qua đây, em xin cảm ơn thầy Nguyễn Hữu Cơng , nhờ thầy
mà em có cái nhìn hiểu biết hơn, sâu rộng hơn về vai trị của Đảng đối với cách
mạng Việt Nam và đặc biệt khi làm bài tập lớn này em càng biết ơn và trân trọng
ông cha ta-những người không quản đổ máu xương để đem lại cuộc sống hịa bình
ngày nay. Bài tập lớn này của em cịn rất nhiều thiếu xót, em rất mong nhận được
những lời góp ý từ thầy để bài làm chỉn chu hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

12
Downloaded by Quang Tr?n ()



×