Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN đề tài lý LUẬN của CHỦ NGHĨA MÁC–LENIN về XUẤT KHẨU tư bản và LIÊN hệ THỰC TIỄN ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.27 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

========================

TIỂU LUẬN

ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC–LENIN VỀ XUẤT
KHẨU TƯ BẢN VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
Họ và tên : Phan Nữ Hồng Hạnh
MSV

: 11212117

Lớp

: Kinh doanh thương mại 63C

Hà Nội, tháng 4 năm 2022
1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

3

PHẦN I: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LENIN VỀ XUẤT KHẨU TƯ BẢN
4

1. KHÁI NIỆM XUẤT KHẨU TƯ BẢN



4

2. BẢN CHẤT CỦA XUẤT KHẨU TƯ BẢN

4

3. CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU TƯ BẢN

5

4. TÁC ĐỘNG CỦA XUẤT KHẨU TƯ BẢN

6

5. SỰ THAY ĐỔI CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT
KHẨU ĐỘC QUYỀN TỪ SAU CTTG 2
7

PHẦN II: THỰC TIỄN XUẤT KHẨU TƯ BẢN TẠI VIỆT NAM

8

1. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU TƯ BẢN CỦA VIỆT NAM GẦN ĐÂY

8

2. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM TRONG VIỆC
XUẤT KHẨU TƯ BẢN
11

A) NHỮ NG NÉT LỚN TRONG TOÀN CẢNH KINH TẾ VIỆT NAM

11

B) NHỮ NG CƠ HỘI CHO VIỆT NAM ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI...

13

C) …VÀ NHỮNG THÁCH THỨC

13

KẾT LUẬN

15

TÀI LIỆU THAM KHẢO

16

2


LỜI MỞ ĐẦU

Trong bối cảnh hiện nay khi mà xu thế hội nhập ngày càng phát triển, xuất khẩu tư bản đã
trở thành xu hướng tất yếu của các nước trên thế giới. Từ các nước có nền kinh tế phát triển,
tiềm lực tài chính mạnh, khoa học cơng nghệ hiện đại, đến các nước đang và kém phát triển,
hoạt động đầu tư quốc tế diễn ra hết sức sôi nổi. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đi kèm với nó
là sự chuyển giao về vốn, cơng nghệ, thị trường và các kinh nghiệm trong quản lý đáp ứng

nhu cầu của các nước đang phát triển, đồng thời góp phần tạo việc làm cho người lao động.
Khơng nằm ngồi xu thế đó, Việt Nam đã và đang nỗ lực đẩy mạnh tiến trình hội nhập
quốc tế. Chặng đường đổi mới của nước ta từ năm 1986 đến nay là một q trình đầy chơng
gai và thử thách, những thành tựu đạt được có ý nghĩa lịch sử to lớn, là tiền đề, động lực để
Việt Nam bước sang giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng và mạnh mẽ hơn. Trong đó, khơng
thể khơng kể đến vai trị của hoạt động xuất khẩu tư bản. Các hoạt động xuất khẩu tư bản
giúp các doanh nghiệp khia thác được điểm mạnh của mình, tăng khả năng cạnh tranh, vượt
qua các rào cản thương mại của các nước nhận đầu tư, nâng cao hiệu quả của việc sản xuất
kinh doanh. Không những thế, nó cịn mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho ngân sách
Nhà nước, tham gia thúc đẩy q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Với vai trò to lớn của hoạt động xuất khẩu tư bản đối với thế giới nói chung và Việt Nam
nói riêng, em xin phép nghiên cứu và trình bày đề tài: “Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lenin về
xuất khẩu tư bản và liên hệ thực tiễn ở Việt Nam.”. Vì thời gian có hạn, sự tiếp xúc với mơn
học và đề tài chưa được sâu rộng nên bài luận khơng tránh khỏi cịn nhiều thiếu sót. Mong
nhận được những góp ý, nhận xét từ q thầy cơ.

3


PHẦN I: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LENIN VỀ
XUẤT KHẨU TƯ BẢN

1. Khái niệm
-

Xuất khẩu tư bản là hành động mang tư bản đầu tư từ nước ban đầu sang một hay
nhiều nước khác nhằm mục đích chính là sản xuất ra giá trị thặng dư.

-


Các đặc điểm của xuất khẩu tư bản:


Các nhà tư bản đem tư bản ra nước ngồi nhằm mục đích chính và to lớn nhất là
bóc lột giá trị thặng dư ở nước nhập khẩu tư bản.



Xuất khẩu tư bản là công cụ mà các nước phát triển sử dụng để bóc lột các nước
ngồi nước mình.



Xuất khẩu lao động là cơng cụ để các tổ chức độc quyền mở rộng tính độc quyền
của mình.

2. Bản chất của xuất khẩu tư bản
-

Xuất khẩu tư bản là mang tư bản đầu tư ở nước ngoài để sản xuất giá trị thặng dư ở
nước sở tại, khác với xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực
hiện giá trị và giá trị thặng dư được tạo ra trong nước.

-

Lenin nhận định rằng: “Xuất khẩu tư bản là quá trình ăn bám bình phương.” Để
chứng minh cho luận điểm này, ông đã xem xét chi tiết về khả năng và tính tất yếu
của xuất khẩu tư bản. Từ đầu thế kỷ XX đến nay, xuất khẩu tư bản trở nên tất yếu và
phổ biết do những lý do sau:



Các nước tư bản phát triển đã tích lũy được khối tư bản kếch xù nhưng một phần
trở thành “tư bản thừa” do khơng tìm được thị trường đầu tư có tỷ suất lợi nhuận
cao tại quốc nội.



Các nước đang phát triển và kém phát triển cũng tham gia, bị lôi cuốn vào sự giao
lưu kinh tế quốc tế, hội nhập quốc tế nhưng vốn tư bản khơng đủ nên ở đó có
nguồn ngun liệu, nguồn lao động, nhân công rẻ, giá ruộng đất tương đối giảm,
dẫn đến tỷ suất lợi nhuận cao.



Xuất khẩu tư bản là một phương pháp xoa dịu sự mâu thuẫn kinh tế - xã hội – vốn
nảy sinh từ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.

4


3. Các hình thức xuất khẩu tư bản
-

Xét về cách thức đầu tư, xuất khẩu tư bản tồn tại dưới hai hình thức:


Đầu tư trực tiếp: là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới
hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành
một chi nhánh của cơng ty mẹ. Các xí nghiệp mới được hình thành thường tồn tại
dưới dạng hỗn hợp song phương, nhưng cũng có những xí nghiệp mà tồn bộ số

vốn là của một cơng ty nước ngồi.



Đầu tư gián tiếp: là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay thu lãi. Thông
qua các ngân hàng tư nhân hoặc các trung tâm tín dụng quốc tế và quốc gia, tư
nhân hoặc các nhà tư bản cho các nước khác vay vốn theo nhiều hạn định khác
nhau để đầu tư vào các đề án phát triển kinh tế. Ngày nay, hình thức này cịn được
thực hiện bằng việc mua trái khốn hay cổ phiếu của các công ty ở nước nhập
khẩu tư bản.

-

Nếu xét theo chủ sở hữu, có xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân:


Xuất khẩu tư bản nhà nước là hình thức xuất khẩu tư bản mà nhà nước tư sản lấy
tư bản từ ngân quỹ của mình đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản, hoặc viện trợ
hồn lại hay khơng hồn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và
quân sự. Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành
thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư tư bản tư nhân. Về
chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản nhằm cứu vãn chế độ chính trị thân cận
đang bị lung lay hoặc tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lâu dài. Về quân sự, viện trợ
của nhà nước tư sản nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào các khối quân sự hoặc
buộc các nước nhận viện trợ phải đưa quân tham chiến chống nước khác, cho
nước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình hoặc đơn thuần để bán
vũ khí.




Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản do tư bản tư nhân thực
hiện. Ngày nay, hình thức này chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia tiến hành
thơng qua hoạt động đầu tư kinh doanh. Hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân có
đặc điểm là thường được đầu tư vào các ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn
và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức chủ
yếu của xuất khẩu tư bản, có xu hướng tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong tổng tư
bản xuất khẩu. Nếu những năm 70 của thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản tư nhân đạt
5


trên 50% thì đến những năm 80 của thế kỷ này nó đã đạt tỷ lệ 70% trong tổng tư
bản xuất khẩu.
-

Nếu xét về cách thức hoạt động, có các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia,
hoạt động tài chính tín dụng của các ngân hàng hay các trung tâm tín dụng và chuyển
giao cơng nghệ, trong đó, hoạt động dưới hình thức chuyển giao cơng nghệ là biện
pháp chủ yếu mà các nước xuất khẩu tư bản thường sử dụng để khống chế nền kinh tế
của các nước nhập khẩu tư bản.

-

Xuất khẩu tư bản về thực chất là hình thức mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
trên phạm vi quốc tế, là sự bành trường thế lực của tư bản tài chính nhằm bóc lột nhân
dân lao động thế giới, làm cho các nước nhập khẩu tư bản bị bóc lột gía trị thặng dư,
cơ cấu kinh tế què quặt, lệ thuộc vào nền kinh tế nước tư bản chủ nghĩa. Từ đó làm
cho mâu thuẫn kinh tế - xã hội gia tăng.

4. Tác động của xuất khẩu tư bản
-


Mặt tích cực:


Tác động tích cực đến sự biến chuyển của nền kinh tế của các nước nhập khẩu
tư bản, góp phần thúc đẩy nhanh q trình cơng nghiệp, hiện đại hóa đất nước
cũng như làm thúc đẩy biến chuyển từ nền kinh tế đang phụ thuộc rất nhiều
vào nông nghiệp sang phát triển đồng thời công nông phối hợp. Nước nhập
khẩu tư bản có thể học tập nước xuất khẩu tư bản về sự tiến bộ hơn trong phát
triển công nghệ thông qua q trình chuyển giao cơng nghệ từ đó nối tiếp xu
hướng đi tắt đón đầu, phù hợp với hồn cảnh hiện nay.



Tạo thêm việc làm đối với nuước nhập khẩu tư bản, ổn định đời sống người
dân. Khi xây những nhà máy, xí nghiệp, khu cơng nghiệp lớn tại các thành phố
ở các nước khác, nhà tư bản được quyền sử dụng nhân công rẻ mạt nơi đây và
đồng thời đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của công nhân viên làm cho họ qua việc
cung cấp tư liệu sản xuất, tư liệu ăn ngủ nghỉ, …



Mở rộng, thúc đầy lĩnh vực ngoại giao. Khi hợp tác ở một ngành nghề nhất
định đem lại kết quả cho nhiều nhà tư bản xuất khẩu tư bản vào các quốc gia
nhập khẩu tư bản, sẽ đem lại nhiều lợi ích cho việc phát triển các dịch vụ như
du lịch, lan tỏa văn hóa. Mặt khác, vì kinh tế là nền tảng của chính trị, là kiến

6



trúc hạ tầng của xã hội, mỗi quan hệ giữa hai nước theo đà đó mà phát triển
theo chiều hướng tích cực.
-

Mặt tiêu cực:


Gia tăng mức độ bành trướng của đất nước xuất khấu tư bản, gia tăng tính độc
quyền, lợi nhuận, su thống trị, kiểm soát của nước này đối với nước khác.



Khiến cho nền kinh tế hoặc có thể là thêm nhiều mặt khác nữa trong đời sống
xã hội của nước nhập khẩu tư bản lệ thuộc vào nước xuất khẩu tư bản như là
về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, lương thực, ...



Thiệt hai về tài nguyên thiên nhiên mà các nước xuất khẩu không chịu trách
nhiệm, các nước đang phát triển cũng không quá coi trọng đến vấn đề này.

5. Sự thay đổi của chủ nghĩa tư bản độc quyền ảnh hưởng đến xuất khẩu tư bản từ
sau Chiến tranh Thế giới thứ 2:
Sau chiến tranh, việc xuất khẩu tư bản của các nước tư bản phát triển có sự tăng
trưởng rất nhanh. Nguyên nhân của quy mô xuất khẩu tư bản ngày càng lớn. Một mặt,
là do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới đã thúc đầy sự phát triển của việc
phân công quốc tế, việc quốc tế hóa sản xuất và việc tăng nhanh tư bản “dư thừa"
trong các nước.
Mặt khác, là do sự tan rã của hệ thống thuộc địa cũ sau chiến tranh. Chiều hướng
xuất khẩu tư bản cũng có những thay đổi rõ rệt. Trước kia, luông tư bản xuất khẩu hủ

yếu từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển sang các nước kém phát triển (khoảng
70%). Nhưng từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, đặc biệt sau những năm 70 của thế kỉ
XX, ¾ tư bản xuất khẩu được đầu tư vào các nước phát triển, mở đầu bằng việc tư
bản quay trở lại Tây Âu.
Từ đầu những năm 70 của thế ki XX, đại bộ phận dòng tư bản lại chày qua lại giữa
các nước tư bản chủ nghĩa phát triển với nhau, nguyên nhân chủ yếu là do:
-

Về phía các nước đang phát triển, phần lớn những nước này ở trong tình hình chính trị
thiếu ổn định; thiếu mơi trường đầu tư an tồn và thuận lợi; thiếu đội ngũ chuyên gia,
cán bộ khoa học - kỹ thuật, cơng nhân lành nghề; trình độ dân trí thấp và tích lũy nội
bộ nền kinh tế quốc dân ít, khơng đủ mức cần thiết để tiếp nhận đầu tư nước ngồi.

-

Về phía các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
làm xuất hiện nhiều ngành sàn xuất và dịch vụ mới, nhất là những ngành có hàm
7


lượng khoa học - kỹ thuật cao, đòi hỏi lượng vốn lớn để đầu tư vào nghiên cứu khoa
học kỹ thuật và sản xuất. Có một sự di chuyển vốn trong nội bộ các công ty độc quyền
xuyên quốc gia. Các công ty này đặt chi nhánh ở nhiều nước, nhưng phần lớn chi
nhánh của chúng đặt ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Để vượt qua những hàng
rào bảo hộ mậu dịch và khắc phục những trở ngại do việc hình thành các khối liên kết
như Liên minh châu Âu (EU), Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) v.v…
các công ty xuyên quốc gia đã đưa tư bản vào trong các khối đó đề phát triển sàn xuất.

PHẦN II: THỰC TIỄN XUẤT KHẨU TƯ BẢN TẠI VIỆT
NAM

1. Tình hình xuất khẩu tư bản của Việt Nam gần đây
Theo Cục Ðầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Ðầu tư), sau hơn 30 năm hội nhập và
phát triển, đến nay, Việt Nam không chỉ là một quốc gia tiếp nhận đầu tư hàng đầu trong
khu vực mà cịn vươn lên, trở thành quốc gia có nhiều doanh nghiờ pÔ (DN), d ỏn u t
ra nc ngoi. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam ngày càng đa dạng, được
thể hiện rõ nét qua thị trường, ngành nghề đầu tư, quy mơ, hình thức đầu tư, các loại hình
kinh tế và DN tham gia đầu tư.
Thống kê cho thấy, lũy kế từ năm 1989 đến nay, Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài
hơn 25 tỷ USD (số liệu tính đến hết tháng 3/2022) với các lĩnh vực thế mạnh của Việt
Nam là nông nghiệp, lâm nghiệp, năng lượng và viễn thơng. Trong đó, tập trung tại các
nước như Lào, Campuchia và Myanmar với vốn đầu tư chiếm gần 40% tổng vốn đầu tư ra
nước ngoài của DN Việt Nam. Riêng trong 3 tháng đầu năm 2022, đầu tư của Việt Nam ra
nước ngoài, đạt 211,5 triệu USD, giảm 63% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, các
quốc gia nhận đầu tư lớn của Việt Nam, gồm: Lào với 64,3 triệu USD, chiếm 30,4% tổng
vốn đăng ký; Hoa Kỳ 34,5 triệu USD, chiếm 16,3%; Ca-na-đa 34 triệu USD...

8


Xét theo địa bàn đầu tư, trong 3 tháng năm 2022, đã có 12 quốc gia, vùng lãnh thổ
nhận đầu tư của Việt Nam, trong đó Lào là nước dẫn đầu với 64,3 triệu USD, chiếm
30,4% tổng vốn đăng ký; Hoa Kỳ 34,5 triệu USD, chiếm 16,3%; Canada 34 triệu USD,
chiếm 16,1%; Singapore 29,9 triệu USD, chiếm 14,1%; Indonesia 22,7 triệu USD, chiếm
10,8%.Khơng bó hẹp khu vực châu Á, DN Vit Nam cũn m rụ Ông a bn sang Australia,
New Zealand, Mỹ, Canada, Haiti, Cameroon… Để đón đầu dịng vốn đầu tư này, hàng
loạt ngân hàng Việt Nam đã “nối gót” doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngồi, như BIDV,
VietinBank, Sacombank, MB, SHB… Trong quá trình đầu tư, quan hệ đối ngoại, hữu
nghị, sự hỗ trợ của Chính phủ nước sở tại, các nước láng giềng đã tạo điều kiện thuận lợi
cho doanh nghiệp Việt Nam. Nhờ vậy, hoạt động đầu tư diễn ra suôn sẻ hơn, mang lại
nhiều kết quả tích cực, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế, xã hội.


9


Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trải qua vô vàn
thăng trầm, lúc thịnh lúc suy. Bắt đầu từ dự án đầu tiên từ năm 1989, đến khi Nghị định
số 78/2006 / NĐ-CP ngày 9 tháng 8 năm 2006 quy định về đầu tư trực tiếp nước ngoài
được ban hành, số lượng dự án và vốn đăng ký có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Tuy nhiên, sự
bùng nổ hoạt động đầu tư ra nước ngồi của các cơng ty Việt Nam thực sự bắt đầu khi
được hưởng lợi từ việc chuẩn hóa các thủ tục đầu tư liên quan đến việc hồn thiện khn
khổ pháp lý trong tình hình mới.
Trên thực tế, Nghị định số 83/2015 / NĐ-CP hướng dẫn đầu tư nước ngoài đã tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng phạm vi đầu tư kinh doanh
ra nước ngồi. Bên cạnh đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số
03/2018/TT-BKHĐT ngày 17/10/2018 hướng dẫn ban hành văn bản mẫu trong quá trình
tham mưu, ban hành luật, nghị định. Quy định các thủ tục pháp lý đối với hoạt động đầu
tư nước ngoài, tạo mơi trường thơng thống, giúp các cơ quan quản lý nhà nước tăng
cường hiệu quả quản lý các dự án đầu tư nước ngồi tại Việt Nam ... Do đó, hoạt động
đầu tư ra nước ngoài đã tạo được ấn tượng nhất định. Nhiều doanh nghiệp, cơng ty, doanh
nghiệp có vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài đã vượt ngưỡng 1 tỷ đơ la Mỹ, như: Tập
đồn Dầu khí Việt Nam, Tập đồn Viễn thơng Qn đội (Viettel), Cơng ty Cổ phần Hoàng
Anh - Gia Lai ...
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, sự gia tăng đáng kể của các quỹ đầu tư nước ngoài mới
trong quý I năm nay là do có hai dự án quy mơ lớn mới được cấp giấy chứng nhận đăng
ký đầu tư. Đây là các dự án do Công ty Cổ phần Giải pháp Năng lượng Vines đầu tư tại
Hoa Kỳ và Canada. Đồng thời, do có nhiều dự án quy mơ lớn sẽ điều chỉnh, tăng vốn
trong 3 tháng năm 2021 nên kinh phí đầu tư điều chỉnh sẽ giảm đi rất nhiều. Chẳng hạn,
việc điều chỉnh dự án của Vingroup tại Hoa Kỳ tăng thêm 300 triệu đô la Mỹ; dự án Công
ty TNHH Đầu tư và Phát triển Cao su Đông Dương của Campuchia tăng vốn 76 triệu đô
la Mỹ, dự án Vinfast của Đức tăng vốn thêm 32 triệu đô la Mỹ. Riêng 3 dự án này đã

chiếm 94,5% vốn điều chỉnh 3 tháng năm 2021.
Trong 3 tháng qua, nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài 8 ngành, lĩnh vực cơng
nghiệp, trong đó dẫn đầu là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 5 dự án đầu tư
mới, với tổng vốn đầu tư 96,75 triệu USD. đô la Mỹ, chiếm tổng vốn đầu tư 96,75 triệu
đô la Mỹ, chiếm gần 45,8%.

10


Trong số các quốc gia nhận được nhiều đầu tư từ Việt Nam, đáng chú ý là số lượng
các quỹ đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng. Cụ thể, vào thánG
1 năm nay, tổng vốn đầu tư của Việt Nam vào Hoa Kỳ là 2,9 triệu đô la Mỹ. Trong hai
tháng đầu năm 2022, tổng đầu tư của Việt Nam vào Hoa Kỳ đạt 2,9 triệu đơ la Mỹ, con số
này nhanh chóng tăng lên 34,5 triệu đô la Mỹ trong ba tháng đầu tiên.
Ngày 29/3, VinFast và chính quyền bang Bắc Carolina (Mỹ) công bố ký kết về việc
xây dựng nhà máy sản xuất đầu tiên của VinFast tại thị trường Bắc Mỹ. Dự án có mức
đầu tư lên tới 2 tỷ USD (tổng mức đầu tư là 4 tỷ USD trong giai đoạn 1 theo thông tin từ
Nhà Trắng). Nhà máy của VinFast sẽ được đặt tại khu công nghiệp Triangle Innovation
Point, Hạt Chatham với diện tích khoảng 800 ha. Giải thích về việc lựa chọn địa điểm đầu
tư, bà Lê Thị Thu Thủy - Phó Chủ tịch Tập đồn Vingroup kiêm Tổng Giám đốc VinFast
Toàn cầu cho biết: “Mục tiêu của Bắc Carolina là năng lượng sạch, chống biến đổi khí
hậu, giảm phát thải khí nhà kính trong giao thơng vận tải, điều này phù hợp với định
hướng của VinFast là phát triển xe điện cao cấp, thông minh và thân thiện môi trường. Cơ
sở sản xuất tại đây sẽ giúp VinFast chủ động nguồn cung, ổn định giá thành và rút ngắn
thời gian cung cấp sản phẩm, dễ tiếp cận khách hàng.”

2. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam trong việc xuất khẩu tư bản
a) Những nét lớn trong toàn cảnh kinh tế Việt Nam
-


Gia nhập WTO
Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức được kết nạp, là thành viên thứ 150 của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO). Đây là cuộc đàm phán lâu dài và đa dạng nhất
trong cả 4 lĩnh vực: Thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư liên quan đến
thương mại và sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại.
Chúng ta vẫn giữ vững mục đích gia nhập tổ chức thương mại này vì đây thực sự
là một sân chơi lớn tồn cầu. Sau khi gia nhập, Việt Nam sẽ nâng cao vị thế trên
trường quốc tế, chủ động tham gia vào các điều kiện của chính sách thương mại tồn
cầu, đồng thời tập trung xây dựng, điều chỉnh hệ thống pháp luật minh bạch, phù hợp
với xu thế chung, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước…
Theo nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại, trưởng đoàn đàm phán Việt Nam gia
nhập WTO Lương Văn Tự, sau 15 năm gia nhập WTO, chúng ta được nhiều hơn
mất, cụ thể:
11




Việt Nam trở thành đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế. Tất cả đối tác đàm
phán song phương gia nhập WTO lúc bấy giờ đều trở thành đối tác chiến lược
và đối tác toàn diện trong hợp tác kinh tế với Việt Nam như Hoa Kỳ, Ấn Độ,
EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Australia, Hàn Quốc, Anh…



Kinh tế Việt Nam luôn tăng trưởng dương. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới năm 2010, tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn đạt trên 5% và là 1
trong 20 nước có tăng trưởng dương. Khi nhiều nước phải đóng cửa biên giới,
thực hiện giãn cách xã hội, GDP của họ âm do đại dịch COVID-19 từ năm
2020, Việt Nam nằm trong số ít quốc gia vẫn tăng trưởng dương.




Những thành tựu của việc gia nhập WTO và quá trình hội nhập kinh tế là cơ
sở để chúng ta hội nhập những lĩnh vực khác về văn hóa, an ninh quốc phòng,
khoa học kỹ thuật…



Đội ngũ doanh nghiệp ngày càng tăng, có chất lượng, đất nước có thêm nhiều
tỷ phú USD.



Tuy Oxfarm dự báo ngành nông nghiệp Việt Nam sẽ phá sản, chúng ta đã phát
triển theo hướng hiện đại và ngày càng nâng cao giá trị. Năm 2021, nhiều
ngành kinh tế gặp khó khăn, song nơng nghiệp và xuất khẩu các sản phẩm
nông nghiệp vẫn vượt mốc 43 tỷ USD, dự kiến hết năm đạt 47 tỷ USD.



Cuối cùng, việc gia nhập WTO giúp chúng ta có được hệ thống pháp luật mới
phù hợp với kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện được
nguyên tắc minh bạch hóa chính sách và pháp luật theo quy định của WTO.
Đến nay, khung pháp lý ngày càng hoàn thiện làm cơ sở cho việc ký các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới.

Như vậy có thể thấy rằng, những lợi ích nêu trên đã trở thành tiền đề để hoạt động
xuất khẩu tư bản của Việt Nam diễn ra suôn sẻ hơn.
-


Ký kết hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ
Ngày 10/12/2001, Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ chính
thức có hiệu lực, bình thường hóa quan hệ đầu tư và thương mại giữa 2 nước. Hiệp
định này đã mở ra thị trường Hoa Kỳ rộng lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt trên
cơ sở cạnh tranh bình đẳng với các nước khác. Khơng những thế, có thể thâm nhập
vào thị trường Hoa Kỳ còn là cơ hội để các doanh nghiệp xuất khẩu lấn sân sang thị
trường các nước phát triển khác.
12


b) Những cơ hội cho Việt Nam đầu tư nước ngồi…
-

Doanh nghiệp Việt có cơ hội lựa chọn nơi đầu tư thích hợp, từ đó nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn doanh nghiệp.
Hiện nay, các quốc gia trên thế giới hầu hết đều thi hành những biện pháp khuyến
khích nhằm kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài, tạo ra cho doanh nghiệp Việt Nam cơ hội
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng việc đầu tư vào những nơi có khả năng mang lại
lợi nhuận cao hơn.

-

Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ.
Hoạt động thương mại là một trong những bước cơ bản trong q trình xâm nhập thị
trường nước ngồi, nhưng để thực sự cắm rễ sâu bền tại thị trường các nước, doanh
nghiệp phải thành lập các chi nhánh ở nước ngồi thơng qua các hình thức như doanh
nghiệp liên doanh (công ty liên doanh Del Monte – Vinamilk tại Phillipines) hay
doanh nghiệp 100% vốn. Đây chính là chìa khóa lớn mạnh và phát triển của các công
ty xuyên quốc gia trên thế giới.


-

Doanh nghiệp Vịêt Nam có điều kiện khai thác các nguồn lực sản xuất của nước

ngoài để từ đó phát huy được lợi thế so sánh của nước mình.
Mỗi quốc gia đều có những nguồn lực sản xuất nhất định và tổng nguồn lực là có hạn.
Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến cho doanh nghiệp của quốc gia này
cần tìm kiếm cơ hội đầu tư ở quốc gia khác nhằm khai thác nguồn lực của nước đó để
phát triển. Song song với việc đầu tư khai thác chính là phát huy thế mạnh của doanh
nghiệp. Nếu như thế mạnh không được áp dụng vào thực tiễn thì nó sẽ trở nên vơ
dụng, khơng có ý nghĩa.
-

Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội để tiếp xúc trực tiếp với các thị trường quốc tế

về vốn, máy móc thiết bị, khoa học cơng nghệ từ đó có điều kiện tiếp thu cơng nghệ mới,
hiện đại hơn, có điều kiện đổi mới cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp.
-

Các doanh nghiệp Vịêt Nam có điều kiện học hỏi những kinh nghiệm quản lý tiên tiến,

nâng cao trình độ chuyên môn về tổ chức, quản lý sản xuất, nâng cao hiểu biết về luật
pháp và ý thức chấp hành luật pháp, tăng khả năng cạnh tranh công bằng trên thị trường
trong và ngoài nước.

c) …Và những thách thức
13



-

Tiềm lực kinh tế các doanh nghiệp Việt còn yếu
Chúng ta muốn có thị trường quốc tế thì cũng cần phải mở cửa thị trường nội địa cho
các nước. Như vậy, khi các doanh nghiệp nước ngoài đặt chân vào Việt Nam, mức độ
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau và với doanh nghiệp nước
ngoài trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết. Trong khi đó, theo số liệu điều tra và cập nhật
của Tổng cục Thống kê, cả nước có 610.637 doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả
sản xuất kinh doanh (tại thời điểm ngày 31/12/2018); trong đó, có 295.731 doanh
nghiệp kinh doanh lỗ, chiếm 48,4%. Theo đó, trong tổng số các doanh nghiệp đang
sản xuất kinh doanh có 269.169 doanh nghiệp kinh doanh có lãi, chiếm 44,1%; có
45.737 doanh nghiệp kinh doanh hịa vốn, chiếm 7,5%. Đặc biệt, trong tổng số các
doanh nghiệp đang hoạt động, có tới có 295.731 doanh nghiệp kinh doanh lỗ, chiếm
48,4%.

Có thể thấy, quy mơ và hiệu quả kinh doanh các doanh nghiệp trong nước chưa cao,
đặt ra thách thức lớn khi phải cạnh tranh nguồn lực với các doanh nghiệp nước ngồi
có sức mạnh kinh tế lớn hơn.
-

Các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ kinh nghiệm xuất khẩu tư bản
Trong khi một số nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Malaysia lại khuyến
khích các doanh nghiệp nước mình xuất khẩu tư bản từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20,
đến tận năm 1999 Việt Nam mới chính thức cho phép các doanh nghiệp đầu tư ra
nước ngoài. Trên thực tế, hoạt động xuất khẩu tư bản mới chỉ được quan tâm từ 2-3
năm gần đây, do đó so với các nước khác, chúng ta cịn thiếu sót rất nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực này, dẫn đến nhiều bất cập xảy ra.

-


Thiếu liên kết giữa các doanh nghiệp

14


Mặc dù hoạt động kinh doanh ở nước ngoài nhưng đa số doanh nghiệp hoạt động
mang tính tự phát, nhỏ lẻ, thiếu sự liên kết với nhau. Điều này một phần do các chính
sách của Nhà nước đối với các doanh nghiệp xuất khẩu tư bản chưa được đồng bộ,
chưa cụ thể, từ đó dẫn đến thiếu sự quản lý, nắm bắt tình hình của các bên kinh
doanh.
-

Hiệu quả vốn đầu tư nước ngồi chưa cao, nhất là trong vịng 2 năm gần đây do ảnh
hưởng của dịch COVID-19.
Theo báo cáo về tình hình hoạt động, tài chính và sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhà
nước năm 2020 của Chính phủ, đến cuối năm 2020 có 131 dự án đầu tư ra nước ngồi
của 28 doanh nghiệp nhà nước, có vốn nhà nước với tổng vốn hơn 6,7 tỷ USD, trong
đó 95% vốn đầu tư thuộc về các dự án đầu tư của PVN, Viettel và Tổng công ty Cao
su Việt Nam (VRG). Cụ thể, PVN đã chi 3,97 tỷ USD đầu tư ra nước ngoài (chiếm
59% tổng vốn các dự án), Viettel là hơn 1,45 tỷ USD (chiếm 22%), VRG xấp xỉ 926
triệu USD (14%). Các lĩnh vực được rót vốn chủ yếu trong lĩnh vực dầu khí, viễn
thơng, trồng, chế biến cây cao su, khai thác khoáng sản, nông nghiệp...
Đến cuối năm 2020, gần một nửa dự án đầu tư ra nước ngoài đã thu hồi vốn, gần 3,17
tỷ USD (gồm lợi nhuận chuyển về nước 1,45 tỷ USD). Trong đó PVN thu hồi gần 2,4
tỷ USD (60% vốn đầu tư thực hiện), Viettel là 706,29 triệu USD (49% vốn ban đầu).
Riêng năm 2020, 32 dự án đầu tư ra nước ngồi khơng phát sinh doanh thu, 89 dự án
đạt hơn 5,54 tỷ USD doanh thu (giảm 21% so với 2019). 28 dự án bị lỗ, gần 237 triệu
USD (tăng 81 triệu USD so với năm 2019).

-


Sự khác biệt về văn hóa, truyền thống, chính sách của nước sở tại cũng là một chướng
ngại cho hoạt động xuất khẩu tư bản của doanh nghiệp Việt Nam. Do lối làm việc, suy
nghĩ cịn mang nhiều tính “Việt Nam” cộng với sự thiếu nắm chắc các chính sách, luật
pháp nước nhận đầu tư khiến cho mâu thuẫn, tranh chấp dễ nảy sinh, từ đó ảnh hưởng
tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh.

KẾT LUẬN

15


Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thế giới hiện nay chính là đầu tư nước ngồi. Cơ hội
xuất khẩu tư bản không chỉ đến với các nước phát triển mà cả các nước đang phát triển và
kém phát triển chỉ cần các doanh nghiệp năng động, sáng tạo và biết đánh giá, tận dụng thời
cơ. Nhận thức được tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trong thời gian qua
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm khai thác lợi
ích của hoạt động lưu chuyển loại vốn đầu tư quốc tế này. Tuy hoạt động của các doanh
nghiệp được đánh giá là chưa quá thành công, hạn chế và thiếu sót cịn rất nhiều, tin rằng với
sự linh hoạt, thích ứng tốt của doanh nghiệp và sự hỗ trợ ngày càng có hiệu quả của Nhà
nước, hiệu quả xuất khẩu tư bản của Việt Nam sẽ được nâng cao, đóng góp vào sự phát triển
kinh tế xã hội nước nhà.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) WEBSITE TỔNG CỤC THỐNG KÊ
2) WEBSITE CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
3) GIÁO TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LENIN NXB CHÍNH TRỊ
QUỐC GIA SỰ THẬT
4) TẠP CHÍ CUNG & CẦU 2020
5) TẠP CHÍ CƠNG THƯƠNG 2022

6) TẠP CHÍ TÀI CHÍNH 2020

16



×