Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.44 KB, 29 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ta đang trên đường phát
triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH–HĐH) đất nước. Việc đặt nhiệm vụ
bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước là tiêu chí hàng đầu thì một vấn
đề không kém phần quan trọng và cần thiết là phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì khi một đất nước nghèo nàn, lạc hậu thì
cũng đồng nghĩa với đất nước đó sẽ là con nợ, sẽ lệ thuộc, và thậm chí có thể trở
thành thuộc địa của những nước khác. Vì thế, để phát triển kinh tế thì chúng ta
cần phát huy và tận dụng rất nhiều nguồn lực như: nguồn lực tự nhiên, nguồn
nhân lực, vốn đầu tư, khoa học kỹ thuật – công nghệ (KHKT–CN) tiên tiến hiện
đại…
Cùng với KHKT–CN và nguồn vốn thì nguồn nhân lực đóng vai trò quyết
định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế - xã hội ở nước
ta. Giáo dục - đào tạo (GDĐT) là cơ sở phát triển nguồn nhân lực, là con đường
cơ bản để phát huy nguồn nhân lực. Với những triển vọng tốt đẹp nền giáo dục
Việt Nam đang và sẽ đào tạo được nguồn nhân lực dồi dào, có đủ khả năng và
tâm huyết trong việc gìn giữ nền độc lập dân tộc cũng như xây dựng một đất
nước giàu mạnh. Chính vì tầm quan trọng và mong muốn được tìm hiểu, học hỏi
cũng như chia sẻ những hiểu biết nhỏ bé của mình mà chúng tôi cùng đưa ra
quyết định chọn đề tài: “Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam”
Bác Hồ của chúng ta đã từng nói rằng: “Vì lợi ích mười năm thì phải
trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. [Trích Hồ Chí Minh: Sđd,
1996, t.12, tr.212], hay V.I.Lênin đã khẳng định: “Lực lượng sản xuất hàng đầu
của nhân loại là công nhân, là người lao động”. [V.I.Lênin: Sđd, 1977, t.38,
tr.430]. Một lần nữa lại nhấn mạnh tới vai trò của nguồn nhân lực đối với sự
phát triển bền vững của một đất nước cũng như của tất cả các quốc gia trên thế
giới.
1
Bằng những phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp từ những
tài liệu quý báu mà chúng tôi đã tìm được kết hợp với phương pháp biện chứng


duy vật…đã giúp chúng tôi hiểu sâu sắc hơn về môn học này, đặc biệt là vấn đề
về nguồn nhân lực cũng như vai trò của nó đối với sự tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam ta. Để hiểu sâu sắc vấn đề này chúng ta cùng tìm hiểu ở phần nội dung.
2
PHẤN NỘI DUNG
I. Khái quát về nguồn lực con người và vai trò của nó đối với sự phát
triển.
1. Nguồn lực con người
Nguồn lực con người là tổng thể những tiềm năng, năng lực và khả năng
của mỗi cá nhân, của mỗi cộng đồng người và toàn xã hội đã, đang và sẽ tạo ra
sức mạnh cho quá trình phát triển, được thể hiện qua hang loạt yếu tố như trình
độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng lao động, mức sống, sức khỏe, tư tưởng, tình
cảm… trong đó ba yếu tố quan trọng nhất là: trí tuệ, thể lực và nhân cách.
2. Vai trò của nguồn lực con người đối với quá trình phát triển
Để phát triển mỗi cộng đồng, địa phương, quốc gia đều cần rất nhiều
nguồn lực khác nhau (vốn, tài nguyên thiên nhiên, khoa học, công nghệ, con
người…), tuy nhiên nguồn lực con người đang trở thành một nguồn lực quan
trọng nhất. bởi vì:
+ Chủ nghĩa Mac-Lênin đã khẳng định rằng: con người không chỉ là sản
phẩm mà còn là chủ thể của mọi quá trình lịch sử; con người là yếu tố quan
trọng nhất cấu thành nên lực lượng sản xuất mà lịch sử loài người phát triển
được.
+ Khi so sánh với các nguồn lực khác thì nguồn lực con người càng thể
hiện vị trí quan trọng của mình. Con người là nguồn lực duy nhất biết tác động
vào các nguồn lực khác để thúc đẩy các nguồn lực khác khởi động; đồng thời
con ngươì biết gắn kết chúng lại để tạo ra sức mạnh cho phát triển.nếu không có
các nguồn lực khác thì nguồn lực con người cũng rất khó thể hiện được vai trò
của mình.
+ Mặt khác, các nguồn lực khai thác nhiều sẽ cạn kiệt, nhưng nguồn lực
con người, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ của con người càng được khai thác thì

càng sinh sản vì con người có khả năng lao động sáng tạo, bộ não của con người
chứa đựng hàng tỷ nơron thần kinh, do đó, càng lao động, càng sang tạo thì trí
óc của con người càng phát triển.
3
+ Trong thời đại kinh tế tri thức, sự cạnh tranh của các địa phương các
quốc gia không chỉ đơn thuần về kinh tế mà nghiêng về trí tuệ, về hàm lượng
chất xám. Do đó, nguồn lực trí tuệ con người đang là một trong những lợi thế so
sánh quan trọng cho tiến trình phát triển nhanh chậm của mỗi địa phương, mỗi
quốc gia.
+ Chính vì lẽ đó, để có được nền kinh tế tri thức trong tương lai, việc phát
triển nguồn nhân lực đói hỏi phát triển mạnh các nghành và sản phẩm kinh tế có
giá trị tăng cao dựa vào tri thức, kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con
người việt nam với tri thức mới nhất của nhân loại.
II. Đặc điểm nguồn nhân lực của nước ta
1. Thực trạng chung về nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay
Nghiên cứu về nguồn nhân lực thực chất là đề cập đến mặt số lượng và
chất lượng của nguồn nhân lực. Cụ thể là số lượng đang trong độ tuổi lao động
và có khả năng tham gia lao động sản suất.
Ngày nay chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với sự phát triển. Nếu trước đây sự phát triển của một quốc gia chủ yếu dựa vào
các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn Tư Bản, nguồn vốn lao
động đông đúc, thị trường tiêu thụ… thì hiện nay chính tri thức lại có ý nghĩa
hết sức lớn lao, góp phần tạo nên sự thịnh vượng, giàu có cho một quốc gia, lãnh
thổ, xu thế toàn cầu hóa cùng với sự phát triển của cõng nghệ thông tin, đặc biệt
là sự ra đời của internet đã làm cho các quóc gia, lãnh thổ ngày càng trở nên gần
nhau hơn, qua đó sự cạnh tranh cũng càng trở nên gay gắt hơn, và tất nhiên ưu
thế cạnh tranh bao giờ cũng nghiêng về quốc gia, lãnh thổ có chất lượng nguồn
nhân lực cao hơn, được đào tạo tốt hơn.
Trong những năm qua, nguồn nhân lực của quốc gia nói chung và của Tp.
Hồ Chí Minh nói riêng có những phát triển nhất định về chất lượng. Tuy nhiên,

chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn chua xứng với yêu cầu CNH-HĐH. Sự
hội nhập kinh tế quốc gia của nước ta phải đối đầu với thách thức của thời đại,
trong đó thách thức về chất lượng nguồn nhân lực là điều có ý nghĩa hết sức
quan trọng và cần được quan tâm đúng mức.
4
a. Thực trạng chung về nguồn nhân lực.
Trong những năm gần đây, nhất là từ khi chúng ta tiến hành công cuộc
đổi mới đất nước, nguồn nhân lực ở nước ta đã có nhiều biến đổi về cả số lượng,
chất lượng lẫn cơ cấu. Về số lượng, nguồn nhân lực ở nước ta đã tăng lên một
cách đáng kể. Theo niên gián thống kê, dân số nước ta từ 59.872.000 ( năm
1986) lên 84.155.800 ( năm 2006) trong đó lực lượng lao động từ 27.398.000
(1986) lên 43.347.200 (2006). Tốc độ tăng dân số bình quân qua các năm từ
1986 – 2006 dao động trong khoảng 2.3% - 1.26%, lực lượng lao động tăng bình
quân khoảng 3 % năm. Có thể nói trong suốt thời kỳ tiến hành CNH-HĐH đất
nước, nguồn lao động nước ta luôn tăng. Nếu xét từ góc độ cung cấp số lượng
lao động thì đây là một thuận lợi, song cũng là khó khăn không nhỏ khi nền sản
xuất của nước ta không đáp ứng đủ việc làm cho người lao động.
CNH-HĐH với quy mô dân số đông, lực lượng lao động dồi dào là yếu tố
cơ bản để đẩy mạnh tốc độ phát triển. Song với một nước chậm phát triển như
nước ta cùng với sự hạn chế về nguồn vốn, trang thiết bị, nguyên vật liệu, cơ sở
hạ tầng kỹ thuật – xã hội… thì tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm sẽ diễn ra
và tiếp tục phải giải quyết trong giai đoạn CNH–HĐH. Thêm vào đó, trình độ
phân công lao động thấp kém, cơ cấu bất hợp lý giữa các nghành, các vùng và
các trình độ, thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề và nghiêm trọng hơn là thiếu
chuyên gia đầu nghành là một trở ngại lớn khi chúng ta tiến hành CNH–HĐH.
Chất lượng của người lao động là cái chủ yếu đem lại sức mạnh cho
nguồn nhân lực, chất lượng đó được thể hiện ở thể lực và trí lực của người lao
động. về thể lực, hiện nay tầm vóc và sức khỏe của người việt nam đang được
cải thiện về chiều cao, cân nặng, tỷ lệ suy dinh dưỡng và tuổi thọ; song vẫn kém
nhiều so với một số nước trong khu vực và so với yêu cầu về nguồn nhân lực

cho giai đoạn đẩy mạnh CNH–HĐH ở nước ta hiện nay. Thực tế, người lao
động chưa được tổ chức khám và theo dõi sức khỏe định kỳ một cách hệ thống,
liên tục; điều kiện lao động trong ngành sản xuất, trong cỏ quan hành chính sự
nghiệp chưa được quan tâm cải thiện, môi trường lao động bị ô nhiễm nghiêm
trọng, các yếu tố nguy hiểm và độc hại vượt quá ngưỡng giới hạn cho phép
5
nhiều lần, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có chiều hướng gia tăng… điều
đó cho thấy chất lượng dân số và người lao động nước ta cả về mặt thể lực, sức
khỏe, lẫn điều kiện lao động không đảm bảo, rất cần được cải thiện.
Về trí lực, người Việt Nam được đánh giá là có tư chất thông minh, sang
tạo, có khả năng vận dụng và thích ứng nhanh. Với phẩm chất này, nếu được
đào tạo và sừ dụng lao động hợp lý thì sẽ có khả năng nắm bắt và sử dụng thành
thạo các loại công nghệ hiện đại. Song thực tế thì năng lực chuyên môn hóa,
trình độ tay nghề, khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động nghề nghiệp
còn hạn chế. Nguyên nhân chính là do mặt bằng dân trí nước ta còn thấp, tốc độ
nâng cao dân trí còn chậm. Cho đến nay đại bộ phận lao động nước ta chưa
đươc đào tạo đầy đủ, đến năm 1997 số người được đào tạo mới chỉ chiếm 7.0 %
dân số và 14.3% tổng số lao động. trình độ lao động đã qua đào tạo ở các bậc
trên đại học là 0.3%, đại học và cao đẳng là 20.1%, trung học chuyên nghiệp là
35.8%, công nhân kỹ thuật có bằng cấp là 24.4%, CNKT không có bằng cấp là
19.4%.
Tính đến năm 2005, lao động đã qua đào tạo ở nước ta vẫn còn rất thấp
(25%), còn lại là lao động chưa được đào tạo.
Đối với CNKT, giai đoạn 1999 – 2005 có sự tăng đột biến (một phần do
số liệu năm 2005 tính cả số người có chứng chỉ nghề và sơ cấp). Trong thời gian
đó, tỉ lệ lao động có trình độ THCN cũng tăng nhưng chậm hơn (+1.3%/6năm).
Đối với lao động có trình độ cao đẳng trở lên, tăng bình quân 0.43% ở
giai đoạn 1999 – 2005. Tỷ lệ này so với tổng số lao động (năm 2006: 44.4 triệu
người). Như vậy trong 5 năm gần đây có sự tăng nhanh về quy mô đào tạo cao
đẳng, đại học trở lên đến 5.4 lần so với tốc độ tăng trung bình thời kỳ 1989 –

1999 (0.08%).
Tình hình trên đưa đến sự chuyển dịch trình độ CNKT của lao động theo
xu hướng từ “hình thang thuận sang hình thang ngược”. Cấu trúc giữa CNKT,
TC, CĐ, ĐH trở lên trong thời gian từ 1979 đến nay được thể hiện qua bảng số
liệu dưới đây: (Xem bảng 1)
Số liệu bảng trên cho thấy:
6
Tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ công nhân kỹ thuật trở
lên trong tổng lực lượng lao động (15 – 59 tuổi) đã tăng lên: 3.13% (1979);
5.21% (1989); 6.44% (1999) và 6 năm sau (2005) đạt 25%, lao động chân tay là
75%. Trong khi ở các nước phát triển tỷ lệ đó tương ứng là 72% và 28%. Tỷ lệ
này phản ánh sự lạc hậu về kỹ thuật, công nghệ của nền sản xuất và trình độ
thấp của lực lượng lao động. Xu hướng chuyển dịch đó ở nước ta là có tiến bộ
nhưng mức tăng của nguồn nhân lực trí thức vẫn xa mới đáp ứng được yêu cầu
CNH - HĐH.
Cấu trúc cao đẳng, đại học trở lên/ trung học chuyên nghiệp/ công nhân
kỹ thuật qua 4 mốc thời gian trên: 1/2, 17/3.06 (1979); 1/1.14/2.36 (1999);
1/0.82/2.88 (2005) cho thấy chỉ số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp
giảm liên tục từ 2.17 (1979) xuống còn 0.82 (2005); chỉ số công nhân kỹ thuật
có chiều hướng giảm (1979-1999), sau 6 năm chỉ số này có tăng lên, nhưng tăng
lên với tốc độ chậm, năm 2005 chiếm chỉ số là 2.88. Có ý nghĩa là cơ cấu các
loại lao động này năm 2005, cứ một lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở
lên thì chỉ có 0,82 lao động có trình độ trung cấp và 2.88 lao động có trình độ
công nhân kỹ thuật (1: 0.82 : 2.88). Sự chuyển dịch này, chỉ ra một hiện tượng
“thầy” nhiều hơn “thợ”, nói lên sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu trình
độ lao động trong nền kinh tế giai đoạn tiến bộ kỹ thuật và công nghệ của Việt
Nam hiện nay, cơ cấu CNKT phải là 1:4:20 mới là hợp lý. Tình trạng này có
nhiều nguyên nhân, một ttrong những nguyên nhân đó là vấn đề tâm lý – xã hội,
còn tồn tại tình trạng coi trọng bằng cấp, không coi trọng công nhân kỹ thuật
trong khi nhu cầu của xã hội về CNKT ngày càng tăng cao. Điều mâu thuẫn này

xuất phát từ một nghịch lý ở nước ta hiện nay, cha mẹ lo việc học hành của con
cái, đầu tư tiền của cho con học, nhưng việc làm, quyền lợi của con thì họ không
biết sẽ ra sao sau khi học xong. Mọi thứ tốn kém đều do cha mẹ học sinh chịu,
nhưng doanh nghiệp và xã hội hưởng kết quả (có quyền lựa chọn sử dụng theo
nhu cầu của mình). Chính vì vậy nên việc chọn ngành nghề đào tạo, cấp học của
học sinh phần lớn là theo ý chí của cha mẹ học sinh, họ muốn việc làm của con
cái sau khi tốt nghiệp phải xứng đáng với công sức, tiền của mà họ đã đầu tư.
7
Muốn thay đổi tâm lý này cần phải có sự nỗ lực chung từ Nhà nước, doanh
nghiệp và xã hội, trong đó Nhà nước giữ vai trò quản lý, điều hành, chi phối;
doanh nghiệp hấp dẫn, thu hút đội ngũ công nhân kỹ thuật bằng tuyển dụng và
chính sách tiền lương; toàn xã hội cần có cuộc vận động làm cho ai cũng thấy
được học nghề có vị trí quan trọng và được xã hội đánh giá cao.
Tính tới tháng 12/2000, Việt Nam đã có trên 1.3 triệu người có trình độ
đại học – cao đẳng; trên 10.000 thạc sỹ; 13.55 tiến sỹ ( trong đó 610 tiến sỹ khoa
học). Bình quân có 190 cán bộ khoa học công nghệ/10000 dân (tỷ lệ trong năm
1989 là 105). Theo đó, cơ cấu tỷ lệ cán bộ (theo trình độ chuyên môn): 98% đại
học, cao đẳng; 0.75% thạc sỹ; 0.97% tiến sỹ và tiến sỹ khoa học (tiến sỹ khoa
học: 0,05). Tỷ lệ đó thể hiện mối tương quan giữa các loại trình độ là: 1 tiến sỹ;
0.8 thạc sỹ; 105 đại học, cao đẳng.
Đến 2006, Việt Nam đã đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ đại học, cao
đẳng trở lên, trong đó có trên 14 nghìn tiến sỷ và 16 nghìn thạc sỹ. Số lượng cán
bộ khoa học công nghệ trên đại học đã tăng từ 23.500 (2000) lên trên 20.000
(2006). Theo thống kê của Bộ Nội Vụ, tính đến 11/2004, cả nước có khoảng
5.479 giáo sư, phó giáo sư được công nhận, trong đó số lượng giáo sư, phó giáo
sư đang làm việc là 3.075, chiếm 56.1%. Mối tương quan giữa các loại trình độ
ở thời điểm năm 2006 là: 1 tiến sỹ: 1.14 thạc sỹ: 128 đại học, cao đẳng. Tỷ lệ
trên cho thấy số lượng tiến sỹ và tiến sỹ khoa học có tăng lên nhưng tăng chậm
hơn so với sự tăng lên của đội ngũ. Những con số đó còn quá nhỏ bé so với yêu
cầu của quá trình CNH - HĐH, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Hơn nữa,

đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ trẻ kế cận có trình độ cao, chuyên gia giỏi,
cán bộ đầu đàn giỏi ngày nay càng thiếu, đặc biệt là chuyên gia về công nghệ.
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, tỷ lệ số người có trình độ trên đại học trên
tổng số cán bộ giảng dạy hiện mới đạt 12.7% (cần đạt 30%). Thêm vào đó, có
một số khá đông cán bộ khoa học có chuyên môn cao, đạt “độ chín” về mặt trí
tuệ thì lại ở độ tuổi về hưu, dễ dẫn đến nguy cơ thiếu hụt cán bộ trình độ cao và
là sự lãng phí chất xám lớn. Điều này đặt ra vấn đề cấp bách phải tích cực đào
tạo đội ngũ cán bộ khoa học,công nghệ trẻ, kế cận, đồng thời phải có chính sách
8
sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ có trình độ cao đã đến tuổi nghỉ
hưu, nhằm phát huy đựoc trí tuệ của toàn bộ đội ngũ.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa, đội ngũ công chức hành
chính nhà nước là bộ phận trọng yếu, chịu trách nhiệm vận hành bộ máy quản lý
Nhà nước về mọi mặt. Chất lượng đội ngũ công chức ở nước ta những năm qua
mặc dù đã được củng cố và nâng cao lên một bước, song so với yêu cầu quản lý
Nhà nước trong thời ký đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vẫn còn bất cập
và là vấn đề quan tâm giải quyết. Phần lớn công chức ở nước ta trước đây được
đào tạo trong môi trường và điều kiện làm việc theo cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, bao cấp, nên vẫn chịu ảnh hưởng nặng của cơ chế và cách làm việc kiểu
công chức cũ. Số ngưòi được đào tạo trong những năm tiến hành công cuộc đối
mới, xây dựng nền kinh tế thị trường còn ít; do vậy, tính năng động, khả năng
thích ứng của công chức nói chung bị hạn chế. Hơn nữa, việc đào tạo công chức
Nhà nước vẫn còn thực hiện bằng con đường bồi dưỡng qua các lớp ngắn hạn,
tại chức nên năng lực chuyên môn của công chức chưa đáp ứng được yêu cầu
mới.
b. Thực trạng nguồn nhân lực ở Thành phố Hồ Chí Minh
Với vị thế là đô thị lớn của Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh có vị trí
chính trị quan trọng trong nước, là một trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, khoa
học-công nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế, đứng đầu cả nước về mức GDP bình
quân đầu người, có lợi thế về tiềm năng con người, giàu tính năng sáng tạo,

đông đảo đội ngũ lao động lành nghề, lực lượng chất xám về khoa học tự nhiên,
công nghệ và xã hội nhân văn chiếm tỷ trọng lớn so với cả nước. Bên cạnh đó,
thành phố Hồ Chí Minh có tầng lớp doanh nhân nhạy bén với thị trường, có mối
liên hệ và điều kiện, cho phép thành phố Hồ Chí Minh chủ động hội nhập kinh
tế với khu vực và thế giới nhanh, thu hút mạnh đầu tư bên ngoài, đặc biệt là trí
tuệ và nguồn vốn của của ngươì Việt ở nước ngoài. Có thể nói, nguồn nhân lực
của thành phồ Hồ Chí Minh có thế mạnh nổi trội, quyếtđịnh vai trò đi đầu trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Do vậy, việc sử dụng có
hiệu quả nguồn nhân lực sẽ giúp cho thành phố phát triển kinh tế bền vững,
9
đồng thời nhanh chóng vươn lên ngang tầm với các thành phố khác trong khu
vực Đông Nam Á.
Để sử dụng triệt để những lợi thế nêu trên và có nguồn lao động chất
lượng cao phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế-
xã hội của thành phố, tháng 12/2002, Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh đã xây
dựng chương trình hành động, xác định 1 trong 7 nhiệm vụ trọng tâm để phát
triển thành phố đến năm 2010 là “ Phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chăm lo phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục
và đào tạo để nhanh chóng nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cho thành phố và
đất nước. Trong đó, vấn đề đào tạo và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo để
sử dụng và phát huy nguồn nhân lực được đặc biệt chú trọng”.
Công tác đào tạo ở các bậc học của Thành phố Hồ Chí Minh được chú
trọng phát triển về nhiều mặt: quy mô, chất lượng, rèn luyện về nhân cách, đạo
đức và đặc biệt là đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo đội ngũ lao động. Số lượng
trường đại học, cao đẳng, cơ sở dạy nghề trên địa bàn thành phố tăng; nguồn
kinh phí ngân sách và ngoài ngần sách đầu tư cho công tác đào tạo được chú
trọng (từ nhiều nguồn kinh phí, trong năm 2003, thành phố đã chi 278 tỷ đồng
để phát triển cơ sở dạy nghề, khắc phục đáng kể tình trạng lạc hậu về trang thiết
bị để đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng (Nguồn: Sở Lao Động-Thương
binh và Xã hội).

Phân bổ lao động có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học ở thành phố
Hồ Chí Minh so với cả nước năm 2003 ( Xem bảng 2)
Tuy nhiên, hoạt động đào tạo nguồn nhân lực vẫn còn hạn chế trong việc
thực hiện nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học, chậm khắc phục
những bất hợp lý trong cơ cấu giữa giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và
giáo dục đại học. Việc đào tạo chưa gắn với sử dụng, trình độ kiến thức chưa
tương ứng với văn bằng; đào tạo thiếu cân đối giữa cơ cấu trình độ; nhiều yếu
kém trong công tác quản lý giáo dục và đào tạo chưa được khắc phục; nội dung
chương trình còn bất hợp lý, chậm đổi mới phương pháp dạy, phương pháp học
và xã hội hoá giáo dục.
10
Thành phố cũng đã thực hiện chương trình việc làm gắn với phát triển
kinh tế-xã hội, cùng với chương trình hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm như:
Quỹ Quốc gia giải quyết việc là từ ngân sách Nhà Nước, Quỹ CEP của Liên
đoàn Lao động thành phố, Quỹ của Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố, Quỹ Xoá
đói giảm nghèo, các trung tâm và chi nhánh dịch vụ việc làm từ 1996 - 2001
khoảng 2,2 tỷ đồng (Nguồn: Sở Lao động – Thưong binh và Xã hội Thành phố).
Các hoạt động tư vấn, dạy nghề gắn giới thiệu việc làm và cung ứng lao
động, hội chợ việc làm, chương trình xuất khẩu lao động được thành phố chú
trọng và thực hiện tốt, góp phần thúc đẩy phát triển việc làm, phát triển nguồn
nhân lực phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn nhân lực ở thành phố vẫn còn nhiều hạn
chế. Việc triển khai điều hành chương trình việc là của thành phố chưa đồng bộ,
cho đến nay vẫn chưa có chế độ rõ ràng về việc quản lý nhà nước, về lao động
việc làm và quản lý hệ thống dịch cụ việc làm, thiếu chính sách, cơ chế điều tiết
thị trường sức lao động có hiệu quả (thực tế thị trường lao động thành phố ngày
càng phát triển theo hướng tự phát, cạnh tranh thiêú định hướng, khó quản lý).
Như vậy, để tạo ra bước nhảy vọt về phát triển kinh tế, thách thức lớn
nhất và có tính cơ bản, lâu dài đối với nước ta nói chung và thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng là cuộc cạnh tranh quốc tế quyết liệt vế trí tuệ. Thành phố Hồ

Chí Minh cần giảm thiểu những khiếm khuyết còn tồn tại trong việc quản ký
nguồn nhân lực, đẩy mạnh các yếu tố phát triển chất lượng của nguồn nhân lực.
Đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực sẽ rút ngắn khoảng cách phát triển giữa
Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
2. Thế mạnh và hạn chế của nguồn nhân lực ở nước ta
a. Thế mạnh:
+ Dân số đông là điểm mạnh của Việt Nam bởi vì nó tạo ra lực lượng lao
động dồi dào, giá thành lao động sẽ rẻ và tạo lợi thế về nguồn lao động so với
các nước trong khu vực hiện nay.
VN là nước có dân số đông thứ hai Đông Nam Á và thứ 13 thế giới, ở
thập niên 90 nước ta có 35 triệu lao động đến đầu thế kỳ 21 là 40 triệu lao động.
11
Do dân số tăng nhanh từ trước cho nên nguồn nhân lực tiếp tục tăng với tốc độ
cao. Hàng năm có từ 1.0 đến 1.2 triệu lao động gia tăng. Nguồn nhân lực trẻ
tăng nhanh là một lợi thế đối với sự phát triển của dất nước.
+ Nó đảm bảo yếu tố cơ bản cho đầu tư phát triển, phát triển theo chiều
rộng và chiều sâu.
+ Lao động trẻ có sức bật nhanh thuận lợi cho sự phát triển chuyên sâu, có
sức khoẻ dồi dào đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Thuận lợi phát triển hoạt động xuất khẩu lao động, một dạng đặc thù của
kinh tế đối ngoại.
+ Cơ cấu dân số trẻ, số người trên độ tuổi lao động chiếm khoảng 10%,
trong độ tuổi lao động chiếm 56%, dưới độ tuổi lao động chiếm 34%. Như vậy
ngưòi Việt Nam tập trung chủ yếu trong độ tuổi lao động và dưới độ tuổi lao
động.
+ Phẩm chất, tính cách con người Việt Nam: Con người Việt Nam có
truyền thống yêu nước, đoàn kết, gắn bó, có tinh thần tự tôn dân tộc, tinh thần
nhân ái “lá lành đùm lá rách”, thông minh, chịu khó, giỏi chịu đựng Đây là
những giá trị con người Việt Nam đã, đang và sẽ tạo nên sức mạnh phi thường
cho quá trình phát triển đất nước.

+ Trình độ dân trí của người Việt Nam hiện nay là khá cao, tỷ lệ biết đọc,
biết viết của người lớn ở mức trên 96%, tỷ lệ nhập trường của học sinh cấp 3
liên tục tăng nhất là phổ cập giáo dục tiểu học về cơ bản đã hoàn thành trên toàn
quốc.
+ Mỗi năm có trên, dưới 200.000 sinh viên các trường đại học và cao
đẳng ra trường, đây là nguồn cung cấp nhân lực có chất xám dồi dào cho xã hội.
Do vậy Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương Mại thế
giới, như phương Tây đã ca ngợi Việt Nam như con rồng Châu Á vươn mình
với nhiều lợi thế phát triển kinh tế cao.
b. Hạn chế:
Bên cạnh những thế mạnh nêu trên vẫn còn tồn tại một số hạn chế như
sau:
12
+ Lực lượng phân bố không đồng đều giữa nông thôn và thành thị (nông
thôn 75,6%, thành thị 24,4%, tập trung chủ yếu vùng đồng bằng sông Hồng và
đồng bằng sông Cửu Long (44%), các vùng còn lại 56%. Số đông lực lượng lao
động có nguồn gốc làm nông nghiệp Vì thế gặp nhiều khó khăn trong việc
chuyển đổi ngành nghề sang lao động phi nông nghiệp, tiến hành CNH-HĐH.
+ Hiện nay còn diễn ra một nghịch lý là sinh viên ra trường chưa tìm được
việc làm không đúng ngành còn đông, trong khi doanh nghiệp lại không ngớt
kêu ca là thiếu nhân sự, tìm không ra người phù hợp.
+ Trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động còn thấp (20% lực lượng lao
động được đào tạo về chuyên môn tay nghề).
+ Do nước ta đi lên từ xuất phát điểm rất thấp, đồng thời trải qua các cuộc
chiến tranh kéo dài, đầu tư cho giáo dục đào tạo vẫn còn hạn hẹp do đó chất
lượng nguồin nhân lực bị hạn chếdo không được đào tạo. Tỷ lệ lao động không
qua đào tạo chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số lao động. Năm 2000 không có
chuyên môn kỹ thật chiếm 72% cả nước, trong đó ở nông thôn chiếm 84%.
+ Đặc điểm này của nguồn nhân lực Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn
không tốt đối với quá trình CNH-HĐH và hội nhập quốc tế của nước ta. Nó tạo

ra khoảng cách giữa nước ta với các nước khác trong khu vực và trên toàn thế
giới. Lực lượng lao dộng không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
của đất nước, không làm chủ được các công nghệ hiện đại, tiên tiến của thế giới,
không cạnh tranh được với thị trường lao động của khu vực và trên thế giới do
đó sẽ kìm hãm sự phát triển của đất nước.
+ Cơ cấu nguồn nhân lực VN vẫn còn rất lạc hậu so với thế giới, đặc biệt
so với các nước phát triển. Người lao động VN còn tập trung khá nhiều ở khu
vực nông nghiệp, chiếm 62.56%.
Trong đó ở các nước phát triển thì tỷ lệ này rất thấp.
Tỷ lệ ở các ngành công nghiệp và dịch vụ thì lại chiếm rất ít: 13.5% và
24.29%. Trong đó ở Anh công nghiệp 30%, Nhật 34%.
+ Văn hoá lao động, kỷ luật lao động công nghiệp con rất hạn chế.
+ Mức sống thấp, sức khoẻ hạn chế.
13
+ Tư tưởng, tâm lý tiểu nông nặng nề; coi trọng danh vị; ngôi thứ; trọng
tình hơn lý; trọng lệ hơn luật; trọng kinh nghiệm hơn cơ sở khoa học, óc gia
ytrưởng; tính bảo thủ; đối truỵ; hẹp hòi
+ Tính tích cực, tính năng động XH còn thấp; tâm lý thụ động, trông
chờ
+ Chủ nghĩa thực dụng, cá nhân ích kỷ, lối sống phi giá trị truyền thống
dân tộc của bộ phận nhân dân đang có xu hướng gia tăng
III. Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển của đất nước
trong thời kỳ CNH-HĐH và sự ảnh hưởng của các công ty xuyên quốc gia
đối với sự phát triển nguồn nhân lực
1. Vai trò của nguồn nhân lực với sự phát triển đất nước
Nguồn nhân lực là mục tiêu tác động chính của sự phát triển:
Nói đến vai trò nguồn nhân lực là nói đến vai trò của con người trong sự
phát triển. Con người là trung tâm của mọi sự phát triển, mọi sự phát triển đều
hướng vào mục tiêu duy nhất là phục vụ con người.
Vai trò của con người được thể hiện ở hai mặt: trước hết con người là

người tiêu dùng đồng thời con người cũng là chủ thể sản xuất ra các sản phẩm.
Sự tiêu dùng cùa con người là nguồn gốc của sự phát triển, với nhu cầu
ngày càng phát triển và đòi hỏi đáp ứng nhu cầu của con người ngày càng nâng
cao, sản xuất là để phục vụ tiêu dùng và tiêu dùng là động lực thức đẩy sản xuất.
Con người thông qua quá trình lao động sản xuất đã ngày càng đáp ứng
hơn nhu cầu tiêu dùng của mình, thông qua hoạt động lao động sàn xuất con
ngừơi phát triển và hoàn thiện hơn, chỉ có thông qua lao động sản xuất con
người mới sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần, lao động của con người
đóng vai trò quyết định.
Vai trò của con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
+ Nghị quyết của Đại hội Đảng VIII khẳng định “Nâng cao dân trí vá phát
huy nguồn nhân lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng
lợi CNH-HĐH”.
14
+ Việc áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất đã đem
lại những bước tiến thần kỳ cho sự phát triển kinh tế, thực tế đã chứng minh sự
phát triển vượt bậc của những quốc gia có chiến lược về công nghệ đúng đắn.
Tài nguyên tri thức là nguồn tài nguyên vô giá mà quốc gia nào sử dụng được tài
nguyên này thì quốc gia đó đã nắm được chìa khoá của sự phát triển.
+ Những tri thức và công nghệ chính là sản phẩm sáng tạo của con người
hay nói cách khác chính là sản phẩm của nguồn nhân lực qua quá trình lao động,
con người chính là chủ thể của quá trình CNH-HĐH, việc thực hiện sự nghiệp
CNH-HĐH có thành công hay không là do chính sách sử dụng nguồn nhân lực
có hiệu quả hay không, có làm phát huy mọi tiềm năng của con người để sáng
tạo và cống hiến cho đất nước hay không.
+ Mọi sự phát triển phải lấy con người làm trung tâm, là tác nhân và mục
đích của sự phát triển.
Con người đi đến sự phát triển là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trên các mặt về trình độ khoa học kỹ thuật và bản sắc văn hoá tốt đẹp, phù
hợp. Trong đó khâu cải tiến đột phá quan trọng nhất là cải tiến giáo dục đào tạo.

2. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) đối với phát triển
nguồn nhân lực và nền kinh tế của nước nhận đầu tư
2.1. Mối quan hệ giữa chiến lược của TNCs và sự phát triển nguồn
nhân lực
Nhân tố con người đóng vai trò then chốt trong mọi sự phát triển.Mỗi
công ty muốn phát triển phải có bộ máy lãnh đạo tốt, tài tình, hiệu quả và lực
lượng lao động có tay nghề.Họ có thể mua được công nghệ máy móc tốt nhưng
nếu không có người vận hành và không biết sử dụng thì công nghệ đó cũng
không có giá trị. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong sự
phát triển, các TNCs luôn đề ra những chính sách phát triển nguồn nhân lực
song song và cùng với những chiến lược phát triển của mình.
Thật vậy, chiến lược phát triển nguồn nhân lực của các TNCs luôn gắn
liền với chiến lược phát triên chung của công ty. Mỗi một chiến lược phát triển
khác sẽ có sự đầu tư khác nhau đối với nguồn lực. Khác với các công ty nội địa,
15
các công ty xuyên quốc gia, phân bổ nguồn nhân lực của mình trên quy mô quốc
tế theo sự phân công lao động giữa các chi nhánh. Các công ty này có những
chiến lược phát triển cụ thể như sau:
a. Chiến lược độc lập
Hoạt động của các chi nhánh chính quốc chỉ nhằm phục vụ thị trường nội
địa và một số thị trường lân cận chứ không có mục đích xuất khẩu. Để đáp ứng
nhu cầu của các thị trường khác thì TNCs lại thành lập các chi nhánh và tiến
hành các hoạt động tương tự. Tuy nhiên, mức độ đào tạo của TNCs cho lực
lượng lao động còn nhiều hạn chế. TNCs thường tiến hành các hoạt động R&D
tại công ty mẹ và không chuyển giao những công nghệ hàng đầu cũng như kỹ
năng tiên tiến nhất cho nước chủ nhà.
b. Chiến lược hợp nhất giản đơn:
Khác với chiến lược trên, trong chiến lược này, TNCs thường phân công
cho mỗi chi nhánh đảm nhận một khâu hoặc một công đoạn nào đấy trong dây
chuyền gia tăng giá trị của mình. Các công ty mẹ không áp dụng cách thức

giống nhau tại các chi nhánh như trong “chiến lược độc lập”. Các chi nhánh chỉ
thực hiện một hoặc một số hoạt động nhằm cung cấp cho một sản phẩm đầu vào
cho công ty mẹ dựa vào lợi thế của một nước chủ nhà. Trong chiến lược này
không có sự thay đổi cơ cấu tổ chức lao động của công ty mẹ tại các chi nhánh
mà chỉ có một cơ cấu bổ xung cho công ty mẹ trong toàn hệ thống. Do đó, số
lượng và chất lượng lao động tại các chi nhánh rất khác nhau và phụ thuộc vào
chiến lược thu hút TNCs cũng như những lợi thế cạnh tranh của nước chủ nhà.
Những nước có nhiều tiềm năng đem lại lợi ích cho TNCs thì TNCs sẽ đầu tư
vào nhiều và cũng sẽ tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Trình độ lao
động tại các nước lại tuỳ thuộc vào nội dung hoạt động của chi nhánh do TNCs
quyết định dựa trên cơ sở xem xét lợi thế của địa phương kết hợp với chiến lược
của TNCs.
c. Chiến lược hợp nhất phức tạp:
Trong chiến lược này, mỗi chi nhánh trong hệ thống TNCs chỉ chuyên sản
xuất một sản phẩm hoặc một bộ phận của sản phẩm có quan hệ tương thích với
16
sản phẩm của các chi nhánh trong các mạng lưới sản xuất quốc tế hợp nhất trên
quy mô khu vực hoặc toàn cầu. Với chiến lược này TNCs nhằm tối đa hoá hiệu
quả của hệ thống sản xuất quốc tế của mình. Do đó, khối lượng lao động trong
toàn bộ hệ thống sẽ giảm tới mức tối thiểu. Số lượng việc làm tạo ra tại mỗi chi
nhánh phụ thuộc vào chức năng của chi nhánh trong hệ thống.
Như vậy, quy mô và chất lượng lao động mà TNCs tạo ra hoàn toàn phụ
thuộc vào động cơ, chiến lược của TNCs. Mỗi chiến lược phát triển này cũng
được thay đổi khi có sự biến đổi của môi trường kinh doanh quốc tế. Điều đó sẽ
dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu tổ chức nguồn lao động. Ngày nay quá trình
toàn cầu hoá đang làm gia tăng áp lực đối với các TNCs và làm cho công ty này
thừơng lựa chọn chiến lược “hợp nhất phức tạp”. Tuy nhiên, dù có áp lực nào thì
các TNCs vẫn đóng góp lớn vào việc tạo công ăn việc làm và nâng cao trình độ
lao động.
2.2. Ảnh hưởng của TNCs đối với phát triển nguồn lực

Các TNCs tác động đối với phát triển nguồn lực và tạo việc làm qua hai
cách trực tiếp và gián tiếp. Cách trực tiếp là thông qua các dự án TNCs góp phần
tạo ra một khối lượng công việc khổng lồ. Cách gián tiếp là TNCs đã tạo ra
nhiều cơ hội cho việc phát triển nguồn lực.
Là những công ty có quy mô lớn nên nhu cầu về lao động của các TNCs
cũng rất lớn. Thông qua việc thiết lập các chi nhánh ở nước ngoài TNCs đã trực
tiếp tạo ra một khối lượng đáng kề việc làm cho các nước tiếp nhận đầu tư. Một
cách gián tiếpTNCs cũng tạo ra một khối lượng lớn việc làm thông qua việc liên
doanh với các đơn vị khác để cùng phát triển, thông qua việc liên kết với các
nhà cung cấp, các nhà phân phối từ đó mở rộng phạm vi hoạt động của những
đơn vị này và chính những đơn vị này lại tạo ra thêm nhiều công ăn việc làm
cho người lao động.
Như vậy, các TNCs làm tăng khối lượng việc làm trên thế giới bao gồm
tăng việc làm ở cả chính quốc và cả nước chủ nhà. Với gần 77.000 công ty mẹ
và 900.000 chi nhánh trên toàn thế giới các TNCs là nguồn việc làm khổng lồ
cho lực lượng lao động thế giới. Số liệu cụ thể như sau: (xem bảng 3)
17
Ta thấy, số lượng lao động làm việc tại các chi nhánh nước ngoài liên tục
tăng lên:
Nếu năm 1982, chỉ có 19.537 triệu lao động làm việc trong các chi nhánh
của TNCs tại nước ngoài thì đến đầu năm 2005 con số này là 62.092 triệu lao
động tức tăng gấp 3 lần so với năm 1982. Cũng theo báo cáo đầu tư thế giới của
UNCTAD năm 2004 thì tỷ lệ lao động làm việc tại các chi nhánh nước
ngoàicũng chiếm phần lớn trong tổng cơ cấu lao động của các công ty mẹ.
Chẳng hạn, hãng Generai Electric của mỹ có 307.000 nhân viên thì trong đó có
142.000 nhân viên tại các chi nhánh, Simens AG của đức có 430.000 nhân viên
trong đó có 266.000 nhân viên làm việc tại các chi nhánh, Nissan của nhật có
183.000 nhân viên trong đó có 112.530 nhân viên làm việc tại các chi nhánh.
Như vậy, tỷ lệ lao động tại các chi nhánh của nước ngoài của các hãng Siemens
AG, Nissan, IBM, lần lượt là 62%, 61%, 53%.

Tại nhiều nước các chi nhánh nước ngoài đóng vai trò sống còn trong việc
tạo ra việc làm cho người lao động. Tại Singapo, số người làm cho các chi
nhánh nước ngoài chiếm trên 50% tổng số lao động trong các nghành sản xuất.
IV. Những giải pháp cơ bản để phát huy vai trò nguồn lực con người
Việt Nam hiện nay
1. Tăng cường giáo dục và đào tạo
a. Vai trò chính sách giáo dục đào tạo
Đảng và nhà nước ta đã xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí và tạo nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Đào tạo ra lớp người có trí tuệ, sức khoẻ và đạo đức trong sáng.
Do đó nhà nước cần phải đầu tư nhiều hơn nữa cho sự nghiệp giáo dục của quốc
gia.
Trong những năm qua hệ thống đào tạo giáo dục nước ta phát triển tương
đối mạnh, có nhiều loại hình trường lớp được mở rộng, cơ cấu giáo dục cũng
được thay đổi, chất lượng giáo dục ngày càng nâng cao.
Xuất phát từ vai trò to lớn của nhà núơc đối với GD-ĐT, NN phải đảm
bảo cong bằng cho các hoạt động giáo dục, thông qua mục tiêu phát triển sự
18
nghiệp giáo dục,nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
nhằm tạo ra lớp người có chất xám.
Coi đầu tư cho giáo dục là một hướng đầu tư cho phát triển, làm cho giáo
dục đi trước một bước, tạo điều kiện cho giáo dục phát huy vai trò tác dụng của
nó trong sự phát triển chung của Xã hội.
Trên nền tảng những định hướng trong chính sách GD-ĐT nêu trên, CP
hoạch định hàng loạt các chính sách cụ thể về GD-ĐT như: chính sách nhằm
nâng cao dân trí, chính sách phổ cập GD, chính sách xoá mù chữ và chống tái
mù chữ, chính sách gd ở vùng sâu vùng xa, chính sách cơ cấu đào tạo, chính
sách ưu đãi đối với những người làm công tác GD.
Chúng ta đã phát triển nhiều loại hình đào tạo rất đa dạng cả công lập lẫn
dân lập, bán công, tư thục, đây là những cơ sở đào tạo tay nghề chính cho nguồn

nhân lực nước ta.
Cơ bản xoá được nạn mù chữ, phổ cập GD tiểu học, đây là tiền đề quan
trọng để đào tạo nguồn nhân lực có trình độ, có chất lượng và tiếp thu nhanh
được khoa học công nghệ tiên tiến của khu vực và thế giới.
Các cấp bậc học, nghành học ngày càng được mở rộng, các trường trung
học chuyên nghiệp, dạy nghề được phát triển rộng khắp, đây là cơ sở đề đào tạo
tay nghề trực tiếp cho nguồn nhân lực nước ta.
Đội ngũ cán bộ giảng dạy ngày càng được nâng cao về trình độ chuyên
môn đây là đội ngũ rất quan trọng để phát triển chất lượng nguồn nhân lực Việt
Nam.
Cơ sở vật chất cho GD-ĐT ngày càng được nâng cao đáp ứng ngày càng
tốt hơn cho sự nghệp GD và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.
Các chương giảng dạy ngày càng được cải tiến cho phù hợp với tình hình
mới, đây là điều kiện để nước ta hội nhập với khu vực và thế giới.
Liên hệ thực tế
Tuy nhiên, trong thực tiễn hiên nay thì vấn đề gd còn có rất nhiều điều
cần phải bàn về chất lượng GD cơ sở vật chất, chính sách, ngân sách.
19
Tuy chúng đã phát triển mở rộng được các loại hình đào tạo, tuy nhiên
chất lượng các trường dân lập, bán công, bổ túc vẫn còn nhiều hạn chế.
Mặc dù các cấp học, bậc học đã được mở rộng tuy nhiên hệ thống các
trường trung học chuyên nghiệp, Trung học dạy nghề vẫn còn thiếu rất nhiều,
nguồn nhân lực chưa qua đào tạo.
Chế độ đào tạo giảng dạy đã cũ mà vẫn chưa đổi mới về giáo trình,
b. Hướng giải quyết:
Tiến hành xã hội hoá GD nhanh hơn nữa trong thời kỳ tới, khuyến khích
các thành phần tham giavào sự nghiệp GD của nhà nước, dưới sự quản lý có
hiệu quả của nhà nước, nguồn nhân lực có thể đào tạo từ những hướng khác
nhau, từ nhiều nguồn khác nhau, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp hoá, hiện đại
hoá.

Đầu tư của nhà nước cho GD nhiều hơn nữa và có trọng điểm để có thể
đáp ứng yêu cầu giảng dạy và học của người dân. Tất cả mọi người đều có thể đi
học.
Tiến hành cải cách giáo dục.
2. Đẩy mạnh các chính sách y tế và chính sách chăm sóc sức khoẻ
nhân dân
a. Vai trò y tế:
Đảng và nhà nước ta nhấn mạnh sức khoẻ là vốn quý nhất của con người
và của xã hội, do đó chính sách y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân có vị trí hàng
đầu trong hệ thống các chính sách kinh tế xã hội của đất nước.
Hoạt động y tế với nhiệm vụ trọng tâm là chính sách cho con người, do đó
có vai trò lớn đối với sự phát triển xã hội.
Việc chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em tốt,y tế tạo ra nguồn lực cơ bản cho
sự phát triển của tương lai.
b. Liên hệ thực tế trong việc thực hiện chính sách.
Trong những năm qua cùng với sự phát triển của đất nước và nghành y tế
đã góp phần cải thiện đáng kể trong việc nâng cao sức khỏe cho nhân dân và
nguồn nhân lực của nước ta như:
20
+ Mặt tích cực
- Mạng lưới y tế đã được củng cố và phát triển mãnh mẽ từ TƯ tới địa
phương, thôn bản. Cuối năm 2002: cả nước có 9/61 tỉnh thành có 100% số xã
phường có bác sĩ. 23/61 tỉnh thành có 100% số xã phường có y sỹ, có <40%
thôn bản có cán bộ y tế.
- Nghành y tế đã tích cực góp phần cùng với các đoàn thể trong việc tuyên
truyền phòng ngừa dịch bệnh.
- Hệ thống các bệnh viện, phòng bệnh được đầu tư, nâng cấp
- Hệ thống y dược học cổ truyền phát triển mạnh. Máy móc thiết bị tiên
tiến hiện đại ngày càng được áp dụng nhiều trong việc khám chữa bệnh. Trình
độ chuyên môn của các bác sỹ ngày càng được nâng cao.

+ Mặt tiêu cực
Bên cạnh những ưu điểm thì vẫn tồn tại rất nhiều yếu kém, chính những
yếu kém này đã đặt ra rất nhiều thách thức cho nghành y tế như:
- Sự eo hẹp về tài chính cho y tế trong khi nhu cầu về khám chữa bệnh
ngày một cao.
- Tính nhân đạo và sự công bằng đang bị tác động tiêu cực bởi mặt trái
của cơ chế thị trường.
- Sự quản lý của nhà nước còn lỏng lẻo, kém hiệu quả. Ngân sách cho y tế
còn quá ít.
- Vấn đề bảo hiểm y tế còn nhiều bất cập và mới đảm bảo được một phần.
dường như BHYT không phải là của người nghèo. v.v…
Chính những tác động này đã và đang gây sức ép không nhỏ cho nghành
y tế cũng là cho chính sức khỏe của người dân nói chung và cho nguồn nhân lực
nói riêng.
3. Phát triển kinh tế xuất khẩu lao động
Là cơ sở quan trọng để phát triển nguồn lực con người, bởi vì: Phát triển
kinh tế sẽ tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân, phát triển giáo
dục, văn hoá, dân số tạo thêmm nhiều việc làm…Do vậy:
21
Tiếp tục phát triển kinh tế thị trường kinh tế định hướng Xã Hội Chủ
Nghĩa, đồng thời đảm bảo sự công bằng trong phân phối sản phẩm của xã hội để
tạo động lực cho mọi, người làm giàu chính đáng, vươn lên xóa đói, giảm
nghèo, thu hẹp dần khoảng cách phát triển giữa các tầng lớp dân cư, vùng miền.
Phát triển kinh tế thị tường nhưng phải nâng cao năng lực quản lý của nhà
nước nhằm làm cho kinh tế thị trường phát triển sâu rộng nhưng được định
hướng vào mục tiêu phục vụ con người, phục vụ sự tiến bộ xã hội.
4. Tăng cường quản lý phát triển nguồn nhân lực con người
Sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người và phát triển nó, làm cho nó trở
thành vô tận. Do đó:
- Lấy phát triển bền vững làm môi trường trung tâm.

- Lấy lợi ích của người lao động làm nguyên tắc cơ bản của quản lý lao
động.
- Đảm bảo môi trường dân chủ thuận lợi.
- Coi trọng, bồi dưỡng và tôn vinh nhân tài vì hiền tài là nguyên khí của
quốc gia…
Ngoài ra, để phát triển nguồn lực con ngưòi việt nam hiện nay còn cần
phải xây dựng môi trường văn lhoá lành mạnh, giải quyết có hiệu quả hàng loạt
vấn đề liên quan đến con ngưòi như: Chăm sóc sức khoẻ, vấn đề dân số, kế
hoạch hoá gia đình, bảo vệ môi trường, đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Hiện nay còn một số nghịch lý là: Sv ra trường không có việc làm hoặc
làm không đúng chuyên ngành.Trong khi doanh nghiệp lại không ngớt kêu ca là
thiếu nhân sự, tìm không ra người phù hợp.
PHẦN KẾT LUẬN
Qua đề tài tiểu luận này chắc hẳn chúng ta đã phần nào hiểu sâu hơn về
vai trò quan trọng của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế của nước ta.
Về cơ bản là đã giải đáp được thế nào là nguồn nhân lực và đặc điểm của NNL,
22
về thực trạng chung của nguồn nhân lực cả nước nói chung và của Tp HCM nói
riêng, những ưu điểm cần phát huy cũng như khuyết điểm cần khắc phục. Giúp
chúng ta hiểu thêm về vai trò của các công ty xuyên quốc gia đối với sự phát
triển nguồn nhân lực và nền kinh tế của nước nhận đầu tư, đặc biệt là đã đưa ra
được một số giải pháp cụ thể với hy vọng là sẽ góp đựơc một phần nhỏ bé vào
việc giải quyết những khó khăn tồn đọng cũng như góp phần vào việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực.
Và cũng từ những vấn đề đã được nêu ở trên, chúng ta có thể khẳng định
một điều: Nguồn nhân lực đóng vai trò rất lớn đối với sự phát triển của đất nước.
Nó có thể được xếp vào vị trí hàng đầu so với các nguồn lực khác, nó chi phối
mọi mặt của đời sống xã hội. Đồng thời cũng bị tác động ngược trở lại của nhiều
yếu tố khác nhau trong xã hội. Đặc biệt là vấn đề về chất lượng của nguồn nhân
lực bao gồm về vấn đề GD-ĐT và nâng cao chất lượng y tế trong cộng đồng. Đó

chính là điều quyết định một nguồn lực toàn diện cả về tài trí lẫn thể chất.
Chính vì vai trò quan trọng đó nên đây là một đề tài mà chúng tôi rất tâm
đắc, với mong muốn đưa ra để mọi người cùng nhau thảo luận để có nhiều giải
pháp tích cực hơn nữa trong việc phát triển, nâng cao nguồn nhân lực hiện nay,
đó cũng chính là góp phần phát triển đất nước Việt Nam ngày một giàu mạnh,
công bằng, dân chủ và văn minh.
Câu nói của Bác: “Non Sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân
tộc Việt Nam có được vẻ vang sách vai các cường quốc năm châu hay không
chính là nhờ một phần lớn vào công học tập của các cháu”.[ trích Hồ Chí Minh
toàn tập] đã thay cho lời kết lại của đề tài cũng như càng khẳng định vị trí quan
trọng hơn nữa vai trò của nguồn nhân lực mà cụ thể là vai trò của việc học tập,
nghiên cứu, trau dồi kiến thức, rèn luyện tay nghề. Đó là con đường duy nhất để
dẫn tới thành công và đem lại sự phồn thịnh cho đất nước. Đây là trách nhiệm
của tất cả mọi người đặc biệt là thế hệ trẻ chúng ta, một thế hệ chủ nhân tương
lai của đất nước.
23
PHẦN PHỤ LỤC
Năm
Số
CNKT/1
CĐĐH
và trên
ĐH
Số
THCN/1
CĐĐH và
trên ĐH
Người có
trình độ CĐ,
ĐH trở lên

Tổng số LĐ có
trình độ từ
CNKT trở lên
(nghìn người)
So với tổng số
lao động 15 –
19 tuổi (%)
24
1979 3.06 2.17 1 830.4 3.13
1989 2.13 1.74 1 1827.2 5.21
1999 1.36 1.14 1 2870.7 6.44
2005 2.88 0.82 1 11033.0 25.00
Bảng 1: Bảng so sánh các loại lao động theo trình độ CNKT qua các
thời kỳ Nguồn: tổng điều tra dân số Việt Nam 01-10-1979, Hà Nội – 1983; tổng
điều tra dân số toàn diện 01-04-1989, Hà Nội – 1992; tổng điều tra dân số và
nhà ở Việt Nam 1999. kết quả điều tra mẫu H.2000 [5, tr.62]; văn kiện đại hội
đảng x, Nxb CTQG, H.2006

Năm Số lượng lao động (Người)
1982 19.537.000
1990 24.551.000
2004 59.458.000
2005 62.096.000
Bảng 2. Bảng Phân bổ lao động có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại
học ở thành phố Hồ Chí Minh so với cả nước năm 2003
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê lao động-việc làm ở Việt Nam năm
2003, Hà Nội, Nxb.Lao động-Xã hội, 2004.)
Đơn vị Lao động có trình độ cao đẳng, đại học, trên
đại học
Số lượng Tỷ lệ (%)

Cả nước 1.870.315 100
Tp.Hồ Chí Minh 295.058 16
T.Bình cả nước 30.666 1,64
25

×