Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Đường lối xây dựng hệ thống chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.51 KB, 26 trang )

Chính trị là “những vấn đề về tổ chức và điều khiển bộ máy nhà nước trong
nội bộ một nước và quan hệ về mặt nhà nước giữa các nước với nhau” (Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện ngôn ngữ: Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ
điển ngôn ngữ Hà Nội Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1992, tr.174). Chính trị là
những hoạt động của một giai cấp, một chính đảng, một tập đoàn xã hội nhằm
giành hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước. Chính trị còn là hiểu biết
về mục đích, đường lối, nhiệm vụ đấu tranh của một giai cấp, một chính đảng để
nhằm giành, bảo vệ hoặc duy trì quyền điều khiển nhà nước.
1. Giai đoạn hình thành và củng cố nền chuyên chính nhân dân (1945 –
1954)
Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời, nhưng bị chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động liên kết với
nhau bao vây, chống phá quyết liệt.
Ngày 25 – 11 – 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra bản Chỉ thị
“Kháng chiến, kiến quốc”, nêu cao khẩu hiệu: “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên
hết” xác định cuộc cách mạng Đông Dương là cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc. Những nhiệm vụ cấp bách và cơ bản của nhân dân Việt Nam lúc này là củng
cố chính quyền cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải
thiện đời sống nhân dân. Trong đó bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng là
nhiệm vụ bao trùm, khó khăn, nặng nề nhất của nước ta lúc bấy giờ.
Muốn hoàn thành các nhiệm vụ đó, Đảng, Chính phủ và nhân dân ta phải
củng cố và tăng cường xây dựng hệ thống chính trị, tức là xây dựng nền chuyên
chính nhân dân. Trong đó nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây dựng hiến pháp,
pháp luật và hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân.
Ngày 3 – 9 – 1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu rõ: “Trước, chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị,
rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến
pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một
hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng
tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có
quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu, nghèo, tôn giáo, dòng giống,…”.


Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định Tổng tuyển cử là bước
đầu thực hiện xây dựng nền dân chủ tiến bộ. Mọi công dân Việt Nam không phân
biệt trai, gái, giàu nghèo, đảng phái, tôn giáo đều có quyền ứng cử, bầu cử. Tổng
tuyển cử cũng là dịp cho toàn thể nhân dân tự do lựa chọn những người có tài, có
đức đứng ra gánh vác công việc đất nước.
Ngày 6 – 1 – 1946, cuộc Tổng tuyển cử diễn ra sôi nổi trong cả nước, bầu
được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái dân chủ khác
nhau, 43% đại biểu không đảng phái; có 87% số đại biểu là công nhân, nông dân,
chiến sĩ cách mạng; 10 đại biểu nữ và 34 đại biểu là dân tộc thiểu số.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử ngày 6 – 1 – 1946 đánh dấu mốc phát
triển đầu tiên trong tiến trình xây dựng thể chế dân chủ trên đất nước Việt Nam.
Ngày 2 – 3 – 1946, kỳ họp Quốc hội lần thứ nhất được tổ chức. Tại kỳ họp
này Quốc hội đã thành lập Ban Thường trực Quốc hội, Chính phủ liên hiệp kháng
chiến, Cố vấn đoàn, Kháng chiến ủy viên hội.
Thành phần Chính phủ liên hiệp kháng chiến gồm có Chủ tịch, Phó chủ tịch
và 10 bộ. Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp, được Quốc hội ủy
nhiệm đứng ra lập Chính phủ mới theo nguyên tắc đoàn kết và tập hợp nhân tài,
không phân biệt đảng phái.
Để bảo vệ quyền tự do dân chủ của mọi công dân Việt Nam, ngay từ khi
mới thành lập, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng: Sắc
lệnh số 35/SL, ngày 20 – 9 – 1945, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, Sắc lệnh số
41/SL ngày 29 – 3 – 1946 về bảo vệ quyền tự do cá nhân; Sắc lệnh số 52/SL,
ngày 22 – 4 – 1946, quy định chế độ tự do lập hội.
Ngày 22 – 11 – 1946, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 63/SL quy định về tổ
chức quyền hạn và cách làm việc của Ủy ban hành chính các cấp (kỳ, tỉnh, huyện,
xã). Chính quyền nhân dân các cấp từ Trung ương đến địa phương được tổ chức
và làm việc theo một tinh thần mới, một chế độ dân chủ mới của dân, do dân, vì
dân.
Những văn bản nêu trên là những văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, được ban hành trong một hoàn cảnh cực kỳ đặc biệt,

lúc chính quyền cách mạng non trẻ mới ra đời, phải đối phó với muôn vàn khó
khăn của đất nước trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Điều đó, chứng tỏ tầm
quan trọng của việc ban hành kịp thời những quy định pháp luật về tổ chức bộ
máy chính quyền, về quyền tự do dân chủ của nhân dân, thể hiện tư duy, tầm
nhìn tiến bộ và sáng suốt của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh về
những quyền cơ bản của con người, định hướng hoạt động của hệ thống chính
quyền dân chủ nhân dân, đặt nền móng xây dựng một thiết chế xã hội dân chủ
tiến bộ. Đặc biệt tại kỳ họp lần thứ 2, Quốc hội đã thông qua dự án Luật lao động
và Hiến pháp đầu tiên của nước ta.
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được Quốc hội nước Việt
Nam biểu quyết thông qua ngày 9 – 11 – 1946 với 240/242 phiếu tán thành. Bản
Hiến pháp gồm có: Lời nói đầu, 7 chương, 70 điều; trong đó có nhiều điều thể
hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng hệ thống chính trị đất
nước.
Hiến pháp (năm 1946) xác định chế độ chính trị, đặt nền móng cho xây
dựng chính quyền mới của đất nước. Điều 1 của Hiến pháp quy định rõ: “Nước
Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo”.
Việc tổ chức xây dựng bộ máy Nhà nước cũng được Hiến pháp xác định:
“Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa” (Điều 22). Chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội được xác định: “Nghị
viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật,
biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài”
(Điều 22). Quốc hội do nhân dân bầu ra với nhiệm kỳ ba năm. Theo Hiến pháp,
“cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hòa” (Điều 43), hệ thống hành chính thống nhất trong toàn quốc. “Ở tỉnh,
thành phố, thị xã và xã có Hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp
bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra Ủy ban hành
chính. Ở bộ và huyện chỉ có Ủy ban hành chính. Ủy ban hành chính bộ do Hội

đồng các tỉnh và thành phố bầu ra. Ủy ban hành chính huyện do Hội đồng các xã
bầu ra” (Điều 55).
Hiến pháp dành hẳn một chương (chương 2), với 13 điều quy định về nghĩa
vụ và quyền lợi công dân. Trong đó có 2 điều (Điều 4 và 5) quy định về nghĩa vụ,
có 11 điều (Điều thứ 6 đến 16) đề cập quyền lợi công dân. Hiến pháp khẳng định
một cách dứt khoát: Tất cả công dân Việt Nam đều có quyền bình đẳng trước
pháp luật; “tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người
công dân Việt Nam” (Điều 11). “Công dân Việt Nam có quyền:
- Tự do ngôn luận
- Tự do xuất bản
- Tự do tín ngưỡng
- Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài” (Điều 10).
Ngoài ra, Hiến pháp còn khẳng định về quyền tư hữu, quyền được đi học,
quyền bình đẳng nam nữ… của công dân. Đối chiếu với những Hiến pháp sau
này: Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 (kể cả sửa đổi bổ sung Hiến pháp năm
1992 vào năm 2001), quyền của công dân Việt Nam được khẳng định trong Hiến
pháp năm 1946 vẫn đầy đủ, tiến bộ hơn, nhất là những giá trị lịch sử và thời đại;
giá trị nhân văn và nhân đạo. Đến nay, những giá trị này vẫn được tiếp tục kế
thừa và phát huy.
Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), do hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, thù
trong, giặc ngoài lăm le bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ, Đảng Cộng sản
Đông Dương buộc phải tuyên bố tự giải thể; thực chất là rút vào hoạt động bí
mật. Trên thực tế, trong thời kỳ 1945 – 1954, Đảng ta luôn thể hiện vai trò lãnh
đạo toàn bộ hệ thống chính trị, nhưng trong các văn bản pháp luật không phản
ánh sự lãnh đạo đó. Thời kỳ sau này, sự lãnh đạo của Đảng được đưa vào Hiến
pháp (Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992).
Những năm 1945 – 1954, Đảng ta đã lãnh đạo công tác mặt trận, mở rộng
thành phần Chính phủ, mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp lực lượng
chống thù trong giặc ngoài. Lực lượng nòng cốt của Mặt trận do Đảng lãnh đạo là
công nhân, nông dân, trí thức. Tại Thông tri số 61-TT/TƯ, ngày 14 – 12 – 1945,

Đảng ta đã chủ trương, yêu cầu các cấp ủy đảng trong cả nước nắm vững và thực
hiện đúng chính sách của Đảng, đưa các đồng chí trong cấp ủy vào phụ trách các
ngành dân vận, mặt trận và kiện toàn Đảng đoàn các tổ chức quần chúng từ trên
xuống dưới. Thông tri cũng đặc biệt chú trọng xây dựng hệ thống chính trị ở cơ
sở, và nêu rõ thực trạng ở các cấp ủy xã hoặc một số chi bộ cơ sở “chưa chú ý đặt
Đảng đoàn trong các tổ chức quần chúng”.
Lúc này tuy chưa sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị” nhưng tính chất
giai cấp của các tổ chức chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò Mặt trận và
các đoàn thể quần chúng đã được xác định. Đứng trên lập trường của giai cấp
chính đảng mác xít, Đảng ta đã chủ trương thành lập các tổ chức thanh niên, phụ
nữ, nông dân, công nhân… nhằm tạo tiềm lực, chỗ dựa, sự hậu thuẫn cho Đảng
trong công cuộc lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân.
“Về tổ chức thanh niên và phụ nữ, công nhân và nông dân phải lấy những hình
thức tổ chức có tính giai cấp (công đoàn và Hội nông dân cứu quốc) làm hình
thức tổ chức cốt yếu”.
Tại Đại hội II của Đảng (tháng 2 – 1951), trong Báo cáo chính trị của Đại
hội, do đồng chí Trường Chinh trình bày đã nêu bật vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản đối với mặt trận, chính quyền, quân đội. Trong phong trào cách mạng,
mặt trận dân tộc, quân đội giải phóng và chính quyền nhân dân, đều phải đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng, đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân, giai cấp quyết
tâm nhất và trung thành nhất với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Về xây dựng, củng cố nền chuyên chính nhân dân – hệ thống chính trị lúc
bấy giờ - Nghị quyết Đại hội II của Đảng khẳng định vấn đề cơ bản của chính trị
dân chủ nhân dân nước ta hiện nay là củng cố Nhà nước nhân dân, củng cố cơ sở
chính trị của chính quyền là Mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng nắm vững và
củng cố chính quyền dân chủ nhân dân thì đảm bảo được kháng chiến thắng lợi
và đưa nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội II của Đảng xác định chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa là “chính quyền dân chủ của nhân dân”, nghĩa là của công nhân, nông dân,
tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc và các thân sĩ (địa chủ)

yêu nước tiến bộ… Chính quyền đó dựa vào Mặt trận dân tộc thống nhất lấy liên
minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng và do giai cấp công
nhân lãnh đạo.
Quan hệ giữa Đảng và Mặt trận thời kỳ này được xác định: Đảng lãnh đạo
Mặt trận và tất cả các tổ chức thành viên của Mặt trận. Đảng lãnh đạo và chỉ đạo
Mặt trận thực hiện những chủ trương của Đảng. Trên cơ sở chủ trương và sự chỉ
đạo của Đảng, Mặt trận xây dựng kế hoạch, giải pháp vận động các tầng lớp nhân
dân thực hiện chủ trương của Đảng. Song, đứng về tổ chức thì Đảng cũng là một
bộ phận trong Mặt trận; Đảng sinh hoạt công khai và đứng trong Mặt trận. Do đó,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận trong thời kỳ này là dùng Đảng
đoàn lãnh đạo, vận động hoặc lấy danh nghĩa Đảng công khai lãnh đạo, chỉ đạo
Mặt trận.
Quan hệ giữa Mặt trận và chính quyền đều là những tổ chức thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, do Đảng trực tiếp lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Mặt
trận và chính quyền thông qua hai hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Đảng cầm
quyền dùng quyền lực chính trị của mình lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp Mặt trận và
chính quyền. Đối với những lĩnh vực, những vấn đề có tính chất nội bộ, hay cần
có sự phát huy tính dân chủ, sáng tạo, độc lập và những quyền hạn theo luật định
của chủ thể thì Đảng lãnh đạo thông qua Đảng đoàn. Với công tác Đảng đoàn, đã
làm cho các mối quan hệ trong hệ thống thêm phong phú, đan xen. Nhờ vậy,
những chủ trương, chính sách của Đảng được phổ biến và thực hiện nhanh chóng.
Trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954),
chủ trương của Đảng ta là tăng cường đoàn kết toàn dân, thực hiện quân dân nhất
trí, củng cố bộ máy nhà nước theo hướng tập trung thống nhất để điều hành chiến
tranh. Các đoàn thể quần chúng như Tổng Liên đoàn lao động, Hội Liên hiệp Phụ
nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên được củng cố chặt chẽ hơn về mặt tổ chức,
đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động và tổ chức đoàn viên, hội viên tham gia chiến
đấu và phục vụ kháng chiến.
Yêu cầu chỉ đạo và quản lý trong kháng chiến đòi hỏi phải có bộ máy chính
quyền có tính tập trung, thống nhất chặt chẽ mới giải quyết mọi công tác kháng

chiến nhanh chóng, kịp thời. Bộ máy chính quyền Trung ương là Chính phủ, có
Ban Thường trực Quốc hội ở bên cạnh; cấp khu, cấp tỉnh có Ủy ban kháng chiến.
Tháng 2 – 1950, Hội nghị kháng chiến hành chính toàn quốc được tổ chức
nhằm chỉnh đốn và kiện toàn bộ máy. Ngày 20 – 5 – 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký Sắc lệnh số 76/SL ban hành Bản Quy chế công chức Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Đây là một bước tiến khá lớn về hành chính và kiện toàn, xây dựng bộ máy
các tổ chức đảng, nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
Lịch sử Việt Nam từ tháng 9 – 1945 đến tháng 7 – 1954 là lịch sử kháng
chiến và kiến quốc. Trong quá trình kháng chiến, Đảng và Chính phủ ta đã xây
dựng, củng cố nền dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công – nông,
tạo dựng sức mạnh để đưa kháng chiến đến thắng lợi. Đảng là hạt nhân lãnh đạo
kháng chiến, lãnh đạo chính quyền, Mặt trận và toàn thể xã hội. Trong một hoàn
cảnh đặc biệt, do chiến tranh và một thời kỳ khá dài Đảng ta rút vào hoạt động bí
mật (1945 – 1951), nhưng Đảng ta vẫn phát huy tốt vai trò lãnh đạo chính quyền
và các tổ chức chính trị - xã hội. Hàng vạn tổ chức cơ sở của Đảng đã ăn sâu bám
rễ trong nhân dân. Đảng đã được nhân dân thừa nhận là đội tiên phong của mình.
Trong sự nghiệp kháng chiến, Đảng và Chính phủ đã xây dựng chính quyền
dân chủ nhân dân, một chính quyền của dân, do dân, vì dân ngày càng lớn mạnh,
là công cụ tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới. Chính quyền
dân chủ nhân dân có cơ sở chính trị vững mạnh là khối đoàn kết toàn dân tập hợp
trong Mặt trận Liên Việt, có một công cụ sắc bén là lực lượng vũ trang và công
an nhân dân. Cơ quan nhà nước tối cao là Quốc hội và Hội đồng Chính phủ, ở
các địa phương là Hội đồng nhân dân và Ủy ban kháng chiến hành chính. Bộ máy
chính quyền được tổ chức thích hợp với thực tiễn, đội ngũ cán bộ nhân viên được
sàng lọc, thử thách qua lò lửa kháng chiến. Đội ngũ cán bộ nhân viên cơ sở làm
việc với tinh thần “cơm nhà áo vợ” nhưng vẫn nhiệt tình năng nổ. Nhờ vậy, bộ
máy chính quyền dân chủ nhân dân ngày càng mạnh mẽ, liêm khiết, đoàn kết, tận
tụy phục vụ kháng chiến, phục vụ Tổ quốc và nhân dân, được dân tin, dân phục
và dân yêu.
Thắng lợi của việc xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân trong sự nghiệp

kháng chiến và kiến quốc đã góp phần mở ra một thời kỳ phát triển mới của dân
tộc ta trên con đường hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên
xây dựng một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống nhất dân chủ và giàu
mạnh theo con đường cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Tóm lại, trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945
– 1954), mặc dù khái niệm “hệ thống chính trị” chưa xuất hiện, nhưng tính chất
của hệ thông chính trị đã định hình. Đảng, thông qua chủ trương, đường lối đúng
đắn của mình đã lãnh đạo toàn diện mọi hoạt động xã hội. Vai trò lãnh đạo của
Đảng thể hiện thông qua tổ chức cơ sở Đảng và cá nhân từng đảng viên. Mọi
quyền lực của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều tập trung trong tay
Quốc hội và Chính phủ liên hiệp, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Chính vì
có sự tổ chức và hoạt động phù hợp nên Đảng, Chính phủ, Mặt trận và các đoàn
thể nhân dân đã tập hợp, đoàn kết, lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến
thắng lợi.
Thành tựu nổi bật trong thời kỳ là tổ chức Tổng tuyển cử, ban hành Hiến
pháp, đặt nền tảng đầu tiên của thiết chế dân chủ nhân dân ở nước ta, là cơ sở để
củng cố tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân từ Trung ương đến cơ sở.
Hạn chế đáng lưu ý trong thời kỳ này của hệ thống chính trị là sự học tập
thiếu chọn lọc, áp dụng giáo điều kinh nghiệm trong cải cách ruộng đất trong
1953 – 1954, phân định thành phần, quy kết xử trí không đúng, “gây tổn thất nhất
định đến khối đại đoàn kết dân tộc”.
2. Củng cố hệ thống chuyên chính vô sản ở miền Bắc, xây dựng nền
chuyên chính nhân dân ở miền Nam (1954 – 1975)
Ngày 21 – 7 – 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, hòa bình được lập lại
trên cơ sở thừa nhận chủ quyền dân tộc của ba nước Đông Dương, thúc đẩy thắng
lợi sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Việt Nam tạm thời
chia làm hai miền với hai chế độ khác nhau: miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng và
đi lên chủ nghĩa xã hội còn miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và các lực lượng

tay sai thống trị. Sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ của nhân dân trên cả nước
chưa hoàn thành. Nhân dân Việt Nam vừa phải lo hàn gắn vết thương chiến
tranh, khôi phục kinh tế, đưa miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, vừa phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất đất nước.
Quá trình xây dựng hệ thống chính trị giai đoạn 1954 – 1975 được thể chế
trong Hiến pháp năm 1959 (với 9 chương, 112 điều), được Quốc hội thông qua
trong kỳ họp thứ 11, ngày 31 – 12 – 1959. Ngày 1 – 1 – 1960, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký sắc lệnh công bố bản Hiến pháp mới.
Trong phần Lời nói đầu của Hiến pháp đã khẳng định nước Việt Nam là một
nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau; dân tộc Việt Nam là một dân tộc đã
trải qua hàng nghìn năm lịch sử, cần cù lao động, anh dũng đấu tranh, xây dựng
và giữ gìn độc lập của Tổ quốc. Hiến pháp khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Lao
động Việt Nam, của Chính phủ và của Hồ Chủ tịch: “Dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hào và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân ta đoàn kết rộng rãi trong Mặt trận dân tộc thống
nhất, nhất định sẽ giành thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và thực hiện thống nhất nước nhà”.
Về chế độ chính trị, Hiến pháp ghi rõ: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
thành lập và củng cố thắng lợi mà nhân dân Việt Nam đã giành được trong Cách
mạng Tháng Tám vẻ vang và kháng chiến anh dũng, là một nước dân chủ nhân
dân” (Điều 2).
“Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân
dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân” (Điều
4).
“Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ
với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.
Tất cả nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ
nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”

(Điều 6).
Hiến pháp cũng quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Về
quyền lợi, mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, có quyền bầu
cử và ứng cử; quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình,
quyền tự do tín ngưỡng; quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, thư tín;
quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nhà nước nào về hành vi vi phạm
pháp luật của nhân viên cơ quan nhà nước; quyền làm việc, nghỉ ngơi; quyền
được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật, hoặc mất sức lao động; quyền học
tập, thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bức; quyền nghiên cứu khoa học
và sáng tạo; quyền bình đẳng giới, Nhà nước bảo hộ quyền lợi bà mẹ, trẻ em…
Hiến pháp năm 1959 phản ánh bản chất dân chủ của xã hội Việt Nam. Tuy
nhiên, do tạm thời đất nước chia làm hai miền, với hai nhiệm vụ chiến lược, hệ
thống chính trị ở miền Bắc được xây dựng với tính chất là hệ thống chuyên chính
vô sản, còn ở miền Nam là việc giành, giữ chính quyền, xây dựng chính quyền
dân chủ nhân dân. Ở miền Bắc, thời kỳ này vẫn tồn tại Đảng Dân chủ và Đảng
Xã hội Việt Nam.
Thông qua chính sách Mặt trận, Đảng ta đã phát huy vai trò lãnh đạo của
mình. Phương thức lãnh đạo của Đảng là phải thông qua hiệp thương, bàn bạc
một cách dân chủ giữa các đảng phái chính trị và các đoàn thể nhân dân trong
Mặt trận để đi đến thực hiện thống nhất hành động, những vẫn tôn trọng tính độc
lập của các tổ chức thành viên của Mặt trận và để cho nội bộ tổ chức định lấy
những hình thức hoạt động thích hợp của mình.
Đảng ta xác định: “Tăng cường không ngừng chính quyền nhân dân.
Nghiêm chỉnh thực hiện chính quyền dân chủ nhân dân, chuyên chính với kẻ
địch. Triệt để chấp hành mọi chế độ và pháp luật của Nhà nước”. Như vậy, việc
củng cố, tăng cường chính quyền dân chủ nhân dân, phát huy dân chủ đã gắn liền
với chấp hành pháp luật, là một nội dung quan trọng của việc xây dựng và củng
cố hệ thống chính trị đất nước.
Ở miền Nam, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam (tháng 12 – 1960) nhằm tập hợp tất cả các lực lượng chống đế

quốc và phong kiến.
Cuối những năm 60 của thế kỷ XX do tình hình cách mạng có những
chuyển biến tích cực, vùng giải phóng ngày càng mở rộng, tại Hội nghị lần thứ
14 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa III) tháng 1 – 1968, Đảng ta chủ trương
nhanh chóng thành lập tổ chức chính quyền cách mạng của nhân dân ở miền
Nam. Đảng ta chỉ rõ: “Sự ra đời của chính phủ cách mạng, một tổ chức chính
quyền dân tộc, dân chủ và liên hiệp bao gồm các lực lượng yêu nước, có lực
lượng cách mạng của Mặt trận Dân tộc giải phóng làm nòng cốt… Đó là bước
phát triển tất yếu của cách mạng miền Nam, trong quá trình giành chính uyền về
tay nhân dân, xây dựng chính quyền cách mạng và hoàn chỉnh hệ thống chính
quyền ấy, tạo điều kiện cho các tầng lớp yêu nước tham gia chính quyền, làm chủ
sự nghiệp giải phóng miền Nam”.
Đối với miền Bắc, trong điều kiện phải đối phó với cuộc chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ và phải chi viện cho chiến trường miền Nam, việc xây dựng
hệ thống chính trị được xác định: ra sức tăng cường chuyên chính vô sản, phát
huy cao độ vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức và quản lý của Nhà nước và
tinh thần làm chủ tập thể của quần chúng lao động nhằm thực hiện thắng lợi ba
cuộc cách mạng.
Xây dựng nền chuyên chính vô sản ở miền Bắc trong thời kỳ này đòi hỏi
phải xây dựng một bộ máy nhà nước mạnh, nhằm đảm đương được nhiệm vụ
quản lý kinh tế, phát triển sản xuất và tổ chức đời sống. Do đó Đảng ta tiến hành
xây dựng một bộ máy nhà nước có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế,
thích hợp với đặc điểm của từng ngành và từng địa phương, hướng mạnh xuống
cơ sở, đi sâu vào từng mặt kinh tế và kỹ thuật. Mối quan hệ giữa Đảng, chính
quyền và quần chúng trong công tác tổ chức kinh tế cũng được xác lập, làm cơ sở
cho việc cụ thể hóa thành những cơ chế chính sách sau này. Đảng đã vạch ra
đường lối, chính sách cơ bản, quy định những chủ trương, biện pháp quan trọng,
động viên quần chúng tiến quân mạnh mẽ vào mặt trận kinh tế, kiểm tra sự hoạt
động của các cơ quan chính quyền nhà nước. Để giữ vững và phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng những phương thức lãnh đạo

khác nhau (công nhân, nông dân, trí thức…) thích hợp với từng lĩnh vực (công
nghiệp, nông nghiệp, xí nghiệp, hợp tác xã), đề cao chức năng quản lý của chính
quyền và bảo đảm quyền làm chủ của quần chúng nhân dân.
Chức năng quản lý của Nhà nước là cơ quan quyền lực thay mặt nhân dân
quản lý nền kinh tế cả nước. Vì vậy, mọi đường lối, chính sách kinh tế của Đảng
muốn biến thành hiện thực nhất thiết phải thông qua quản lý, tổ chức thực hiện
của chính quyền. Dựa vào pháp luật, thể chế, điều lệ và thông qua bộ máy chuyên
môn, kỹ thuật, nghiệp vụ của mình, chính quyền nhà nước các cấp là người trực
tiếp quản lý kinh tế, chỉ huy sản xuất, chỉ huy phân phối, điều hòa quyền lợi vật
chất của các tầng lớp trong xã hội theo đúng đường lối của Đảng.
Việc phát huy vai trò làm chủ tập thể của nhân dân lao động cũng được nêu
lên trong quan hệ Đảng – Nhà nước – Nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng cũng như
vai trò quản lý của chính quyền, suy đến cùng đều nhằm bảo đảm quyền làm chủ
tập thể của nhân dân trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Để động viên được sức
mạnh của toàn dân trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội,
ngăn ngừa những hiện tượng tiêu cực, Đảng ta cũng đề ra những hình thức thích
hợp để quần chúng trực tiếp tham gia quản lý kinh tế, giám sát sự hoạt động của
các cơ quan đảng và chính quyền nhà nước.
Như vậy, việc xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta thời kỳ 1954 – 1975
đối với miền Bắc là xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản, từng bước xác lập
quan hệ giữa Đảng – Nhà nước – Nhân dân thông qua vai trò lãnh đạo của Đảng,
vai trò quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động;
đối với miền Nam, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính quyền dân chủ nhân
dân trong tiến trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới thống nhất đất
nước. Đây là kết quả của quá trình vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta, của Đảng và Nhà nước ta về
xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ 1954 – 1975.
Thành tựu nổi bật trong quá trình xây dựng và phát triển của chính quyền
dân chủ nhân dân ở miền Nam – từ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam đến Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam – đã

đóng vai trò điều hành hoạt động của chính quyền tự quản trong các vùng căn cứ
kháng chiến, vùng giải phóng, các vùng tự do dân làm chủ.
Đối với miền Bắc, nhờ xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuyên chính vô
sản, nên dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân đã huy động được sức người, sức của chi viện cho chiến trường miền Nam
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược; đồng thời xây dựng cơ sở vật chất đưa miền Bắc
bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ nhận thức về đấu tranh giai cấp một cách quá máy móc, nên hệ
thống chuyên chính vô sản của ta đã quá “chuyên chính”, “mạnh tay” với một số
đối tượng, thành phần lẽ ra phải tranh thủ, lôi kéo đứng về phe cách mạng. Vai
trò của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân nhiều khi bị đồng nhất; chưa
có sự tách bạch trong tổ chức và hoạt động trong các cơ quan, tổ chức trong hệ
thống. Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, hệ thống chuyên chính vô sản của miền
Bắc đã “phạm phải một số sai lầm như đồng nhất cải tạo với xóa bỏ các thành
phần kinh tế cá thể, xóa bỏ tư hữu”.
3. Tiếp tục củng cố hệ thống chuyên chính vô sản (1975 – 1986)
Sau đại thắng mùa xuân 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước
thống nhất, một hệ thống chính trị thống nhất trong cả nước được xây dựng và
phát triển.
Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, họp trong tháng 9 -
1975, đề ra nhiệm vụ thống nhất đất nước về mặt nhà nước. “Thống nhất đất
nước vừa là nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước, vừa là quy luật khách
quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam”.
Trong hai ngày 5 và 6 – 11 – 1975, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam, Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng
dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam và Hội đồng cố vấn của Chính phủ cùng đại diện các nhân
sĩ, trí thức yêu nước, dân chủ đã mở Hội nghị liên tịch (mở rộng) tại Sài Gòn. Hội
nghị thảo luận và đi đến nhất trí về sự cần thiết phải sớm hoàn thành thống nhất
đất nước, trước hết là về mặt nhà nước và đề xuất những nguyên tắc và biện pháp

tiến hành hiệp thương giữa hai miền Nam – Bắc.
Từ ngày 15 đến 21 – 11 – 1975, Hội nghị hiệp thương thống nhất đất nước
được tổ chức tại Sài Gòn, hai đoàn đại biểu đại diện cho hai miền tham dự Hội
nghị. Đoàn miền Bắc có 25 đại biểu, do đồng chí Trường Chinh làm trưởng đoàn;
đoàn đại biểu miền Nam có 25 đại biểu do đồng chí Phạm Hùng làm trưởng
đoàn. Hội nghị tiến hành thảo luận và đi đến nhất trí cao về chủ trương, biện pháp
để thực hiện ý nguyện của toàn dân nhằm thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Ngày 25 – 4 – 1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tổ chức
thành công trên toàn quốc, đánh dấu một thắng lợi có ý nghĩa quyết định trên con
đường thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Tại kỳ họp Quốc hội chung cả nước, cuối tháng 6, đầu tháng 7 – 1976, tên
nước được chính thức tuyên bố là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Quốc kỳ là cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Quốc huy mang dòng
chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam
thống nhất, thành phố Sài Gòn đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh.
Quốc hội bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo của Nhà nước, Quốc hội, Chính
phủ và quyết định tổ chức thành lập chính quyền 4 cấp: Trung ương; cấp tỉnh và
thành phố trực thuộc Trung ương; cấp huyện và tương đương; cấp xã và tương
đương. Mỗi cấp chính quyền tỉnh đến xã đều có Hội đồng nhân dân được bầu
theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Ủy ban nhân dân là
cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp, là cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, do Hội đồng nhân dân bầu ra.
Việc xây dựng hệ thống chính trị của nước ta trong giai đoạn 1976 – 1986
được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ
ngày 14 đến ngày 20 – 12 – 1976 nêu rõ: điều kiện quyết định trước tiên là phải
thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không
ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. “Nắm vững
chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động” là
thể hiện tập trung việc xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam thời kỳ này. Đồng
thời Đảng ta cũng chỉ rõ, “xây dựng chế độ làm chủ tập thể về chính trị là thiết

lập quyền lực của nhân dân lao động lấy liên minh công nông làm nòng cốt và do
giai cấp công nhân lãnh đạo sau khi lật đổ ách thống trị của bọn áp bức, bóc lột;
là xây dựng các mối quan hệ đúng đắn giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân dể đảm
bảo cho nhân dân lao động thật sự làm chủ xã hội, hiểu rõ và biết sử dụng quyền
lực chính trị của mình”.
Quan điểm của Đảng ta về Nhà nước chuyên chính vô sản là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân. “Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước chuyên chính vô
sản, một tổ chức thực hiện quyền làm chủ tập thể của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, một tổ chức thông qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối
với tiến trình phát triển xã hội… Để thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân
dân lao động, Nhà nước ta phải là một thiết chế của dân, do dân và vì dân…”.
Vấn đề tăng cường củng cố Nhà nước cũng được nêu rõ trong Báo cáo chính
trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV. Đó là tăng cường hiệu lực của Nhà nước về mặt tổ chức quản lý kinh tế; tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi hoạt động của các cơ quan nhà
nước đi vào khuôn phép và quy chế nghiêm chỉnh, thật sự tôn trọng quyền làm
chủ tập thể và bảo đảm quyền lợi của công dân.
Vai trò lãnh đạo của Đảng được khẳng định tại Đại hội lần thứ IV của Đảng.
Đảng là người lãnh đạo toàn bộ hoạt động xã hội thông qua hệ thống chuyên
chính vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng là đảm bảo cao nhất cho chế độ làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước cũng được Văn kiện Đại hội IV chỉ
rõ: Đảng quy định đường lối, chính sách, phương hướng hoạt động của Nhà nước
và những vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước ở các cấp. Đảng dựa
vào các tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng để kiểm tra, giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Đồng thời,
Đảng cũng tôn trọng quyền hạn pháp luật của Nhà nước, kịp thời giải quyết
những đề nghị của các cơ quan nhà nước về chủ trương, chính sách. “Đảng bắt
buộc tất cả các tổ chức, các cán bộ đảng viên của Đảng phải tôn trọng quyền lực

của cơ quan nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và các quyết định, chỉ
thị của cơ quan nhà nước, coi đó là kỷ luật của Đảng”.
Nhiệm vụ chung của các đoàn thể quần chúng trong hệ thống chuyên chính
vô sản là bảo đảm cho quần chúng tham gia và kiểm tra công việc của Nhà nước,
đồng thời là trường học về chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội IV, ngày 18 – 12 – 1980, Quốc hội đã thông
qua Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp
năm 1980 có Lời nói đầu, 12 chương, 147 điều. Hiến pháp này tổng kết và xác
định những thành quả đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam trong nửa thế
kỷ qua, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, bảo đảm sự phát
triển của xã hội Việt Nam trong thời gian tới. Những quan điểm của Đảng về hệ
thống chính trị ở Việt Nam trong thời kỳ này được thể chế hóa trong Hiến pháp
năm 1980. Điều 2 của Hiến pháp ghi rõ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước chuyên chính vô sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước đó là thực
hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Điều 4 ghi: “Đảng Cộng sản
Việt Nam… là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố
chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt
Nam. Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”.
Hiến pháp năm 1980 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực thông qua
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm
trước nhân dân” (Điều 6).
Hiến pháp năm 1980 cũng quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam – bao
gồm các chính đảng, Tổng công đoàn Việt Nam, tổ chức Liên hiệp nông dân tập
thể Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam và các thành phần khác của Mặt trận – là chỗ dựa vững chắc của Nhà
nước. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí
về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia củng cố và xây dựng chính
quyền nhân dân, giáo dục và động viên nhân dân đề cao ý thức làm chủ tập thể,

ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 9).
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước đến năm
1986, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và hoàn thiện hệ thống
chính trị là kế thừa và phát triển tư tưởng về xây dựng hệ thống chuyên chính vô
sản, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, nhất là
quản lý kinh tế, xây dựng Nhà nước chuyên chính vô sản cũng là Nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Nhân dân lao động làm chủ tập thể thông qua Nhà nước và
các tổ chức chính trị - xã hội của mình.
Mặt mạnh của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuyên chính vô sản
trong giai đoạn 1975 – 1986, là đảm bảo được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong giai đoạn mới của cuộc cách mạng, huy động sức người, sức
của giành thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hạn chế cơ bản trong thời kỳ này là dùng sức mạnh hệ thống chuyên chính
vô sản xóa bỏ các thành phần kinh tế còn hiệu quả, chưa có quan điểm chiến lược
và phương thức cụ thể để mở rộng giao lưu quốc tế. Tình hình này đã làm cho xã
hội Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1986 bị khủng hoảng trầm trọng.
*
* *
Hệ thống chính trị là cơ chế bảo đảm thực hiện quyền lực chính trị, là hệ
thống công cụ tổ chức đắc lực để giai cấp lãnh đạo trong xã hội tác động mạnh
đến sự phát triển. Hệ thống chính trị Việt Nam là một chỉnh thể bao gồm Đảng
Cộng sản, Nhà nước, cùng các tổ chức chính trị - xã hội.
Từ Cách mạng Tháng Tám (1945) đến năm 1954, tuy chưa sử dụng khái
niệm “hệ thống chính trị” nhưng tính chất giai cấp của các tổ chức chính trị; vai
trò lãnh đạo của Đảng, vai trò Mặt trận và các đoàn thể quần chúng được khẳng
định. Trong giai đoạn 1954 – 1975, quá trình xây dựng và phát triển hệ thống
chính trị ở nước ta, đối với miền Bắc là xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản;
đối với miền Nam, xây dựng hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong tiến
trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới thống nhất đất nước. Sau mùa

xuân 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, một hệ thống
chính trị thống nhất trong cả nước được xây dựng và phát triển. “Nắm vững
chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”,
“xây dựng các mối quan hệ đúng đắn giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân để đảm
bảo cho nhân dân lao động thật sự làm chủ xã hội, hiểu rõ và biết sử dụng quyền
lực chính trị của mình” là những nội dung thể hiện tập trung việc xây dựng hệ
thống chuyên chính vô sản – hệ thống chính trị ở Việt Nam thời kỳ 1975 – 1986.
Mặt mạnh cơ bản của hệ thống chính trị cơ bản của Việt Nam xuyên suốt
trong các thời kỳ lịch sử là có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với đường lối
chính trị đúng đắn, sáng tạo, đưa đất nước Việt Nam ngày càng phát triển. Đó là
đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đường lối độc lập tự chủ
của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây
dựng, rèn luyện một đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng và
nhạy bén, đáp ứng xuất sắc yêu cầu cách mạng trong thời kỳ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Từ năm 1945 đến năm 1986, nhân dân ta luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, vào tương lai tốt đẹp của dân tộc, của đất nước, có một trình độ giác ngộ
cao. Nhờ vậy, Việt Nam đã xây dựng thành công một Nhà nước của dân, do dân,
vì dân. Các Hiến pháp của Nhà nước ta đều ghi rõ chế độ chính trị ở nước ta là
chế độ do nhân dân lao động làm chủ. Toàn bộ hoạt động của Nhà nước ta đều
hướng vào mục tiêu phục vụ lợi ích của nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân trong hệ thống chính trị đã góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Tuy nhiên, do phải tổ chức trong thời kỳ chiến tranh kéo dài suốt 30 năm
(1945 - 1975), nên hệ thống chính trị ở Việt Nam khi chuyển sang thời kỳ hòa
bình đã có nhiều điểm không phù hợp. Trước hết, đó là một hệ thống chính trị tập
trung, quan liêu, chưa xác định rõ vị trí, vai trò của các bộ phận trong các hệ
thống chính trị. Hạn chế này bộc lộ khá rõ qua phương thức quản lý tập trung
quan liêu, hành chính mệnh lệnh với cơ chế bao cấp và bình quân, làm biến dạng

các quan hệ xã hội, triệt tiêu các động lực phát triển xã hội. Đông đảo cán bộ,
đảng viên đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, kéo dài suốt 30
năm, nay chuyển sang thời kỳ mới – thời kỳ hòa bình, xây dựng – bộc lộ nhiều
hạn chế về kiến thức khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội, khoa học quản lý kinh
tế, quản lý xã hội… Số cán bộ ở hậu phương hoạt động theo cơ chế cũ, nay
chuyển sang cơ chế mới cũng gặp nhiều lúng túng. Những “nhận thức giản đơn
về bản chất giai cấp của Nhà nước, hiểu một cách thô thiển chức năng giai cấp,
bản chất chính trị của Nhà nước, dẫn đến cường điệu, tuyệt đối hóa mặt chuyên
chính, trấn áp; ít chú ý tới các quyền tự do của công dân”. Tình hình đó đặt ra
những yêu cầu phải khẩn trương đổi mới hệ thống chính trị nói riêng, đổi mới
toàn diện đất nước nói chung, nhằm giải quyết những bất ổn xã hội, thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

CHUYÊN CHÍNH DÂN CHỦ NHÂN DÂN: sự thống trị về chính trị của
nhân dân, bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và các cá
nhân thân sĩ, lấy công nhân, nông dân và trí thức yêu nước làm nền tảng do đảng
tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo. CCDCND là thành quả thắng lợi của
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Chức năng, nhiệm vụ lịch sử của
CCDCND là phát huy tự do dân chủ, tổ chức nhân dân hoàn thành các nhiệm vụ
của cách mạng dân tộc dân chủ chống lại các thế lực phản động, xây dựng và bảo
vệ chế độ dân chủ nhân dân, tạo tiền đề tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời năm 1945 là nhà nước CCDCND thực hiện nhiệm
vụ kháng chiến và kiến quốc, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, tạo tiền đề đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN: sự thống trị về chính trị của giai cấp công
nhân. Chức năng chủ yếu của CCVS là thực hiện dân chủ đối với nhân dân, tổ
chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới; chuyên chính với những phần tử thù địch,
chống lại nhân dân.
Lí luận về CCVS là một bộ phận quan trọng của chủ nghĩa cộng sản khoa
học. Chủ nghĩa Mac đã nêu rõ: giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản

chủ nghĩa là một thời kì cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích
ứng với thời kì ấy là thời kì quá độ chính trị, và nhà nước của thời kì ấy không
thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Nền
tảng của CCVS là liên minh công nông, trong đó giai cấp công nhân - thông qua
đảng tiên phong của mình - giữ vai trò lãnh đạo. CCVS là một hình thức tổ chức
nhà nước kiểu mới, là hình thức chuyên chính mang tính giai cấp cuối cùng, có
sứ mệnh xoá bỏ giai cấp, tiến tới xã hội không có giai cấp. CCVS có nhiều hình
thức khác nhau, thích ứng với những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, nhưng
tựu trung vẫn là quyền lực của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động.
Vấn đề có tính nguyên tắc là thực hiện những nội dung và chức năng chứa
đựng trong khái niệm CCVS chứ không phải tên gọi. Vì vậy, Đại hội VII Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định: Nhà nước Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là "nhà nước xã hội chủ nghĩa; nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân
chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỉ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động
xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân" ("Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội").
Kết quả nghiên cứu, tổng kết quá trình xây dựng và phát triển nền chính trị
Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay cho thấy, ứng với
mỗi mô hình kinh tế - xã hội, các mục tiêu và nhiệm vụ lịch sử của mỗi giai đoạn
là một hình thức tổ chức chính trị và dân chủ tương thích.
Ứng với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung với các nhiệm vụ của
chuyên chính vô sản chúng ta đã xây dựng và vận hành hệ thống chuyên chính vô
sản. Hệ thống chuyên chính vô sản với việc thực hiện hai chức năng cơ bản: trấn
áp sự chống đối của các giai cấp bóc lột, các thế lực thù địch trong cải tạo xã hội
chủ nghĩa và chức năng tổ chức thực hành nền dân chủ mới của khối liên minh
giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức để xây dựng xã
hội xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở quán triệt các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chuyên

chính vô sản và sự cần thiết phải thực hiện chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta cho rằng: “Muốn đạt mục tiêu ấy, phải sử dụng
chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản”.
“Chính quyền dân chủ nhân dân là công cụ đắc lực để thực hiện những nhiệm vụ
của chuyên chính vô sản, đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời để đấu tranh củng cố hòa bình, thực
hiện thống nhất Tổ quốc”. Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên cơ sở liên minh
công nông và được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân, phải thực hành chuyên
chính với bọn phản cách mạng, nghiêm trị những kẻ chống lại cách mạng xã hội
chủ nghĩa và công cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”.
Đến Đại hội IV (1976), Đảng ta tiếp tục khẳng định đường lối chung của
cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của nước ta là: Nắm vững
chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến hành

×