Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

(Tiểu luận) đề tài lý luận về sản xuất hàng hóa (kinh tế hàng hóa) và vận dụng phát triển kinh tế hàng hóa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.95 MB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN & KINH TẾ SỐ

BÀI TẬP LỚN
Đề tài: Lý luận về sản xuất hàng hóa (kinh tế hàng hóa) và
vận dụng phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam.
Sinh viên thực hiện: Bùi Tuấn Nam
Mã số sinh viên: 11224428
Lớp học phần: Kinh tế Chính trị Mác – Lênin (LLNL1106)
Năm học: 2023 - 2024
GVHD: PGS.TS Tô Đức Hạnh

Hà Nội – 10/2023


LỜI MỞ ĐẦU
Với bất kỳ quốc gia nào, việc sản xuất hàng hóa cũng đóng vai trị chủ
đạo chi phối đáng kể đến sự hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
Trước năm 1986, Việt Nam áp dụng nền kinh tế tự cung tự cấp và một phần
nào đó, nước ta cũng đã có những bước phát triển nhất định. Tuy nhiên sau đó với
tình hình định hướng chung của Việt Nam, nó đã khơng cịn phù hợp và bộc lộ các
mặt yếu kém, kìm hãm sự phát triển, đặc biệt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Lúc này các cơ sở sản xuất, sản xuất theo kế hoạch của nhà nước. Nhà nước
bao cấp về vốn cơng nghệ kĩ thuật do đó giá cả khơng phản ánh giá trị của nó.
Chính vì vậy xuất hiện hiện tượng lãi giả lỗ thật và hậu quả là năng suất lao động
bị giảm sút, nền kinh tế Việt Nam đứng trước nguy cơ suy thối. Trong điều kiện
đó, chúng ta lại có những chủ quan nơn nóng, chưa đánh giá đúng tình hình thực
tế, thực hiện bao cấp với một loạt các bước đi sai lầm về giá, lượng, tiền… dẫn
đến khủng hoảng kinh tế trầm trọng.
Sau hơn 10 năm đổi mới và hoàn thiện, trước những thử thách gay go, những
hồn cảnh hết sức khó khăn phức tạp, Đảng và Nhà nước đã có những quyết định


quan trọng trong đổi mới kinh tế nước nhà. Không những đã đứng vững được mà
còn vươn lên đạt được những thắng lợi trên nhiều mặt. Nguyên nhân cơ bản dẫn
đến thắng lợi đó là Đảng và Nhà nước ta đã kiên quyết chuyển đổi từ nền kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Và từ đó nền sản
xuất hàng hóa đã trở thành nền tảng, động lực thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phát triển bền vững đất nước. Trong thời gian qua, nhiều văn bằng quan
trọng về định hướng chiến lược và cơ chế chính sách phát triển của nền sản xuất
hàng hóa đã được ban hành. Đảng và Nhà nước đã sớm xác định vai trị then chốt
vơ cùng quan trọng của sản xuất hàng hóa trong sự nghiệp phát triển của nước nhà.


NỘI DUNG
I, Những lí luận cơ bản về sản xuất hàng hóa
1. Sản xuất hàng hóa
a. Sản xuất hàng hóa và tính tất yếu
Sản xuất hàng hóa là một khái niệm được sử dụng trong nền kinh tế chính trị
Mác-Lênin, dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế, trong đó sản phẩm được sản xuất
ra khơng phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra
nó, mà để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác thông qua việc trao đổi, mua
bán trên thị trường. Nói cách khác, tồn bộ q trình sản xuất - phân phối - trao đổi
- tiêu dùng; các câu hỏi như “sản xuất cái gì?”, “sản xuất như thế nào?”, “sản xuất
cho ai?” đều thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế phân biệt với sản xuất tự cung tự
cấp ở thời kỳ đầu của lịch sử lồi người. Ở thời kỳ đó, sản phẩm của sự lao động
được tạo ra chỉ để phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của chính người sản xuất ra
chúng. Đây là kiểu tổ chức sản xuất tự nhiên khép kín trong phạm vi từng đơn vị,
khơng cho phép mở rộng quan hệ với các đơn vị khác. Vì vậy nó có tính chất bảo
thủ, trì trệ, bị giới hạn ở nhu cầu hạn hẹp. Sản xuất tự cung tự cấp thích ứng với
thời kỳ lực lượng sản xuất còn chưa phát triển, khi mà lao động thủ cơng chiếm địa
vị thống trị. Nó có trong thời kỳ công xã nguyên thủy và tồn tại chủ yếu trong thời

kỳ chiếm hữu nô lệ. Trong thời kỳ phong kiến sản xuất tự cung tự cấp tồn tại dưới
hình thái điền trang, thái ấp của địa chủ và kinh tế nông dán gia trưởng.
Khi lực lượng sản xuất phát triển cao, phân cơng lao động được mở rộng thì
dần dần xuất hiện trao đổi hàng hóa. Khi trao đổi hàng hóa trở thành mục đích
thường xun.


b. Điều kiện ra đời của nền sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa khơng xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội
loài người. Để nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển, theo C.Mác
cần hội đủ hai điều kiện gồm: Điều kiện thứ nhất: phân công lao động xã hội. Phần
công lao dộng xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các ngư lĩnh vực
sản xuất khác nhau, chim vào trụ thế, lợi thế tự nhiên khả năng kỹ thuật số trên
khiển của từng ngưi từng đơn vị, tạo nên sự chun mơn hóa của những người gần
nhất tr những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc
một số sản phẩm nhất định. Trong khi nhu cầu của nhà sản xuất lại đòi hỏi nhiều
loại sản phẩm. Điều này dẫn đến tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Vì vậy, để thỏa mãn
nhu cầu của mình, tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau,
lúc này sản phẩm đó được gọi là hàng hóa Ví dụ như đề sản xuất một chiếc ô tô,
các chi tiết như ghế ngồi, lốp xe, ắc quy, đèn, kính,...mỗi chi tiết phải qua từng
cơng ty chuyên sản xuất chi tiết đó cung cấp, sau đó mới lắp ráp thành chiếc ơ tơ..
Như vậy, do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi sản phẩm trở thành tất
yếu. Theo C. Mác “Sự phân công lao động xã hội là điều kiện tồn tại của nền sản
xuất hàng hóa, mặc dù ngược lại, sản xuất hàng hóa khơng phải là điều kiện tồn tại
của sự phân công lập động xã hội.” Phân công lao động xã hội, chun mơn hóa
sản xuất đồng thời làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày
càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao đổi sản phẩm. Điều kiện thứ hai: Sự tách biệt
tương đối về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất. Sự tích biệt về mặt kinh tế giữa
các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người sản xua Óc lợn với nhau, khác
nhau về lợi ích. Trong điều người này muốn thu dùng sản phần của người khác

phải thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm, tức là phải trao doi dưới hình th
hàng hóa. C.Mác viết: “chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và
không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”.Vì vậy,


sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản
xuất hàng hóa ra đời và phát triển. Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa
các chủ thể sản xuất xuất hiện khách quan dựa trên sự tách biệt về quyền sở hữu.
Khi sự tách biệt về kinh tế giữa những chủ thể sản xuất tồn tại trong điều kiện có
sự phân cơng lao động xã hội thì việc trao đổi sản phẩm giữa những chủ thể khác
nhau phải đảm bảo được lợi ích của họ. Điều đó chỉ có thể có được khi trao đổi
dựa trên nguyên tắc ngang giá, có đi có lại tức là trao đổi hàng hóa, sản phẩm của
lao động trở thành hàng hóa. Xã hội loài người càng phát triển, càng làm cho sự
tách biệt về quyền sở hữu càng sâu sắc, nền sản xuất hàng hóa vì thế càng ngày
càng phát triển phong phú. Từ hai điều kiện trên có thể thấy rằng trong khi phân
công lao động xã hội làm nảy sinh các quan hệ kinh tế giữa những chủ thể sản xuất
trong xã hội, làm cho họ có liên quan đến nhau, phải dựa vào nhau, phụ thuộc lẫn
nhau thì sự tách biệt về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể sản xuất trong xã hội lại
khiến cho họ tách biệt với nhau. Đây là một mâu thuẫn. Mâu thuẫn này được giải
quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau. Trên đây là hai điều kiện
cần có cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa, nếu thiếu một trong hai điều kiện thì
khơng thể có sản xuất hàng hóa.
c. Đặc trưng và ưu thế của nền sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa có hai đặc trưng cơ bản sau:
Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán. Sản xuất hàng hóa là
kiểu tổ chức kinh tế đối lập với sản xuất tự cung tự cấp trong thời kỳ đầu của lịch
sử lồi người. Cụ thể, trong sản xuất hàng hóa, sản phẩm được tạo ra để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của người khác thông qua việc trao đổi, mua bán.
Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân vừa mang
tính xã hội. Tính chất nhân thể hiện ở đặc tính của sản phẩm được quyết định bởi

cá nhân người làm ra nó hoặc người trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất trên danh


nghĩa. Tính xã hội thể hiện qua việc sản phẩm tạo ra đáp ứng cho nhu cầu của
những người khác trong xã hội. Tính chất tư nhân có thể phù hợp hoặc khơng phù
hợp với tính chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa.
Sản xuất hàng hóa có những ưu thế sau:
Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở
của phân công lao động xã hội, chun mơn hóa sản xuất, vì thế nó khai thác được
những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kĩ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất. Bên
cạnh đó, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại tác động trở lại, thúc đẩy sự phát
triển của phân cơng lao động xã hội, làm cho chun mơn hóa lao động ngày càng
tăng.
Đẩy mạnh q trình xã hội hóa sản xuất: Sản xuất hàng hóa phá vỡ tính tự
cung tự cấp, bảo thủ, lạc hậu của nền sản xuất tự cấp tự túc. Khai thác được lợi thế
về tự nhiên, xã hội, kĩ thuật của từng người, từng cơ sở, từng vùng, từng địa
phương, kích thích sự phát triển về kinh tế của cả quốc gia.
Đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội: Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu
của con người ngày càng gia tăng cả về lượng và chất, sản xuất hàng hóa giúp cho
họ có nhiều sự lựa chọn hơn để đáp ứng nhu cầu của mình. Góp phần cải thiện đời
sống xã hội đồng thời làm tăng khả năng lao động của xã hội.
2. Nền kinh tế sản xuất hàng hóa
a. Khái niệm
Kinh tế hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ
biến của sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán, trao đổi trên thị
trường.
Ở giai đoạn sơ khai, trao đổi hàng hóa mang hình thức trực tiếp, gọi là hàng
đổi hàng. Khi tiền xuất hiện, các cá nhân có thể sử dụng tiền là phương tiện trao
đổi. Lúc này, nền kinh tế hàng hóa đồng thời là kinh tế tiền tệ. Khi cơ chế trao đổi



Document continues below
Discover more from:
Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin KTCT01
Đại học Kinh tế Quốc dân
999+ documents

Go to course

12

Phân tích quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và những tác
động tích cực đối với Việt Nam
Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin

100% (48)

Vo ghi triet hoc Mac - Lenin 1
17

Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin

99% (69)

Tiểu luận Kinh tế Chính trị Mác-Lênin
14

Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin

98% (100)


Tài liệu tổng hợp Kinh tế chính trị Mác LêNin
63

Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin

98% (134)

KTCT - Tài liệu ơn tự luận
57

Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin

98% (64)

Thực trạng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
16

Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin

100% (21)


dựa trên giá cả thị trường, kinh tế hàng hóa cũng là kinh tế thị trường. Khi cơ chế
trao đổi dựa trên những sắp xếp quy hoạch từ một trung tâm, kinh tế hàng hóa
đồng thời là kinh tế kế hoạch.
Kinh tế hàng hóa là một giai đoạn phát triển nhất định trong sự phát triển
của xã hội theo trình tự: kinh tế tự nhiên - kinh tế hàng hóa - kinh tế sản phẩm.
Trong bất kỳ chế độ xã hội nào, sự tồn tại hình thái giá trị và thị trường luôn là đặc
trưng chung của kinh tế hàng hóa.

b. Những ưu điểm
So với kinh tế tự nhiên, một loại hình kinh tế cịn in đậm dấu vết ở nước ta,
kinh tế hàng hóa có những ưu thế sau:
Một là, thúc đẩy q trình xã hội hóa sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân
cơng lao động, chun mơn hóa sản xuất càng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ
kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền
đề cho sự hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ.
Hai là, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, buộc người sản xuất
phải năng động, luôn cải tiến kĩ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, cải
tiến chất lượng và hình thức mẫu mã cho phù hợp với nhu cầu của xã hội.
Ba là, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. Mở rộng giao lưu kinh
tế trong nước và hội nhập thế giới. Có tác dụng lớn trong việc tuyển chọn doanh
nghiệp và cá nhân quản lý giỏi.
Bốn là, giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản
xuất khép kín đã từng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện
cần thiết cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế phát triển trình độ cao dưới
hình thức quan hệ hàng hóa, tiền tệ.


c. Những khuyết điểm
Bên cạnh những ưu điểm, kinh tế hàng hóa cũng chịu được những khuyết
điểm của nó. Thị trường chứ đựng những yếu tố tự phát, bất ổn dẫn đến mất cân
đối. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả
xấu:
Một là, đặt lợi nhuận lên hàng đầu, có lãi thì làm nên khơng giải quyết được
cái gọi là “hàng hóa cơng cộng”.
Hai là, các vấn đề cơng bằng xã hội khơng được đảm bảo, sự phân hóa
xã hội cao, khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng.
Ba là, suy đồi đạo đức, muốn làm giàu bằng mọi giá, khơng có lương tâm
mà làm ra hàng giả, kém chất lượng. Bên cạnh đó mơi trường sống của con người

cũng bị hủy hoại.
Do tính tự phát vốn có, kinh tế hàng hóa có thể mang lại khơng chỉ tiến bộ
và cịn cả suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội cần thiết phải có sự can thiệp,
quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Nhờ đó sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của
thị trường ổn định, tối đa hiệu quả kinh tế, đảm bảo định hướng chính trị của sự
phát triển nền kinh tế, sửa chữa khắc phục những khuyết điểm vốn có, tạo ra cơng
cụ quan trọng điều tiết thị trường. Bằng cách đó, Nhà nước mới có thể kiểm chế
tính tự phát, đồng thời kích thích đối với sản xuất thơng qua trao đổi hàng hóa
dưới hình thức thương mại.

II, Thực trạng về phát triển nền kinh tế hàng hóa Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng nền kinh tế hàng hóa
Sau đại dịch tuy vẫn gặp nhiều khó khăn nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn


đang trong đà hồi phục và có tiềm năng phát triển mạnh trong tương lai bất chấp
tình hình thế giới đang có nhiều biến động, khủng hoảng:
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2023 ước tính tăng 5,33% so với
cùng kỳ năm trước, mặc dù chỉ cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ các năm 2020 và
2021 trong giai đoạn 2011-2023 [1] nhưng với xu hướng tích cực (quý I tăng
3,28%, quý II tăng 4,05%, quý III tăng 5,33%). Trong đó, khu vực nơng, lâm
nghiệp và thủy sản tăng 3,72%, đóng góp 8,03% vào mức tăng tổng giá trị tăng
thêm của tồn nền kinh tế; khu vực cơng nghiệp và xây dựng tăng 5,19%, đóng
góp 38,63%; khu vực dịch vụ tăng 6,24%, đóng góp 53,34%. Về sử dụng GDP quý
III/2023, tiêu dùng cuối cùng tăng 3,79% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp
40,56% vào tốc độ tăng chung của nền kinh tế; tích lũy tài sản tăng 6,61%, đóng
góp 44,92%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 2,27%; nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ tăng 1,42%; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp
14,52%.
GDP 9 tháng năm 2023 tăng 4,24% so với cùng kỳ năm trước, chỉ cao hơn

tốc độ tăng 2,19% và 1,57% của 9 tháng các năm 2020 và 2021 trong giai đoạn
2011-2023[2]. Trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của tồn nền kinh tế, khu vực
nơng, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,43%, đóng góp 9,16%; khu vực cơng nghiệp
và xây dựng tăng 2,41%, đóng góp 22,27%; khu vực dịch vụ tăng 6,32%, đóng góp
68,57%.
Trong khu vực nơng, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất lúa đông xuân và hè
thu đạt khá, sản lượng một số cây lâu năm chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước,
chăn nuôi phát triển ổn định, nuôi trồng thủy sản đạt kết quả khả quan. Giá trị tăng
thêm ngành nông nghiệp 9 tháng năm 2023 tăng 3,42% so với cùng kỳ năm trước,
đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền


kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,13% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp
0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3,56%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh tổng cầu thế giới suy giảm. Giá trị tăng
thêm toàn ngành công nghiệp 9 tháng năm 2023 chỉ tăng 1,65% so với cùng kỳ
năm trước, là mức tăng thấp nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 20112023[3], đóng góp 0,56 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm tồn
nền kinh tế. Trong đó, cơng nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,98%, là mức tăng thấp
nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2023 [4], đóng góp 0,51 điểm phần
trăm. Ngành xây dựng tăng 6,17%, đóng góp 0,42 điểm phần trăm.
Các ngành thương mại, du lịch duy trì đà tăng trưởng cao, đóng góp tích cực
vào tăng trưởng của khu vực dịch vụ. Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ 9 tháng
năm 2023 tăng 6,32% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 1,87% và mức
giảm 0,05% của cùng kỳ các năm 2020 và năm 2021[5]. Trong khu vực dịch vụ,
đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm
toàn nền kinh tế như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 8,04% so với cùng kỳ năm
trước, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 8,66%, đóng góp
0,53 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,91%,
đóng góp 0,4 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 13,17%, đóng góp

0,33 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế 9 tháng năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản chiếm tỷ trọng 11,51%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,16%; khu
vực dịch vụ chiếm 42,72%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,61% (Cơ
cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2022 là 11,47%; 38,49%; 41,29%; 8,75%).
Về sử dụng GDP 9 tháng năm 2023, tiêu dùng cuối cùng tăng 3,03% so với
cùng kỳ năm 2022, đóng góp 34,30% vào tốc độ tăng chung của nền kinh tế; tích
lũy tài sản tăng 3,22%, đóng góp 19,35%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm


5,79%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 8,19%; chênh lệch xuất, nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ đóng góp 46,35%.
Lực đỡ cho nền kinh tế tiếp tục nằm ở khu vực dịch vụ với giá trị tăng thêm
6,32%. Uớc tính xuất siêu đạt 21,68 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 6,9 tỷ
USD). Tính đến ngày 20/9/2023, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn
mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 20,21 tỷ USD,
tăng 7,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 3,16% so với
cùng kỳ năm trước, thấp hơn mục tiêu đã được Quốc hội thông qua.
Cũng theo Tổng cục Thống kê, tính chung 9 tháng năm 2023, cả nước có
116,3 nghìn doanh nghiệp đăng kí thành lập mới với tổng số vốn đăng kí là 1.086,8
nghìn tỉ đồng và tổng số lao động đăng kí là 748,9 nghìn lao động, tăng 3,1% về số
doanh nghiệp, giảm 14,6% về vốn đăng kí và giảm 1,2% về số lao động so với
cùng kì năm trước. Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 75,8
nghìn doanh nghiệp, tăng 21,2% so với cùng kì năm trước; 46,1 nghìn doanh
nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 26,9%; 13,2 nghìn doanh
nghiệp hồn tất thủ tục giải thể, giảm 4,3%.
Hoạt động thương mại, vận tải, du lịch tiếp tục sơi động. Tổng mức bán lẻ
hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2023 tăng 9,7% so với cùng
kì năm trước; vận chuyển hành khách tăng 13,1% và luân chuyển tăng 27,9%; vận
chuyển hàng hóa tăng 14,6% và luân chuyển tăng 12,5%; khách quốc tế đến Việt

Nam ước đạt 8,9 triệu lượt người, gấp 4,7 lần cùng kì năm trước nhưng vẫn chỉ
bằng 69% so với cùng kì năm 2019 - năm chưa xảy ra đại dịch Covid-19; số lượt
người Việt Nam xuất cảnh đạt 3,8 triệu lượt người, gấp 2,5 lần cùng kì năm trước.
2. Đánh giá thực trạng


a. Những kết quả đạt được
Trở thành nước có thu nhập trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế
khuvực và thế giới, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế.
Sức khỏe nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi.
Các đạo luật, thể chế, chính sách ngày càng được hồn thiện. Tư duy xây
dựng pháp luật có sự thay đổi theo chiều hướng tiến bộ, trong đó có những thay đổi
mang tính đột phá, giúp mở rộng khơng gian hoạt động kinh doanh đầu tư của
người dân.
Cắt giảm thủ tục hành chính, cắt giảm các điều kiện kinh doanh bất hợp lý,
cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh giúp nâng cao nhận thức cho các bộ, ngành
nhằm dỡ bỏ rào cản tham gia thị trường.
Kinh tế tư nhân ngày càng là động lực quan trọng, kinh tế tập thể đổi mới
gắn với cơ chế thị trường, kinh tế vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh.
phục tác động tiêu cực nhiều mặt của dịch bệnh, tạo môi trường đầu tư kinh
doanh thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh.
Tiếp tục giữ vững tình hình chính trị xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng.
b. Những hạn chế và nguyên nhân
-

Thể chế vẫn còn nhiều thiếu sót, thiếu liên kết:
Khi thể chế phát triển, việc điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và

chậm được cụ thể hóa bằng pháp luật nên liên kết vùng cịn lỏng lẻo. Ngồi ra, chất
lượng luật pháp và chính sách trên một số lĩnh vực còn thấp. Nhiều quy định đang

rất cần được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới.
Một số loại thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình
thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị
trường các yếu tố sản xuất.
-

Nhận thức về nền kinh tế thị trường còn chưa cao:


Quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa diễn ra chậm. Vì vậy, dẫn đến thiếu sự đồng bộ, tính nhất quán nhưng cịn
tồn tại những bất cập trong q trình hồn thiện thể chế kinh tế thị trường.
-

Cơ sở hạ tầng còn cần được phát triển hơn nữa:
Cơ sở hạ tầng ln đóng một vai trị đặc biệt quan trọng, là nền tảng của sự

nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Các cơng trình, kết cấu kỹ thuật ở đây rất đa
dạng, đó là:
Các cơng trình giao thơng vận tải (hạ tầng giao thơng) , cơng trình của ngành
Bưu chính - Viễn thơng (hạ tầng kỹ thuật số), cơng trình điện, cơng trình thủy lợi
(hạ tầng năng lượng), cơng trình bệnh viện, trường học và các cơng trình cơng
cộng phục vụ cộng đồng,… Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập trong cơ sở hạ tầng.
Thực tế cho thấy, hạ tầng giao thơng trục chưa có tính kết nối và liên thông
thuận lợi giữa các địa phương trong nội vùng và liên vùng. Còn nhiều hạn chế
trong đầu tư phát triển hạ tầng giao thông. Đầu tư kết nối giữa các phương thức vận
tải chưa phát huy hiệu quả của toàn hệ thống, thiếu đồng bộ. Trong thời gian qua
phát triển vận tải bằng đường bộ và hàng không là chủ yếu, các phương thức vận
tải khác như đườngsắt và đường thủy còn nhiều hạn chế chưa phát huy được hiệu
quả khai thác.

Việc khai thác, sử dụng chưa hiệu quả công trình sau khi đầu tư gây lãng phí
nguồn lực. Các trung tâm logistics quy mô nhỏ, chủ yếu phục vụ một số doanh
nghiệp trong khu vực khu công nghiệp hay một địa phương, chưa phát triển đến
quy mô phục vụ một ngành hoặc một vùng kinh tế.
Đối với hạ tầng năng lượng, khi nền kinh tế phát triển và nhu cầu sử dụng
năng lượng ngày càng lớn, việc bổ sung nguồn năng lượng xanh, sạch, ngày càng
trở nên cần thiết hơn. Tuy nhiên, nguồn năng lượng này không liên tục. Việt Nam
cần chú trọng giải quyết các vấn đề quan trọng như tích hợp năng lượng tái tạo,


phát triển mạng lưới, tự động hóa lưới điện,… Đồng thời, cung cấp đầy đủ công
nghệ trong chuỗi giá trị điện năng, đảm bảo độ an toàn và tin cậy của dịng điện.
-

Thách thức về cải thiện mơi trường kinh doanh, sử dụng hiệu quả các nguồn

lực phát triển:
Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thơng thống, minh bạch; việc
bảo vệ thị trường trong nước, phòng ngừa, xử lý tranh chấp thương mại quốc tế còn
bất cập.
Tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm năng,
lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp, khả
năng cạnh tranh quốc tế chưa cao. Trong khi đó, chúng ta chưa tạo được đột phá
trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Mà các
nguồn lực cho phát triển phân bổ còn dàn trải, lãng phí, chưa cơng bằng, chưa đem
lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội
có chiều hướng gia tăng.
- Do “các cơn gió nghịch” tác động lên nền kinh tế:
Tuy nền kinh tế đã có những bước hồi phục nhưng các định chế tài chính
tồn cầu nhận định cầu nước ngoài sụt giảm sẽ tiếp tục gây sức ép lên tăng trưởng

kinh tế trong thời gian tới.
Tình hình vẫn chưa được khả quan khi các doanh nghiệp xuất khẩu phải đối
mặt với nhiều thách thức đến từ nhu cầu giảm từ các thị trường Mỹ và Châu Âu.
Tốc độ tăng trưởng khả quan trong một quý không đủ để kết luận rằng đã hết
nguy cơ kéo giảm đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.

III, Những biện pháp chủ yếu nhằm phát triển nền kinh tế hàng hóa
ở Việt Nam


Đại hội XIII của Đảng đã đề ra các mục tiêu cụ thể phát triển đất nước trong
những năm tới:
-

Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất
đấtnước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt
qua mứcthu nhập trung bình thấp (GDP bình quân đầu người ước đạt 4.7005.000USD/năm).

-

Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển,
có cơng nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao (GDP bình quân đầu người
ước đạt khoảng 7.500 USD/năm).

-

Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát
triển, thu nhập cao (đến năm đó, tiêu chí sẽ thay đổi, theo tiêu chí hiện nay,
GDP bình qn đầu người phải đạt trên 12.535 USD/năm).

Chính vì vậy, dựa vào thực trạng phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã

hội Chủ nghĩa và căn cứ vào nhu cầu phát triển của đất nước trong thời gian tới, có
thể xácđịnh và đưa ra những phương hướng, giải pháp, các nội dung cơ bản cần
được tập trung quan tâm nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, cần hoàn thiện thể chế về phát triển và xây dựng, giữ vững,
định hướng,thống nhất, đồng thời nâng cao nhận thức về nền kinh tế thị trường
định hướng Xã hội Chủ nghĩa:
Về hoàn thiện thể chế , cần hoàn thiện đồng bộ thể chế nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa bằng cách tập trung rà soát, tháo gỡ những
điểm nghẽn tức quy định chưa hợp lý trong hệ thống luật pháp. Hơn thế, cịn cần
sửa đổi, hồn thiện các thủ tục hành chính chồng chéo cản trở sự phát triển kinh tế
và tăng cường kỷ cương, trách nhiệm giữa các cấp, các ngành. Ngoài ra, cần tập
trung hơn vào cơng tác bổ sung các cơ chế và chính sách để cải thiện môi trường


đầu tư kinh doanh: thúc đẩyphát triển, khởi nghiệp; khuyến khích sự ra đời của các
loại hình và mơ hình kinh doanh mới, công nghệ mới, sản phẩm mới; hỗ trợ, thúc
đẩy chuyển đổi mơ hình tăngtrưởng, cơ cấu nền kinh tế nhằm nâng cao năng suất
và sức cạnh tranh. Đặc biệt, cần chú trọng hoàn thiện thể chế về việc phát triển các
hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp. Bởi việc thể
chế hố là nhằm đa dạng các hình thức sở hữu và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của chủ sở hữu tài sản theo hình thức sở hữu và hồn thiện luật pháp về quyền và
trách nhiệm sở hữu đối với các loại tài sản mới như: sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái
phiếu, …. Các loại tài nguyên đất, nước, vốn và các loại tài sản công khác cũng
phải được thường xuyên đổi mới và hoàn thiện cơ chế để đảm bảo các tài sản luôn
được sử dụng hiệu quả, khơng thất thốt hay lãng phí.
Thể chế về tiếp tục cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh, tập trung vào một
số lĩnhvực then chốt của nền kinh tế cũng nên được chú trọng bằng thực hiện

khuyến khích phát triển mạnh nền kinh tế hợp tác giữa các hợp tác xã, doanh
nghiệp nhỏ và vừa với nhiều hình thức đa dạng, đồng thời đẩy mạnh phát triển kinh
tế tư nhân ở hầu hết các ngành theo pháp luật, coi kinh tế tư nhân là một trong
những động lực quan trọng của nền kinh tế nước nhà, phát triển doanh nghiệp tư
nhân bằng việc nâng cao trình độ nhân lực, nới rộng thị trường, bảo vệ môi trường.
Không chỉ thế, cần hoàn thiện thể chế về việc phát triển đồng bộ các yếu tố thị
trường và các loại thị trường với việc hồn thiện, bổ sung và rà sốt các quy định
về việc kinh doanh phù hợp với điều kiện ở Việt Nam nhằm bảo vệ thị trường nội
địa và phải tuân thủ quy tắc của các tổ chức quốc tế và khu vực mà Việt Nam tham
gia, và phát triển đa dạng, hiện đại các loại thị trường hàng hoá, dịch vụ đồng thời
chú trọng mở rộng thị trường trong nước, đảm bảo thị trường cạnh tranh lành mạnh
nhằm bảo vệ lợi ích về giá cả, chất lượng và sự an toàn của người sản xuất và
người tiêu dùng. Quan trọng là từng bước mở cửa thị trường tài chính, dịch vụ
ngân hàng; hoàn thiện và đồng bộ thể chế về tiền tệ, tín dụng và ngoại hối nhưng


phải đảm bảo phù hợp với nhu cầu phát triển trong nước và cam kết quốc tế. Ngoài
ra phải đẩy mạnh, phát triển và mở rộng thị trường công nghệ - khoa học; thị
trường bất động sản, thị trường lao động cũng là việc làm cần thiết để đảm bảo sự
vận hành thông suốt và kết nối được với các thị trường trên thế giới.
Về nâng cao nhận thức về việc phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa: Trong phiên khai mạc Đại hội XII của Đảng, báo cáo
của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh phải thống nhất, hoàn thiện và
nâng cao nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam và đồng
thời đảm bảo định hướng đó phù hợp với các giai đoạn phát triển của quốc gia. Cụ
thể như sau: Dưới sự quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm nền
kinh tế vừa dựa trên những quy luật kinh tế thị trường, vừa tuân theo nguyên tắc
cũng như bản chất của chủ nghĩa xã hội. Khơng chỉ thế, cịn cần chú trọng phát
triển nền kinh tế bền vững với các chính sách như: xố đói, giảm nghèo, khuyến
khích làm giàu hợp pháp, cạnh tranh lành mạnh, phát huy quyền tự do kinh doanh

cho mọi công dân. Đồng thời vận dụng linh hoạt và đầy đủ cơ chế thị trường, coi
trọng và hợp tác lâu dài với mọi thành phần và chủ thể tham gia thị trường nhằm
phát huy bền vững nền kinh tế. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nhưng vẫn
giữ vững tính độc lập, tăng cường tính tự chủ của nền kinh tế nước nhà, luôn đảm
bảo phát triển kinh tế luôn đi đôi với phát triển văn hoá -xã hội.
Giải pháp thứ hai là phát triển cơ sở hạ tầng. Kết cấu hạ tầng là tổng hợp
các cơng trình vật chất kỹ thuật có chức năng phục vụ trực tiếp cho nền kinh tế và
đời sống, được bố trí trên một phạm vi nhất định. Như vậy, các cơng trình, kết cấu
kỹ thuật ở đây rất đa dạng, đó là: các cơng trình giao thơng vận tải (hạ tầng giao
thơng), cơng trình của ngành Bưu chính - Viễn thơng (hạ tầng kỹ thuật số), cơng
trình điện, cơng trình thủy lợi (hạ tầng năng lượng), cơng trình bệnh viện, trường
học và các cơng trình cơng cộng phục vụ cộng đồng,…Những cơng trình này có vị


trí hết sức quan trọng, phục vụ trực tiếp và gián tiếp các hoạt động của xã hội. Như
vậy, cơ sở hạ tầng ln đóng một vai trị đặc biệt quan trọng, là nền tảng của sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Để đẩy mạnh phát triển hạ tầng giao thông, tạo
động lực thúc đẩy liên kết vùng trong thời gian tới, cần quan tâm thực hiện một số
giải pháp như: rà soát lại quy hoạch hạ tầng giao thông của vùng và của các địa
phương, kể cả quy hoạch của ngành Giao thông và các lĩnh vực kinh tế xã hội
khác, xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế vùng và liên vùng; quy hoạch phải
mang tính đồng bộ cao, tránh manh mún, chồng chéo trong các lĩnh vực, các
ngành; đồng thời phải gắn chặt với đà phát triển kinh tế - xã hội để giao thông thật
sự đi trước, là động lực phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, của vùng; trong
chiến lược phát triển, cần cân đối lại các tỷ lệ và phương thức đầu tư, bảo đảm sử
dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phải đồng bộ giữa các loại hình giao thơng; …
Với hạ tầng năng lượng, cần tập trung phát triển năng lượng xanh, năng lượng sạch
nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng lớn của công cuộc phát triển
kinh tế bởi đây là một cách phát triển hướng tới sự bền vững và cũng là tuân theo
xu thế phát triển của thế giới. Ngoài ra, cũng cần phát triển hạ tầng kỹ thuật số

bằng việc tăng cường phát triển công nghệ thông tin, xây dựng mạng lưới viễn
thông ngày càng ổn định, đặc biệt là tập trung phát triển mạng 5G. Vì kinh tế càng
phát triển thì yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng lại càng cao, như vậy, Nhà nước cần
có chính sách khuyến khích đa dạng các nguồn vốn, tạo điều kiện cho các thành
của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm nền kinh tế vừa dựa trên những
quy luật kinh tế thị trường, vừa tuân theo nguyên tắc cũng như bản chất của chủ
nghĩa xã hội. Khơng chỉ thế, cịn cần chú trọng phát triển nền kinh tế bền vững với
các chính sách như: xố đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp, cạnh
tranh lành mạnh, phát huy quyền tự do kinh doanh cho mọi công dân. Đồng thời
vận dụng linh hoạt và đầy đủ cơ chế thị trường, coi trọng và hợp tác lâu dài với
mọi thành phần và chủ thể tham gia thị trường nhằm phát huy bền vững nền kinh


tế. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nhưng vẫn giữ vững tính độc lập, tăng
cường tính tự chủ của nền kinh tế nước nhà, luôn đảm bảo phát triển kinh tế luôn đi
đôi với phát triển văn hoá - xã hội. Để đẩy mạnh phát triển hạ tầng giao thông, tạo
động lực thúc đẩy liên kết vùng trong thời gian tới, cần quan tâm thực hiện một số
giải pháp như: rà soát lại quy hoạch hạ tầng giao thông của vùng và của các địa
phương, kể cả quy hoạch của ngành Giao thông và các lĩnh vực kinh tế xã hội
khác, xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế vùng và liên vùng; quy hoạch phải
mang tính đồng bộ cao, tránh manh mún, chồng chéo trong các lĩnh vực, các
ngành; đồng thời phải gắn chặt với đà phát triển kinh tế - xã hội để giao thông thật
sự đi trước, là động lực phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, của vùng; trong
chiến lược phát triển, cần cân đối lại các tỷ lệ và phương thức đầu tư, bảo đảm sử
dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phải đồng bộ giữa các loại hình giao thơng; …
Với hạ tầng năng lượng, cần tập trung phát triển năng lượng xanh, năng lượng sạch
nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng lớn của công cuộc phát triển
kinh tế bởi đây là một cách phát triển hướng tới sự bền vững và cũng là tuân theo
xu thế phát triển của thế giới. Ngoài ra, cũng cần phát triển hạ tầng kỹ thuật số
bằng việc tăng cường phát triển công nghệ thông tin, xây dựng mạng lưới viễn

thông ngày càng ổn định, đặc biệt là tập trung phát triển mạng 5G. Vì kinh tế càng
phát triển thì yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng lại càng cao, như vậy, Nhà nước cần
có chính sách khuyến khích đa dạng các nguồn vốn, tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế và người dân tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu nhằm phục vụ
phát triển kinh tế đất nước.
Thứ ba, cần chú tâm mở rộng hội nhập, tăng cường quan hệ hợp tác quốc
tế. Ngoại giao kinh tế đóng vai trị là một công cụ hữu hiệu đưa nước ta phát triển
nhanh và bền vững, xác lập vị thế của Việt Nam lên tầm cao mới trong kinh tế thế
giới và cộng đồng quốc tế. Đầu tiên, cần mở rộng và đưa quan hệ kinh tế của Việt
Nam với các nước đi vào chiều sâu; tham gia các liên kết kinh tế, diễn đàn đa



×