Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

(Tiểu luận) đề lí luận về sản xuất hàng hóa (kinh tế hàng hóa) và vận dụng để phát triển kinh tế hàng hóa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 18 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Viện Ngân hàng-Tài chính

BÀI TẬP LỚN
Học phần: Kinh tế chính trị Mác-Lênin

ĐỀ: Lí luận về sản xuất hàng hóa (kinh tế hàng hóa) và
vận dụng để phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

Sinh viên: Lê Minh Phúc_11225133
Lớp tín chỉ: (222)_32
Giảng viên hướng dẫn: Tô Đức Hạnh

HÀ NỘI – 5/2023


MỤC LỤC
I. LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA:...........................................................2
1.1 Sản xuất hàng hóa:.......................................................................................2
Khái niệm sản xuất hàng hóa.........................................................................2
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:.........................................................2
Sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hóa................................................3
Ưu thế của sản xuất hàng hóa.........................................................................4
Hạn chế của sản xuất hàng hóa:.....................................................................5
1.2 Khái quát về sản xuất hàng hóa ở Việt Nam:..............................................6
Điều kiên ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa Việt Nam trước đổi mới
(1975 – 1986).................................................................................................6
Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa Việt Nam sau thời kỳ đổi
mới (từ năm 1986 đến nay)............................................................................7
II. THỰC TRẠNG CỦA NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA HIỆN NAY TẠI
VIỆT NAM:..........................................................................................................8


2.1 Diễn biến kinh tế những năm gần đây:........................................................8
Diễn biến kinh tế năm 2022:..........................................................................8
Diễn biến kinh tế năm 2023:..........................................................................9
2.2 Đánh giá thực trạng sản xuất hàng hóa tại Việt Nam:...............................10
Ưu thế và những kết quả đạt được của nền sản xuất hàng hóa Việt Nam....10
Những hạn chế và nguyên nhân:..................................................................11
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO SẢN XUẤT HÀNG HÓA Ở VIỆT
NAM:..................................................................................................................12
Đẩy mạnh sản xuất hàng hóa:.......................................................................12
Tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng vật chất, pháp lý và tri thức khoa học cơng
nghệ cho thương mại, dịch vụ:.....................................................................13
Hồn chỉnh cơ sở pháp lý cho tự do hoá kinh doanh, tự do hố thương mại:
......................................................................................................................13
Chủ động và đẩy nhanh q trình hội nhập kinh tế, thương mại khu vực và
quốc tế:.........................................................................................................14
Xây dựng hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT):................................14
Phát triển và đa dạng hóa các kênh phân phối:............................................14
1


I. LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA:
1.1 Sản xuất hàng hóa:
Khái niệm sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà những người sản
xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao dổi, mua bán. Theo kinh tế học Mác
định nghĩa sản xuất hàng hóa là q trình tạo ra sản phẩm sử
dụng của một nhóm người nhằm múc đích chính là trao đổi với
những người đang có nhu cầu sử dụng. Người làm ra sản phẩm
nhưng lại không cần dùng đến những sản phẩm đó mà làm ra
với mục đích chính là bn bán thì được coi là hoạt động sản

xuất hàng hóa. Đây là hoạt động tất yếu được thực hiện trong nền kinh tế.
Thông qua sản xuất, con người tiếp cận được đa dạng các sản phẩm trong nhu
cầu sử dụng. Cũng như thông qua các nhu cầu này mà hoạt động sản xuất được
thúc đẩy.
Nói cách khác, sản xuất hàng hóa hay nền kinh tế là kiểu tổ chức sản xuất
tiếp cận nhu cầu kinh doanh. Trong đó sản phẩm làm ra không phải để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất mà là để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của người khác, được gọi là người tiêu dùng. Được thực hiện thông
qua việc trao đổi, mua bán, xác lập các giao dịch.
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội
lồi người. Nền kinh tế hàng hóa chỉ hình thành và phát triển khi có các điều
kiện sau:
Một là, đã có sự phân cơng lao động xã hội.
Phân cơng lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các
ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Khi đó, mỗi người thực hiện sản xuất
một hoặc một số loại sản phẩm nhất định nhưng nhu cầu của họ lại yêu cầu
nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thảo mãn nhu cầu của mình, tất yếu những
người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau. Đây chính là nhu cầu trao đổi
sản phẩm giữa những người sản xuất. Trao đổi hàng hóa xuất hiện dẫn đến sự ra
đời của sản xuất hàng hóa. Vì thế, sự xuát hiện và phát triển của phân công lao
động xã hội là một khách quan, tất yếu.
Sự phân công lao động xã hội đồng thời chính là cơ sở, là tiền đề, là điều
kiện cần của quá trình sản xuất, trao dổi hàng hóa vì nó kéo theo sự phát triển
của chun mơn hóa sản xuất. Theo C.Mác: “Sự phân công lao động xã hội là
điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hóa, mặc dù ngược lại, sản xuất hàng
hóa khơng phải là điều kiện tồn tại của sự phân công lao động xã hội”. Phân
2



cơng lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở
rộng và đa dạng hơn.
Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất làm cho giữa những
người sản xuất độc lập với nhau, có sự tách biệt về lợi ích. Sự tách biệt này do
các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thủy là chế độ tư hữu
nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở
hữu sản phẩm lao động. Trong xã hội loại người thì mỗi cá nhân sẽ có những
khả năng khác nhau, các sở trưởng nổi bật phù hợp với việc làm các công việc
khác nhau, từ đó sẽ tạo ra những sản phẩm chuyên biệt nhất định.”Trong chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá nhân và
kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu riền của họ”. Trong điều kiện
đó, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao
đổi, mua bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa. Tuy nhiên, khi sự
tách biệt về kinh tế giữa những chủ thể sản xuất tồn tại trong điều kiện có sự
phân cơng lao động xã hội thì việc trao đổi sản phẩm giữa những chủ thể khác
nhau phải đảm bảo lợi ích của họ, nghĩa là chỉ có thể trao dổi dựa trên nguyên
tắc ngang giá và trao đổi dưới hình thức hàng hóa. Sự tách biệt về mặt kinh tế
giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản xuất hàng hóa ra đời và
phát triển.
Khi còn sự tồn tại của hai diều kiện trên, con người khơng thể dùng ý trí chủ
quan mà xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa được. Việc cố tình xía bỏ nền sản xuất
hàng hóa sẽ làm cho xã hội đi tới khan hiếm và khủng hoảng.
Sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển từ khi chế độ cộng sản nguyên thủy
tan rã và phát triển mạnh nhất trong Chủ nghĩa Tư bản và Chủ nghĩa Xã hội
(giai đoạn thấp của hình thái kinh tế xã họi cộng sản chủ nghĩa) nhưng khi bước
xã hội loài người tiến lên được Chủ nghĩa Cộng sản (giai đoạn cao của hình thái
kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa) thì sản xuất hàng hóa sẽ tự tiêu vong.
Sản xuất hàng hóa phát triển qua hai giai đoạn:

Giai đoạn thấp hay cịn được gọi là sản xuất hàng hóa giản đơn, dựa trên chế
độ chiếm hữu tư nhân nhỏ lẻ kết hợp với cá nhân người lao động. Trong nền sản
xuất hàng hóa giai đoạn thấp này thì người lao động vẫn tự sở hữu tư liệu sản
xuất riêng nên toàn bộ sản phẩm họ tự làm ra dều thuộc về chính bản thân họ.
Quy mơ sản xuất cịn nhỏ lẻ, phân tán. Cơng cụ lao động vẫn cịn thủ công, lạc
hậu nên nền sản xuất phát triển chậm thường gắn liền với chế dộ nô lệ.

3


Giai đoạn cao hay còn được gọi là sản xuất hàng hóa phát triển. Nền sản
xuất hàng hóa lúc này đã có sự tập trung quy mơ lớn bằng máy móc, năng suất
cao, ln tự vận động theo nhu cầu của nền kinh tế khách quan của thị trường
nên cũng có thể nói sản xuất hàng hóa phát triển là kinh tế thị trường. Đặc biệt
sản xuất hàng hóa phát triển chỉ gắn với Chủ nghĩa Tư bản và Chủ nghĩa Xã hội.
Một ví dụ điển hình cho sản xuất hàng hóa phát triển là sản xuất hàng hóa tư
bản chủ nghĩa, nó dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân của tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất kết hợp sức lao động công nhân làm thuê. Đặc trưng của nền sản
xuất hàng hóa này là người lao động khơng có quyền sở hữu tư liệu sản xuất mà
chúng tập chung trong tay của các nhà tư bản, trong quá trình phân phối nhà tư
bản chiếm đoạt một phần lao động không công của người lao động, đây là
nguồn gốc xâu xa hình thành nên mối quan hệ bóc lột.
Ưu thế của sản xuất hàng hóa
So với loại hình sản xuất tự cung, tự cấp, thì sản xuất hàng hóa có những ưu
thế vượt trội hơn hẳn như:
Đầu tiên, sản xuất hàng hóa ra đời dựa trên cơ sở của phân cơng lao động xã
hội, chun mơn hóa trong q trình sản xuất. Do đó, nó khai thác được những
khía cạnh lợi thế về mặt tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở
sản xuất cũng như từng vùng miền, địa phương. Đồng thời, sự phát triển của sản
xuất hàng hóa tạo ra sự tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển của phân cơng

lao động xã hội, làm cho tính chun mơn hóa lao động ngày càng tăng, đồng
thời sự liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Và
xa hơn nữa khi sản xuất và trao đổi hàng hóa mở rộng quy mơ ra phạm vi giữa
các quốc gia thì nó cịn khai thác được lợi thế của các quốc gia với nhau.
Thứ hai, trong nền sản xuất hàng hóa, quy mơ sản xuất khơng cịn bị giới
hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi
cơ sở, mỗi vùng, mỗi địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu
và nguồn lực của xã hội. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng
những thành tựu khoa học – kỹ thuật vào trong quá trình sản xuất thúc đẩy sản
xuất phát triển.
Thứ ba, trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn có của
sản xuất và trao đổi hàng hóa là quy luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh… buộc
người sản xuất hàng hóa phải ln ln năng động, nhạy bén, biết tính tốn, cải
tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả
kinh tế, cải tiến hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa, làm cho chi phí sản
xuất hạ xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao
hơn.
4


Thứ tư, trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng
và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước… không chỉ
làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng
cao hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn.
Hạn chế của sản xuất hàng hóa:
Tuy sản xuất hàng hóa mang lại nhiều lợi thế nhưng cũng sẽ mang lịa nhiều
mặt hạn chế cho các cá nhân và cho cả xã hội. Một số hạn chế có thể kể đến
như:
Lạm phát và phân hóa giàu nghèo.
Lạm phát là sự tăng giá liên tục của hàng hoá/ dịch vụ dẫn đến tiền tệ bị

mất giá. Lạm phát có cả mặt tích cực lẫn tiêu cực và khi mức độ lạm phát tăng

cao thì sẽ tạo ra nhiều hệ quả xấu. Tỷ lệ lạm phát tăng khiến cho các mức lãi
suất cũng tăng theo dẫn đến những hạn chế của sản xuất hàng hoá và gây ra tình
trạng suy thối kinh tế, thất nghiệp trầm trọng. Lạm phát trong sản xuất hàng
hố cịn tạo ra khoảng cách giàu nghèo lớn gây ra những hạn chế của sản xuất
hàng hố. Có nhiều người sẽ đầu cơ trục lợi dùng tiền để thu gom, vơ vét hàng
hoá khiến cho mặt hàng đó trở nên khan hiếm, làm mất cân đối quan hệ cung –
cầu khiến cho giá cả các mặt hàng tăng cao. Khi ấy, những người nghèo sẽ càng
khó khăn hơn khi khơng thể mua hàng hoặc phải trả khoản tiền cao hơn rất
nhiều. Tình trạng này gây rối loạn nền kinh tế – xã hội, tạo sự chênh lệch giàu
nghèo lớn.
Cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường.
Bắt đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ I năm 1760, con người đã
khai thác khoáng sản với quy mô lớn để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất. Cho đến
nay, với sự tiến bộ trong cơng nghiệp, lượng khống chất cần cho nghiên cứu,
chế tạo, vận hành còn lớn hơn rất nhiều cộng thêm trợ lực của máy móc nên con
người đã khai thác mà không biết ngừng, dẫn đến nguồn tài nguyên ngày càng
suy giảm thậm chí biến mất.
Xã hội đang phát triển khơng ngừng, đã có rất nhiều thành tựu khoa học –
kỹ thuật ra đời tạo nên những đột phá mới về công nghệ. Song song với sự phát
triển ấy là môi trường ngày càng bị tàn phá nặng nề. Các chất thải cơng nghiệp,
chất thải nơng nghiệp, khói bụi tích tụ trong bầu khí quyển, lắng đọng trong đất,
nước khiến cho nhiều sinh vật bị biến đổi gen, có nguy cơ tuyệt chủng. Thậm
chí những vật liệu độc hại cịn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ con
người.
Vấn đề về hàng giả, hàng kém chất lượng tràn lan.
5



Document continues below
Discover more from:
Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin KTCT01
Đại học Kinh tế Quốc dân
999+ documents

Go to course

12

Phân tích quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và những tác
động tích cực đối với Việt Nam
Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin

100% (48)

Vo ghi triet hoc Mac - Lenin 1
17

Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin

99% (69)

Tiểu luận Kinh tế Chính trị Mác-Lênin
14

Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin

98% (100)


Tài liệu tổng hợp Kinh tế chính trị Mác LêNin
63

Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin

98% (133)

KTCT - Tài liệu ơn tự luận
57

16

Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin

98% (64)

Thực trạng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện
nay
Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin

100% (21)


Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, nhiều cá nhân doanh nghiệp vì
muốn giảm thiểu chi phí sản xuất xuống thấp nhất để thu được nhiều lợi nhuận
mà bất chấp sức khỏe, thậm chí tính mạng của người tiêu dùng để sản xuất ra
các sản phẩm kém chất lượng. Từ đó gây nên những vấn đề về uy tín suy giảm,
khiến những cơng ty nội địa khác gặp khó khăn khi sản xuất và ra mắt sản phẩm
mới tới người tiêu dùng.
1.2 Khái quát về sản xuất hàng hóa ở Việt Nam:

Điều kiên ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa Việt Nam trước đổi
mới (1975 – 1986).
Trong một thời kỳ rất dài, ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia cho rằng sản
xuất hàng hóa ra đời dựa trên hai điều kiện đó là phân cơng lao động xã hội và
sự ra đời của chế độ tư hữu. Chính vì nhận thức như vậy, với điều kiện thứ hai
là sự ra đời của chế độ tư hữu, quan niệm rằng sản xuất hàng hóa tồn tại gắn
liền với chế độ tư hữu (tức là chỉ tồn tại trong xã hội có chế độ tư hữu). Do đó,
các nước đi theo con đường chủ nghĩa xã hội trong đó có Việt Nam với mục
đích là xây dựng chế độ cơng hữu, xóa bỏ chế độ tư hữu. Với quan niệm rằng
sản xuất hàng hóa khơng tồn tại trong chế độ công hữu hay không tồn tại trong
chế độ xã hội, các quốc gia đi theo con đường chủ nghĩa xã hội (trong đó có
Việt Nam) áp dụng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, phủ nhân sự tồn tại của
sản xuất hàng hóa, phủ nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tư nhân. Vì thế,
trong thời kỳ bao cấp ở Việt Nam, sản xuất hàng hóa chỉ mang tính hình thức,
có sự phân cơng lao động nhưng khơng có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế
giữa những người sản xuất.
Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên
hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp
hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các
chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch cấp phát vốn, vật
tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì
Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu. Quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là
hình thức, quan hệ vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ
“cấp phát – giao nộp”. Vì vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động,
phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng không được coi là hàng hóa về
mặt pháp lý.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ
chế thị trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan
trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi
nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một

công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên
6


thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh, và tập thể là chủ yếu, muốn
nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân.
Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa Việt
Nam sau thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay).
Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Việt
Nam đã quyêt định xóa bỏ cơ chế quản lý cũ, bắt đầu thực hiện
phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta đang tồn tại hệ thống phân công lao động do lịch
sử để lại với nhiều ngành nghề. Với sự phát triển khoa học kỹ
thuật hiện đại, nhiều ngành nghề mới xuất hiện làm cho sự
phân công lao động ở nước ta trở nên phong phú hơn, nó tạo
điều kiện cho hàng hóa phát triển. Phân cơng lao động xã hội
với tư cách là cơ sở của trao đổi chẳng những không mất đi, trái
lại ngày một phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự phân
công lao động của ta đã ngày càng chi tiết hơn đến từng ngành,
từng cơ sở và ở phạm vi rộng hơn nữa là tồn bộ nền kinh tế
quốc dân; có sự chun mơn hóa hình thành các vùng kinh tế,
các ngành kinh tế.
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất được thể hiện rất rõ
trong thời kỳ Việt Nam sau đổi mới. Việt Nam thừa nhận sự xuất hiện của tư
hữu. Ngoài những doanh nghiệp nhà nước như: tập đồn điện lực Việt Nam, tập
đồn dầu khí Việt Nam, tập đồn xăng dầu Việt Nam, … Hiện nay cịn có nhiều

doanh nghiệp tư nhân hoạt động ở Việt Nam, đó là tập đồn Vingroup, cơng ty
cổ phần đầu thư thế giới di động, công ty cổ phần FPT,… Trong nền kinh tế đã
và đang tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản
phẩm lao động: sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể của những
người sản xuất hàng hoá nhỏ, sở hữu tư nhân TBCN, sở hữu hỗn hợp, đồng sở
hữu,… tương ứng với nó là các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, doanh
nghiệp tư nhân,…

7


II. THỰC TRẠNG CỦA NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA
HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM:
2.1 Diễn biến kinh tế những năm gần đây:
Diễn biến kinh tế năm 2022:
Trong bối cảnh kinh tế tồn cầu có nhiều biến động mạnh và
khó đốn định do diễn biến cịn có phần phức tạp của Covid-19
và xung đột Nga-Ukraina bùng phát từ tháng 2/2022, tăng
trưởng ở hầu hết các quốc gia và khu vực cho thấy nhiều bất ổn
và thách thức, tăng trưởng kinh tế Việt Nam được đánh giá cao
bởi kết quả thực tế ở các giai đoạn 6 tháng, 9 tháng và cả năm
2022 đều nằm trong và vượt dự báo tăng trưởng theo kịch bản
đưa ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP.
Cụ thể là GDP năm 2022 tăng 8,02% so với năm trước, đạt mức
tăng cao nhất trong giai đoạn 2011 - 2022 do nền kinh tế khôi
phục trở lại. Trong mức tăng của tổng giá trị tăng thêm toàn
nền kinh tế, khu vực nơng, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,36%,
đóng góp 5,11%; khu vực cơng nghiệp và xây dựng tăng 7,78%,
đóng góp 38,24%; khu vực dịch vụ tăng 9,99%, đóng góp
56,65%.

Sản xuất cơng nghiệp q IV/2022 có xu hướng tăng chậm lại,
tốc độ tăng giá trị tăng thêm ước đạt 3,6% so với cùng kỳ năm
trước. Tính chung cả năm 2022, giá trị tăng thêm ngành công
nghiệp tăng 7,69% so với năm trước (quý I tăng 7,16%; quý II
tăng 9,51%; quý III tăng 11,06%; q IV tăng 3,6%). Trong đó,
ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,10%, đóng góp
2,09 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền
kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 7,05%, đóng
góp 0,26 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, quản lý và xử
lý rác thải, nước thải tăng 7,45%, đóng góp 0,04 điểm phần
trăm; ngành khai khống tăng 5,19%, đóng góp 0,17 điểm
phần trăm trong mức tăng chung.
Nông, lâm nghiệp và thủy sản duy trì tốc độ tăng trưởng ổn
định, Giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
ước tính năm 2022 tăng 3,36% so với năm 2021, đóng góp
5,11% vào tốc độ tăng giá trị tăng thêm của nền kinh tế. Trong
8


đó, ngành nơng nghiệp tăng 2,88%, đóng góp 0,27% điểm phần
trăm; ngành lâm nghiệp tăng 6,13% do chiếm tỷ trọng thấp
nên chỉ đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng
4,43%, đóng góp 0,12 điểm phần trăm.
Khu vực dịch vụ được khôi phục và tăng trưởng mạnh mẽ với
tốc độ tăng năm 2022 đạt 9,99%, cao nhất trong giai đoạn
2011-2022. Một số ngành dịch vụ thị trường tăng cao, đóng góp
nhiều vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm tồn nền kinh tế
như sau: Ngành bán bn, bán lẻ tăng 10,15% so với năm
trước, đóng góp 0,97 điểm phần trăm; ngành vận tải kho bãi
tăng 11,93%, đóng góp 0,69 điểm phần trăm; ngành dịch vụ

lưu trú và ăn uống tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức
tăng 40,61%, đóng góp 0,79 điểm phần trăm; hoạt động tài
chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,03%, đóng góp 0,53 điểm
phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 7,80%, đóng
góp 0,5 điểm phần trăm. Riêng ngành y tế và hoạt động trợ
giúp xã hội giảm 7,6%, làm giảm 0,13 điểm phần trăm do dịch
Covid-19 đã được kiểm soát.
Đầu tư và phát triển có nhiều khởi sắc, Ước tính năm 2022, vốn
đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành đạt 3.219,8
nghìn tỷ đồng, tăng 11,2% so với năm trước, bao gồm: Vốn khu
vực nhà nước đạt 824,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,6% tổng vốn
và tăng 14,6% so với năm trước; khu vực ngoài nhà nước đạt
1.873,2 nghìn tỷ đồng, bằng 58,2% và tăng 8,9%; khu vực có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) đạt 521,9 nghìn tỷ đồng,
bằng 16,2% và tăng 13,9%.
Diễn biến kinh tế năm 2023:
Ngày 13/4, WB công bố báo cáo Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt
Nam tháng 4/2023 với nhiều chỉ số đáng chú ý. Báo cáo cho
biết, trong 3 tháng đầu năm 2023, nền kinh tế ghi nhận tốc
độ tăng trưởng đạt 3,3% so cùng kỳ. Trong đó, ngành dịch ghi
nhận mức tăng trưởng ấn tượng 6,8% và đóng góp 2,9 điểm
phần trăm vào GDP.
Cụ thể, báo cáo của WB cho biết, GDP của Việt Nam tăng trưởng
3,3% trong quý I/2023, chậm lại so với mức 5,9% trong quý
IV/2022. Đây là tốc độ tăng trưởng quý I (so với cùng kỳ) thấp
thứ hai trong thập kỷ qua.
9


Tốc độ tăng trưởng thấp phần lớn là do sự thu hẹp của ngành

công nghiệp (giảm 0,4% so với cùng kỳ) trong quý I/2023, so với
mức trung bình 5,3% trong giai đoạn 2020-2022 và ảnh hưởng
đến tăng trưởng (giảm 0,1 điểm phần trăm đóng góp vào GDP).
Sự suy giảm trong ngành công nghiệp phản ánh mức giảm
11,8% trong xuất khẩu trong bối cảnh nhu cầu toàn cầu suy
yếu. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IPI) trong quý đầu năm thấp
hơn 1,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, IPI đã được cải
thiện vào tháng 3/2023, tăng 9,4% (so với tháng trước), đối lập
với mức giảm mạnh vào tháng 1 (giảm 22,7% so với tháng
trước, một phần do nghỉ Tết Âm lịch) và mức tăng trưởng yếu
(3,5% so với tháng trước) vào tháng 2. Báo cáo của WB chỉ rõ,
hầu hết các ngành và phân ngành công nghiệp đều ghi nhận
mức tăng trưởng (so cùng kỳ tháng) trong tháng 3/2023 đặc
biệt là ngành khai khoáng, dệt may, sản xuất kim loại và sản
xuất phương tiện vận tải.
Tuy nhiên, trong bối cảnh xuất khẩu sản phẩm chế tạo thu hẹp,
ngành dịch vụ lại là điểm sáng đáng chú ý khi tăng trưởng 6,8%
(so với cùng kỳ) trong 3 tháng đầu năm 2023, đóng góp 2,9
điểm phần trăm vào GDP. Mặc dù chỉ đóng góp khoảng 20%
tổng doanh số bán lẻ, doanh số bán hàng của các ngành dịch vụ
đã ghi nhận mức tăng trưởng mạnh mẽ vào tháng 3/2023, với
doanh thu của cơ sở lưu trú và ăn uống tăng 25,5% (so với cùng
kỳ) và doanh thu của dịch vụ lữ hành tăng 113,9% (so với cùng
kỳ). Lượng khách quốc tế đạt 2,7 triệu lượt người trong quý
I/2023, so với 91 nghìn lượt cùng kỳ năm ngối. Cán cân thương
mại dịch vụ thâm hụt tương đối nhỏ trong quý I/2023 so với các
quý trước, dần tiệm cận về mức trước đại dịch. Điều này phần
lớn là do xuất khẩu dịch vụ phục hồi, phản ánh sự tăng trưởng
mạnh mẽ của du lịch quốc tế đến Việt Nam. Du lịch nước ngồi
đóng góp 2,7 tỷ USD vào xuất khẩu dịch vụ trong quý, cao hơn

tới 250% so với cùng kỳ năm 2022.
Bên cạnh đó, nơng nghiệp cũng đạt tốc độ tăng trưởng khá ổn
định ở mức 2,5% và đóng góp 0,3 điểm phần trăm vào tăng
trưởng trong quý I/2023. Bất chấp sự sụt giảm chung trong q,
sản xuất cơng nghiệp đã có dấu hiệu cải thiện tạm thời trong
tháng 3/2023. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IPI) trong quý đầu
năm thấp hơn 1,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
10


Về đầu tư và phát triển, tính đến ngày 20-3, tổng vốn đăng ký
cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn
góp của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 5,45 tỉ USD, giảm 38,8%
so với quý 1-2022. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, kể từ đầu năm
đến nay, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua
cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài liên tục
giảm, trong tháng 1 đạt gần 1,69 tỉ USD, giảm 19,8%; trong
tháng 2 đạt gần 3,1 tỉ USD, giảm 38%, so với cùng kỳ năm
2022.
2.2 Đánh giá thực trạng sản xuất hàng hóa tại Việt Nam:
Ưu thế và những kết quả đạt được của nền sản xuất
hàng hóa Việt Nam
Nền sản xuất hàng hóa ở nước ta là nền sản xuất dựa trên
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Sản xuất hàng hóa ở Việt
Nam mang đầy đủ những thuộc tính chung của sản xuất hàng
hóa. Tuy nhiên, nó mang đặc thù của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa. Sản xuất hàng hóa ở Việt Nam có những ưu điểm cụ
thể như sau:
Sản xuất hàng hóa ở Việt Nam đã và đang khai thác những điều
kiện tự nhiên thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên vốn có để sản

xuất sản phẩm cung ứng cho người tiêu dùng. Đây được xem là
ưu điểm nổi bật của hoạt động sản xuất ở nước ta. Tận dụng tối
đa những tài nguyên vốn có để sản xuất hàng hóa phục vụ nhu
cầu sống của con người. Điều này giúp quá trình sản xuất trở
nên dễ dàng hơn, khi nguyên liệu là những vật thể sẵn có trong
tự nhiên. Sử dụng nguyên liệu sẵn có từ tự nhiên, vừa giúp tiết
kiệm chi phí sản xuất, vừa tận dụng triệt để nguồn tài nguyên
sẵn có của nước nhà.
Sản xuất hàng hóa phát triển, góp phần hình thành nên đội ngũ lao động có
chun mơn và tay nghề cao. Như đã nói, xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu
sống của con người ngày càng cao, điều này địi hỏi hoạt động sản xuất hàng
hóa phải được đẩy mạnh. Khi sản xuất hàng hóa được đẩy mạnh với những hình
thức, mơ hình khác nhau, sẽ địi hỏi người sản xuất đưa ra những hình thức sản
xuất mới, phù hợp với sự phát triển của thời đại. Kéo theo đó, người lao động
phải trang bị cho bản thân kiến thức, bản lĩnh tay nghề chắc chắn. Những yếu tố
này giúp hình thành lên đội ngũ nhân lực lao động tiên tiến, hiện đại.
Sản xuất hàng hóa ở Việt Nam phát triển làm cho đời sống vật chất và văn hóa
tinh thần ngày càng được tăng cao, phong phú và đa dạng. Quan hệ hàng hoá,
11


tiền tệ, quan hệ thị trường ngày càng được chủ thể sản xuất hàng hố vận dụng
có hiệu quả hơn và từ đó ngồi các quan hệ kinh tế phát triển mà các quan hệ
pháp lý xã hội, tập quán, tác phong cũng thay đổi. Những nhu cầu tiêu dùng, hỗ
trợ cuộc sống của người dân được đáp ứng, sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển
của con người. Sản xuất hàng hóa phát triển, tạo tiền đề cho người dân ổn định ,
tự do, thoải mái, có cơ sở nền tảng để xây dựng cuộc sống.
Có thể nói, sản xuất hàng hóa được xem là một trong những nhân tố quan trọng,
đưa đất Việt Nam từ một nước kém phát triển bước lên đà phát triển. Vậy nên,
hoạt động sản xuất hàng hóa ln nhận được sự quan tâm, đẩy mạnh đầu tư từ

phía Đảng và nhà nước.
Những hạn chế và nguyên nhân:
Sản xuất hàng hóa phát triển thúc đẩy sự phân hóa đời sống dân cư, kéo theo
sự phân hóa giàu nghèo. Thời kỳ đất nước kém phát triển, người dân Việt Nam
thường hướng theo nền kinh tế tự cung tự cấp. Vì vậy, sản xuất hàng hóa giống
như đòn bẩy, đưa người sản xuất lên một cuộc sống mới. Hay nói cách khác, đó
là quy luật thích nghi. Ai khơng thích nghi, theo kịp sự phát triển của hoạt động
sản xuất hàng hóa thì sẽ bị bỏ lại phía sau của sự phát triển. Đây được xem là
hạn chế lớn nhất của hoạt động sản xuất hàng hóa ở Việt Nam.
Sản xuất hàng hóa khiến tài nguyên thiên nhiên, môi trường sống bị tàn phá
và ô nhiễm. Tận dụng nguồn tài nguyên sẵn có trong tự nhiên để sản xuất vừa là
ưu điểm, vừa là nhược điểm của sản xuất hàng hóa ở nước ta. Mơi trường sinh
thái bị ảnh hưởng vô cùng lớn do hoạt động sản xuất hàng hóa: nguồn tài
nguyên trở nên khan hiếm, ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước, lượng rác
thải ngày càng nhiều,… Có thể nói, hệ sinh thái đang dần bị mất cân bằng. Kinh
tế phát triển đi kèm hậu quả là ô nhiễm môi trường, và sản xuất hàng hóa được
xem là một trong những tác nhân gây ra sự mất cân bằng này. Bằng chứng là
Việt Nam có hơn tổng số 183 khu cơng nghiệp trong cả nước. Thì có trên 60%
khu cơng nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Ở các đô thị, chỉ có
khoảng 60-70% chất thải rắn được thu gom. Cơ sở hạ tầng thoát nước và xử lý
nước thải, chất thải chưa thể đáp ứng được các yêu cầu về bảo vệ môi trường.
Hầu hết nước thải đều bị nhiễm dầu mỡ, hóa chất tẩy rửa, hóa phẩm nhuộm…
chưa được sử lý và đổ thẳng ra các sông, hồ tự nhiên và cả các loại khí chưa qua
xử lý thải trực tiếp ra mơi trường.
Sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu sống, nâng cao chất lượng đời sống cho
người dân. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của sản xuất hàng hóa kéo theo
những hệ lụy khơng mong muốn. Điển hình là việc sức khỏe của con người
khơng được đảm bảo. Trên thị trường xuất hiện tràn lan đủ loại hình hàng hóa,
bao gồm cả những mặt hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Người dân là


12


cá thể trực tiếp sử dụng những mặt hàng này, và sức khỏe của họ bị ảnh hưởng.
Đây là một trong lý do khiến tỷ lệ bệnh nhân ung thư ở nước ta ngày càng nhiều.

III. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO SẢN XUẤT
HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM:
Đẩy mạnh sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hóa phát triển, góp phần hình thành nên đội
ngũ lao động có chun mơn và tay nghề cao. Như đã nói, xã
hội ngày càng phát triển, nhu cầu sống của con người ngày
càng cao, điều này địi hỏi hoạt động sản xuất hàng hóa phải
được đẩy mạnh. Khi sản xuất hàng hóa được đẩy mạnh với
những hình thức, mơ hình khác nhau, sẽ địi hỏi người sản xuất
đưa ra những hình thức sản xuất mới, phù hợp với sự phát triển
của thời đại. Kéo theo đó, người lao động phải trang bị cho bản
thân kiến thức, bản lĩnh tay nghề chắc chắn. Những yếu tố này
giúp hình thành lên đội ngũ nhân lực lao động tiên tiến, hiện
đại.
Đây là biện pháp rất cơ bản để thúc đẩy phát triển thị trường. Vậy nên chúng ta
phải đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hoá theo hướng tập trung
chun mơn hố cao vào các ngành có lợi thế so sánh. Nghiên cứu lựa chọn sản
phẩm có lợi thế so sánh của quốc gia, của từng địa phương và từng ngành để xây
dựng chiến lược phát triển. Bố trí nghiên cứu các thơng tin về thị trường đầu ra,
khả năng cạnh tranh. Thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư cơng, bám sát tiến độ, tháo
gỡ khó khăn để sớm đưa vào vận hành các cơng trình dự án trọng điểm, có vai
trị quan trọng trong lĩnh vực hạ tầng điện, dầu khí, cơng nghiệp chế biến, chế
tao, khoáng sản,… Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả các giải pháp cơ cấu lại nghành
Công Thương dựa trên nền tảng của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và

chuyển đổi số. Tập trung tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp, chú trọng
các giải pháp khơi thông các rào cản về vốn, tín dụng, thủ tục hành chính… để
nâng cao giá trị gia tăng các ngành chế biến, chế tạo; thúc đây triển khai các dự
án sản xuất và khai khoáng mới, nhất là các dự án trọng điểm, tạo động lực mới
cho tăng trưởng kinh tế.

Tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng vật chất, pháp lý và
tri thức khoa học công nghệ cho thương mại, dịch vụ:
Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại sẽ thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế và góp phần giải quyết các
vấn đề xã hội. Ngược lại, một hệ thống cơ sở hạ tầng kém phát triển là một trở
13


lực lớn đối với sự phát triển. Ở nhiều nước đang phát triển hiện nay, kết cấu hạ
tầng thiếu và yếu đã gây ứ đọng trong luân chuyển các nguồn lực, khó hấp thụ,
vốn đầu tư, gây ra những “nút cổ chai kết cấu hạ tầng” ảnh hướng trực tiếp đến
tăng trưởng kinh tế. Đây là nền tảng để phát triển thị trường cả
trong nước và quốc tế. Ưu tiên đầu tư hệ thống giao thông vận
tải, thông tin liên lạc và xây dựng chợ, trung tâm thương mại.
Bảo đảm cơ sở hạ tầng tốt cho lưu thơng hàng hố thơng suốt,
thuận lợi và nhanh chóng. Chính điều này sẽ góp phần chuyển
biến cơ cấu sản xuất hàng hố theo hướng năng động, hiệu
quả. Để phát triển kết cấu hạ tầng phải có chính sách hợp lý để
thu hút đầu tư cả trong nước và ngoài nước, ngành GTVT xác định
trong giai đoạn đến năm 2030 cần định hướng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
giao thông theo hướng đồng bộ, hiện đại để kiến tạo động lực phát triển quốc gia
với mục tiêu đến năm 2030 nước ta trở thành nước cơng nghiệp theo hướng hiện
đại, có nền kinh tế năng độ. Ngành GTVT cần đáp ứng nhu cầu vận tải với tổng
sản lượng vận tải khoảng 2.500 tỷ tấn.km (tương đương 4,3 tỷ tấn hàng hóa); tốc

độ tăng trưởng bình quân hằng năm về sản lượng vận tải hàng hóa giai đoạn
2021 - 2030 là 6,7%, hành khách là 8,2%. Nâng cao chất lượng vận tải, giá
thành hợp lý; kiềm chế, tiến tới giảm dần tai nạn giao thông, hạn chế ô nhiễm
môi trường; tăng cường ứng dụng cơng nghệ hiện đại trong quản lý, khai thác.
Hồn chỉnh cơ sở pháp lý cho tự do hoá kinh doanh, tự
do hoá thương mại:
Triệt để tuân thủ nguyên tắc thương nhân được kinh doanh những thứ mà
luật pháp cho phép và luật pháp khơng cấm. Thường xun rà sốt hệ thống luật
pháp hiện hành để bảo đảm tính hệ thống tính pháp lý và mơi trường thơng
thống cho các chủ thể kinh doanh. Đồng thời phải nghiêm trị các hành vi vi
phạm luật thương mại nhất là buôn lậu, hàng rởm và hàng giả. Tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ việc giải quyết thủ tục hành chính cho cá nhân,
tổ chức. Công khai, minh bạch hoạt động quản lý, tạo chuyển
biến mạnh mẽ trong việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quản
lý nhà nước. Thúc đẩy sự phát triển mạnh thương mại điện tử và
sự gắn kết giữa thương mại điện tử với các loại hình hoạt động
thương mại truyền thống. Tăng cường quản lý, kiểm tra thị
trường, phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại,... xử lý
nghiêm vi phạm.

Chủ động và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế, thương mại khu
vực và quốc tế:

14


Tiến trình hội nhập quốc tế sẽ góp phần quan trọng nâng tầm Việt Nam trong
phát triển kinh tế - xã họi và nâng cao thu nhập cho người dân, tạo sức ép và
điều kiện để tích cực hồn thiện thể chế kinh tế, nỗ lực nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, tạo động lực cạnh tranh, kích thích

ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý
kinh tế; học hỏi kinh nghiệm quản lý từ các nước tiên tiến. Trên cơ sở đó nước ta
phải tiếp tục chính sách đa phương hố, đa dạng hố trong quan hệ kinh tế quốc
tế. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế của Việt Nam. Tích cực đàm phán để
ký kết các hiệp định thương mại đa phương và song phương với các nước và tổ
chức kinh tế quốc tế. Tạo lập môi trường và điều kiện để sớm gia nhập tổ chức
thương mại quốc tế.
Xây dựng hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT):
Hàng rào kỹ thuật trong thương mại nhằm 3 mục đích cụ
thể: giúp bảo hộ sản xuất, bảo vệ người tiêu dùng và gìn giữ
mơi trường sinh thái trong nước, đồng thời đối phó được với các
rào cản của các nước khác. Theo đó:
Hàng rào được xây dựng bằng các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật, an tồn vệ sinh
dịch tễ, địi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan chức năng có liên
quan. Theo đó, các tiêu chuẩn đối với sản phẩm cuối cùng, các phương pháp sản
xuất và chế biến, các thủ tục xét nghiệm, giám định, chứng nhận và chấp nhận...
cho đến các quy định về phương pháp thống kê, chọn mẫu và đánh giá đều phải
theo các định chuẩn quốc gia được xây dựng phù hợp với quy định của quốc tế.
Hàng rào được xây dựng theo các tiêu chuẩn chế biến và sản xuất dựa theo các
quy định về môi trường, chủ yếu áp dụng cho giai đoạn sản xuất, bao gồm từ các
định chuẩn về chế độ nuôi trồng... đến những quy định liên quan đến nguyên vật
liệu dùng làm bao bì, về tái sinh, về xử lý và thu gom sau quá trình sử dụng.
Kèm theo đó là u cầu về nhãn mác, đóng gói, bao bì, lệ phí mơi trường, nhãn
sinh thái... được quy định chặt chẽ bằng hệ thống văn bản pháp luật.
Phát triển và đa dạng hóa các kênh phân phối:
Quan điểm chung là đa dạng hóa các kênh phân phối, các loại hình tổ chức
và phương thức hoạt động, các thành phần kinh tế, các chế độ sở hữu và các
nguồn lực tham gia đầu tư phát triển. Kết hợp thương mại truyền thống với
thương mại hiện đại. Xây dựng và củng cố các hệ thống phân phối lớn trên
phạm vi cả nước đi đôi với tổ chức và phát triển mạng lưới phân phối nhỏ của

địa phương. Tăng cường quản lý nhà nước đối với các hệ thống phân phối vì lợi
ích Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Với hệ thống bán lẻ của các tập
đồn, tổng cơng ty ngành hàng, thiết lập và phát triển mối liên kết dọc có quan
hệ gắn kết chặt chẽ, ổn định và ràng buộc trách nhiệm trên từng công đoạn của
15


q trình lưu thơng từ sản xuất, xuất nhập khẩu đến bán buôn và bán lẻ thông
qua các quan hệ trực tuyến hoặc quan hệ đại lý, mua bán. Thiết lập hệ thống
phân phối trên cơ sở xây dựng và phát triển hệ thống tổng kho bán buôn, hệ
thống trung tâm logisstics được bố trí theo khu vực thị trường để tiếp nhận hàng
hoá từ các cơ sở sản xuất, nhập khẩu và cung ứng hàng hoá cho mạng lưới bán
buôn, bán lẻ (cửa hàng trực thuộc, các đại lý) trên địa bàn. Khuyến khích các
doanh nghiệp lớn kinh doanh các nhóm, mặt hàng có mối liên hệ trong tiêu dùng
tạo mối liên kết ngang trong khâu phân phối để giảm chi phí đầu tư, chi phí lưu
thơng của doanh nghiệp và giảm chi phí của xã hội nhờ tiết kiệm được thời gian
mua sắm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin- PGS.TS.Ngơ Tuấn Nghĩa.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin
(dành cho bậc đại học - không chuyên lý luận chính trị), NXB Giáo dục, Hà
Nội.
3. Báo Nhân dân
4. Báo tuổi trẻ
5. Báo cáo của WB-World bank

16




×