TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ THẾ GIỚI
ĐỀ TÀI: THÀNH TỰU CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở LIÊN XÔ ( 1945 - 1973 )
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
NỘI DUNG.........................................................................................................2
CHƯƠNG I. CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA
NHÂN DÂN LIÊN XƠ TRONG THỜI KÌ TỪ 1945 ĐẾN ĐẦU NHỮNG
NĂM 70...............................................................................................................2
1. Thành tựu trên lĩnh vực kinh tế của nhân dân Liên Xô trong thời kì từ
1945 đến đầu những năm 70..............................................................................2
2.Những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, xã hội........................................12
3. Những hạn chế trong qúa trình khơi phục và xây dựng chủ nghĩa xã hội
của nhân dân Liên Xơ......................................................................................16
CHƯƠNG II. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VÀ MỐI QUAN HỆ HỢP TÁC
CỦA LIÊN XÔ ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ................17
CHƯƠNG III. MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN XÔ............................20
KẾT LUẬN.......................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................25
MỞ ĐẦU
Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 thành công đã đưa nước Nga bước
vào thời kì khơi phục và phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất cho Chủ
nghĩa xã hội. Từ năm 1921 đến năm 1941, Liên Xô đã thực hiện các kế hoạch 5
năm xây dựng Chủ nghĩa xã hội và đạt nhiều thành tựu to lớn. Ngày 22 tháng 6
năm 1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô, nhân dân Liên Xô phải tạm dừng
công cuộc xây dựng đất nước để thực hiện cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Trong suốt cuộc chiến tranh thế giới thứ hai(1939-1945) Liên Xơ ln giữ vai
trị là lực lượng đi đầu và là lực lượng chủ chốt quyết định thắng lợi của cuộc
chiến tranh thế giới.
Trong cuộc chiến tranh chống phát xít nhân dân Liên Xơ đã phải gánh
chịu những tổn thất hết sức nặng nề: trên 20 triệu người chết, 1710 thành phố
và hơn 70.000 làng mạc bị tiêu hủy, hơn 32.000 xí nghiệp bị tàn phá. Sau chiến
tranh các nước Phương Tây do Mỹ cầm đầu, tiến hành bao vây kinh tế, gây
cuộc “chiến tranh lạnh” và ra sức chạy đua vũ trang, chuẩn bị phát động cuộc
chiến tranh tổng lực nhằm tiêu diệt Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh đó nhân dân Liên Xơ vừa phải ra sức củng cố quốc phòng
chuẩn bị chống lại âm mưu của các nước phương Tây, vừa phải giúp đỡ phong
trào cách mạng thế giới. Nhân dân Liên Xô đã tựu lực tự cường bắt tay vào
công cuộc xây dựng đất nước sau chiên tranh. Với tinh thần cố gắng nỗ lực hết
mình dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, Liên Xô đã hoàn thành thắng lợi các
kết hoạch 5 năm và trở thành thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội trên toàn
thế giới đặc biệt là thành tựu trong giai đoạn 1945-1975. Những thành tựu mà
Liên Xô đạt được trong thời gian này đã có ảnh hưởng sâu sắc tới thế giới đặc
biệt là đối với Việt Nam.
1
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA
NHÂN DÂN LIÊN XƠ TRONG THỜI KÌ TỪ 1945 ĐẾN ĐẦU NHỮNG
NĂM 70
1. Thành tựu trên lĩnh vực kinh tế của nhân dân Liên Xơ trong thời kì từ
1945 đến đầu những năm 70.
1.1.Công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh
Sau chiến tranh nhiệm vụ chủ yếu trong đường lối đối nội của Liên Xô là
khôi phục nền kinh tế quốc dân. Nhiệm vụ này được thực hiện từ năm 1943 khi
Liên Xô bắt đầu đánh đuổi quân thù về phía Tây. Tuy nhiên cơng cuộc khơi
phục kinh tế chỉ thực sự được tiến hành từ năm 1946 với kế hoạch 5 năm lần
thứ IV khôi phục và phát triển kinh tế quốc dân (1946- 1950).
Về công nghiệp: Liên Xô đồng thời phải giải quyết ba vấn đề quan trọng:
thứ nhất: phi quân sự hoá nền kinh tế bằng cách chuyển sang xây dựng các
cơng trình dân dụng; thứ hai: khơi phục các xí nghiệp bị tàn phá, và thứ ba: tiến
hành xây dựng các xí nghiệp mới.
Nhiệm vụ thứ nhất căn bản được thực hiện trong năm 1946- 1947. Đã tiến
hành loại bỏ một số cơ quan cơng nghiệp chiến tranh (như xe tăng), thay vào đó
là một số cơ quan (từ 1946 gọi là bộ) sản xuất dân sự như chế tạo máy giao
thông, máy nông nghiệp, thiết bị phụ tùng. Các quân nhân giải ngũ được điều
đến làm trờn cỏc cụng trường của kế hoạch 5 năm. Việc giải trừ quân bị được
ban hành từ tháng 6 năm 1945 và hoàn tất năm 1948. Từ 11,4 triệu người năm
1945 xuống còn 2,9 triệu người năm 1948. Tuy nhiên năm 1950 khi chiến tranh
Triều Tiên diễn ra, số lượng quân đội lại được huy động lên tới 5,8 triệu người.
Vị trí quan trọng nhất trong sự phục hồi công nghiệp là điện. Các phương
tiện lớn đã được huy động vào việc phục hồi các nhà máy điện, đặc biệt là Nhà
máy thuỷ điện Đơnhiep. Nhờ những cố gắng không mệt mỏi của nhân dân Liên
2
Xô, sự thiệt hại đã được khôi phục trong thời gian ngắn nhất. Năm 1947, nhà
máy đã cho phát dòng điện đầu tiên và đến năm 1950 đã phục hồi hồn tồn
cơng suất thiết kế.
Giữa các ngành cơng nghiệp mũi nhọn có cả cơng nghiệp than và luyện kim,
trước hết là mỏ than và các nhà máy luyện kim ở phía Nam như Đaporode và
Adop.
Trong việc phục hồi nền sản xuất bị tàn phá, các nhà máy và nhân dân các
dân tộc miền đơng đất nước đã đóng một vai trò to lớn (nhất là Trung Á).
Trong những năm sau chiến tranh, Đảng và nhà nước Xô Viết cũng đặc
biệt quan tâm tới cơng nghiệp quốc phịng, trước hết là nhằm chế tạo bom
nguyên tử. Năm 1948, lò phản ứng sản xuất Pluton đã được xây dựng ở vùng
Chialibin. Tới mùa thu 1949, Liên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên tử,
đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc của khoa học qn sự Xơ Viết. Sự kiện đó đã phá
tan thế độc quyền bom nguyên tử của Mĩ, tạo thế cân bằng chiến lược về vũ khí
nguyên tử giữa Liên Xô và Mĩ. Liên Xô đạt được thế cân bằng chiến lược về
sức mạnh quân sự nói chung và sức mạnh hạt nhân nói riêng với phương Tây,
Liên Xơ và Mĩ được xem là hai siêu cường về kinh tế và quân sự.
Những thành tựu đạt được của Liên Xơ có ý nghĩa to lớn, làm đảo lộn
tồn bộ chiến lược của Mĩ và đồng minh của Mĩ. Ngay trong năm 1949, Liên
Xô đã ra tuyên bố cấm sử dụng vũ khí ngun tử một cách vơ điều kiện. Từ
cuối những năm 40, Liên Xô quyết định sử dụng năng lượng ngun tử vào
mục đích hồ bình. Lần đầu tiên trên thế giới nhà máy điện nguyên tử
Ôpbơninxki ở ngoại ô Matxơcơva với công suất 5000 kw đã được xây dựng và
đi vào hoạt động vào mùa hè 1954.
Nhìn chung, công nghiệp đã phục hồi vào năm 1947, đạt mức trước chiến
tranh (1940). Tới cuối kế hoạch 5 năm lần thứ IV đã tăng sản lượng công
nghiệp lên 73% (kế hoạch dự kiến 48%). Hơn 6200 xí nghiệp được phục hồi
hoặc xây dựng mới đi vào hoạt động. Tuy nhiên cơng nghiệp nhẹ vẫn lạc hậu
và khơng hồn thành kế hoạch.
3
Về nơng nghiệp: tuy gặp khơng ít khó khăn, phức tạp nhưng đến năm 1950,
mức sản xuất nông nghiệp cũng đạt mức trước chiến tranh. Trong những năm
sau chiến tranh, Chính phủ Xơ viết đã có những chủ trương khơng đúng như
khơng khuyến khích kinh tế phụ gia đình, thiếu quan tâm đến lợi ích vật chất
của người nơng dân, thực hiện đường lối tập trung hóa sản xuất nơng nghiệp,
theo đó quy mơ cacsc nơng trang tăng lên, xóa bỏ các tiểu nông trang tập thể
( từ 255.314 năm 1950 xuống cịn 93.000). Việc tập thể hóa ồ ạt trong các nước
cộng hịa mới sáp nhập vào Liên Xơ trước chiến tranh cũng mang lại những hậu
quả xấu cho nồn nghiệp.
Trong khoa học nơng nghiệp, quan điểm của nhóm bác học hành chính
do viện sĩ T.Luxemco đứng đầu đã thắng thế. Công nghệ di truyền, khoa học
then chốt của tự nhiên học hiện đại bị phê phán.
Những sự kiện quan trọng của năm 1947 là cuộc cải cách tiền tệ và xóa
bỏ chế độ tem phiếu.
Về đời sống chính trị xã hội: thời kì này cũng có những diễn biến quan
trọng. Năm 1946, Xô viết tối cao Liên Xô đã cải tổ Hội đồng các ủy viên nhân
dân thành Hôi đồng Bộ trưởng Liên Xô, N.M.Svecnhic thay Calinin giữ chức
vụ Chủ tịch đồn chủ tịch Xơ viết tối cao Liên Xơ. Các sinh hoạt chính trị của
các tổ chức Đảng và quần chúng nhưu Cơng đồn, Đồn thanh niên dần dần
được khôi phục.
1.2. Thành tựu trên lĩnh vực kinh tế
1.2.1. Những thành tựu giai đoạn từ 1953 đến 1964.
Trong nông nghiệp: Từ nửa sau năm 1953, ở Liên Xô đã diễn ra các cuộc
cải cách để lại nhiều mặt tích cực trong sự phát triển kinh tế quốc dân cũng như
đời sống nhân dân.
Đường lối đó được thơng qua vào tháng 8 năm 1953 tại kì họp Xơ viết tối
cao Liên Xô. Tại đây, người đứng đầu nhà nước Malencốp đã nêu ra vấn đề
phát triển nền kinh tế vì lợi ích con người, về sự quan tâm hàng đầu của nhà nư-
4
ớc đối với phúc lợi nhân dân thông qua sự phát triển nông nghiệp và sản xuất
hàng tiêu dùng.
Sau một tháng, tháng 9- 1953, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đã họp
phân tích thực trạng của nơng nghiệp. N. Khơrutsóp đợc bầu làm Bí thư thứ
nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Vào đầu năm 1954 đã tiến hành đường lối khai hoang nâng cao diện tích
gieo trồng nhằm giải quyết một cách cấp bách vấn đề tăng nhanh sản lượng ngũ
cốc. Hàng chục nghìn những người nhiệt tình từ các trung tâm của nước Nga,
Ucraina và các nước cộng hoà khác đã đến khai phá trên các vùng đất hoang.
Nhiều nông trường ngũ cốc mới được xây dựng.
Để củng cố độị ngũ cán bộ lãnh đạo cho các nông trang, Đảng đã cử đến
đây hơn 30 nghìn người làm công tác Đảng, hơn 120 chuyên gia nông nghiệp
(một số tình nguyện, một số bắt buộc).
Năm 1958, bắt đầu cải tổ lại các trạm máy kéo. Kĩ thuật, máy móc được
cấp cho các nơng trang. Những biện pháp đó đã củng cố cơ sở vật chất cho các
nông trang và thủ tiêu tình trạng "Hai chính quyền" về ruộng đất, củng cố
quyền lực các nông trang và phát huy sáng kiến của họ.
Nhìn chung, những biện pháp lớn trong lĩnh vực ruộng đất được tiến hành
từ 1953 đến 1958 gồm có:
- Nâng cao đáng kể giá cả thu mua
- Xóa bỏ nghĩa vụ các năm trớc
- Nâng cao ngân sách nhà nớc
- Xoá bỏ thuế kinh tế phụ và nâng cao 5 lần sai phạm vi của nó.
- Tuyên bố nguyên tắc kế hoạch hoá từ dưới
- Thực hiện chế độ hưu trí cho nơng trang viên
- Cấp hộ chiếu cho nơng dân
- Các nơng trang có quyền thay đổi điều lệ của mình phù hợp với điều
kiện địa phương.
5
Cuối cùng, sau 5 năm đã thực hiện đợc 42 triệu ha đất khai hoang và bỏ
hoang.
Tuy nhiên, từ cuối những năm 50, yếu tố kinh tế như là đòn bẩy của sự phát
triển đã bị thay thế bằng sự cưỡng bức hành chính.
Hai địn nặng nề từ trên giáng xuống kinh tế nơng thơn làm thất bại q
trình sản xuất đang mở rộng là: thứ nhất, các kĩ thuật (trạm máy kéo) không
đưa cho nông trang nữa mà bắt mua với giá cao trong thời hạn ngặt nghèo. Thứ
hai, thay cho sự mở rộng và củng cố kinh tế phụ, người ta bắt đầu tấn cơng nó
(lần thứ ba kể từ khi tập thể hố). Đường lối đó được củng cố trong kì họp
tháng 12 năm 1958 Ban chấp hành Trung ương theo đề nghị của Khơrutsốp.
Khơrutsop kêu gọi nơng dân bán gia súc riêng của mình cho nhà nước hoặc
nông trang, thay vào việc mua của họ các sản phẩm thịt sữa. Bắt đầu cuộc xáo
động mới trong nông dân Liên Xô. Kết quả tới giữa những năm 60 kinh tế phụ
của các gia đình nơng dân trong nhiều vùng đã bị suy giảm tới mức thấp hơn
nửa đầu những năm 50. Chính sách ruộng đất của Liên Xô áp dụng tháng 91953 đã không được tiếp tục, mang tính nửa vời do đó đã bị thất bại (lấy quảng
canh thay cho thâm canh).
Năm 1962, chính phủ quyết định nâng giá thịt lên 1,5 lần để khuyến khích
chăn nuôi. Giá mới không nâng cao được sản lượng thịt mà gây ra sự phẫn nộ
trong các thành phố.
Năm sau tai hoạ ập đến khơng chỉ có thịt, sữa mà cả bánh mì . Những hàng
người xếp dài trước các cửa hiệu bánh mì. Xuất hiện tâm lý chán nản, bất mãn.
Đến lúc đó chính phủ quyết định rút khỏi cuộc khủng hoảng lương thực bằng
việc mua ngũ cốc của Mĩ. Biện pháp tạm thời này không ngờ đã trở thành chính
sách của nhà nước cho đến khi Liên Xơ tan rã.
Kế hoạch 7 năm phát triển kinh tế quốc dân (1959- 1965) trong nơng nghiệp
đã thất bại hồn tồn, thay cho tăng trưởng 70% theo kế hoạch, chỉ đạt có 15%.
Trong cơng nghiệp: Liên Xơ đã trở thành một quốc gia công nghiệp
hùng mạnh. Vẫn như trước đây, chỗ dựa của công nghiệp là sản xuất tư liệu sản
6
xuất, tới những năm 60 đã chiếm 3/4 tổng sản lượng công nghiệp. Đặc biệt là
công nghiệp vật liệu xây dựng, chế tạo máy, luyện kim, hóa chất, dầu khí, điện
năng (tăng 4-5 lần so với nửa đầu những năm 50).
Các xí nghiệp nhóm (B) (trước hết là cơng nghiệp nhẹ, thực phẩm, chế biến
gỗ, giấy) phát triển chậm hơn. Tuy nhiên sản lượng cơng nghiệp nhóm ngành
này cũng tăng hai lần. Nhìn chung tốc độ trung bình sản xuất công nghiệp tăng
10%. Biện pháp chủ yếu để đạt được tốc độ phát triển đó chủ yếu vẫn là mang
tính hành chính mệnh lệnh. Ban lãnh đạo đất nước vẫn tin tưởng vào sự phát
triển của đất nước, trong khi các nhà lãnh đạo kinh tế phương Tây đã có dự
đoán về sự tất yếu "cạn dần" tốc độ phát triển của công nghiệp Liên Xô.
Mặc dù đã thực hiện cơ giới hố nền kinh tế nhưng trình độ khoa học kĩ
thuật của nó bắt đầu lạc hậu. Tỉ lệ công nhân, nông dân lao động thủ công nặng
nhọc, tay nghề thấp chiếm tỉ lệ cao (trong công nghiệp là 40%, trong nông
nghiệp là 75%). Nhiệm vụ này đã được thảo luận tại Hội nghị trung ương tháng
7 năm 1955 về khoa học- kĩ thuật. Sau một số năm, năm 1958 hoá học được
đưa lên thành khâu chủ yếu của cuộc cách mạng khoa học- kĩ thuật.
Tuy nhiên, biểu tượng cho sự tiến bộ khoa học kĩ thuật ở Liên Xô là cuộc
chinh phục vũ trụ. Tháng 10 năm 1957 đã phóng thành cơng vệ tinh nhân tạo
đầu tiên. Tiếp đó là những tên lửa vũ trụ đã đưa động vật lên vũ trụ, đổ bộ
xuống mặt trăng. Và tháng 4 năm 1961, con người đã bước vào vũ trụ, người
đầu tiên của trái đất, công dân Liên Xô: Iuri Gagarin. Sau đó là tên tuổi của G.
Titốp, A. Nicơlaiep, Valentina Terêscôva.
Trong cải cách kinh tế: Cuộc cải cách kinh tế lớn nhất tiến hành vào nửa
sau những năm 50 là cải cách việc điều hành công nghiệp dân sự và xây dựng.
Sự chuyển từ nguyên tắc điều hành theo ngành sang sự điều hành theo lãnh thổ
là chủ yếu, loại bỏ 25 bộ công nghiệp thuộc Liên bang và nước cộng hoà liên
bang, trong cả nước lập 105 khu hành chính kinh tế, giao các xí nghiệp thuộc
bộ cho các hội đồng kinh tế do khu hành chính kinh tế lập ra quản lí. Năm
7
1958, lại cải tổ các trạm máy kéo cơ giới nông nghiệp, bán máy kéo cho các
nông trang tập thể.
Từ sau Đại hội đảng cộng sản Liên Xô năm 1961 cuộc cải cách được đẩy
mạnh một bước. Tiếp tục nêu lên nguyên tắc cải cách cơ chế kinh tế, như mở
rộng quyền hạn của các xí nghiệp, tăng cường kích thích kinh tế, lợi dụng đầy
đủ các địn bẩy kinh tế. Được sự ủng hộ của Khơrutsop, năm 1962, báo "Sự
thật" đã đăng những kiến nghị của nhà kinh tế học Libécman về xí nghiệp thực
hiện nguyên tắc kích thích lợi nhuận. Trong gần hai năm, tồn Liên Xơ đã thảo
luận về việc triển khai cải cách cơ chế kinh tế.
Tuy nhiên, cải cách cũng làm yếu mối liên hệ giữa các nước cộng hồ. Để
khắc phục tình trạng lệch lạc của chủ nghĩa địa phương, thúc đẩy sự tiến bộ kĩ
thuật, Đảng và chính phủ đã dùng địn bẩy hành chính- mở rộng bộ máy điều
hành thành lập nền kinh tế quốc dân các nước cộng hòa, về sau đổi thành Hội
đồng tối cao kinh tế quốc dân. Sự điều hành trở nên cồng kềnh, không cân đối.
Thành công lớn nhất trong lĩnh vực kinh tế dân sự là xây dựng nhà ở. Tốc
độ xây dựng nhà ở trong nửa đầu những năm 60 đạt mức kỉ lục chưa hề biết
đến trước đó cũng như sau này. Việc xây dựng nhà ở được thực hiện bằng biện
pháp công nghiệp, trong một thời gian ngắn đã xây dựng xong hàng triệu km2
nhà ở. Nhiều khu dân cư mới được xây dựng.
Sự thể nghiệm lớn về kinh tế quốc dân cuối những năm 50 là chuyển từ kế
hoạch 5 năm sang kế hoạch 7 năm. Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế quốc dân
thông qua năm 1956 sau một vài năm đã thất bại. Đảng và chính phủ đã vạch ra
kế hoạch 7 năm- 1959 đến 1965, bao gồm 2 năm cuối của kế hoạch 5 năm lần
thứ 6 và 5 năm tiếp theo.
Sự thay đổi mốc kế hoạch đụng chạm tới một số vấn đề như việc khai thác
miền Đông Liên Xô, tạo đà cho sự tiến bộ khoa học kĩ thuật và bổ sung thêm
các kế hoạch kinh tế quốc dân cho các nước thuộc Hội đồng tương trợ kinh tế.
8
Trong 7 năm, công nghiệp Liên Xô tăng lên gần gấp đôi (84% so với kế
hoạch là 80%). Tuy nhiên, các xí nghiệp nhóm (B) vẫn khơng hồn thành kế
hoạch.
1.2.2.Những thành tựu giai đoạn từ 1965 đến nửa đầu những năm 70.
Tháng 10 năm 1964, Khơrutsop bị phê phán là "ý chí luận", "chủ quan chủ
nghĩa" nên bị lật đổ bằng cuộc đảo chính khơng đổ máu. Trong tháng đó, các
chức vụ lãnh đạo được phân cơng như sau: Bí thư thứ nhất là Brêgiơnhép, Chủ
tịch hội đồng bộ trưởng là Cơxưgin. Chủ tịch đồn chủ tịch Xơ viết tối cao
Micôian (từ năm 1965 chuyển sang Pốtgoocnưi). Từ đây chức vụ lãnh đạo
Đảng và chính phủ khơng tập trung vào một người như trước đây.
Từ cuối năm 1964, ban lãnh đạo đất nước lại quyết định khuyến khích lợi
ích vật chất như đòn bẩy sản xuất xã hội bắt đầu từ nông thôn và nông nghiệp.
Đường lối này được thông qua tại hội nghị Ban chấp hành trung ương tháng 3
và tháng 9 năm 1965. Nghị quyết đó đi vào lịch sử là "cuộc cải cách kinh tế
1965".
Hội nghị tháng 3 đã vạch ra các biện pháp về nông nghiệp như: nâng cao
giá thu mua nông sản, thiết lập sự thu mua ổn định theo kế hoạch của nhà nước
trong 6 năm (1965- 1970), thực hiện phụ cấp 50% cho sản lượng ngồi kế
hoạch, tăng cường đầu tư vào nơng thơn, trước hết là xây dựng các trạm máy
móc nơng nghiệp, xây dựng các điều lệ hợp tác xã nông nghiệp (ác ten). Nhờ
tất cả các biện pháp đó sản xuất nông nghiệp đã được đẩy mạnh, sự gay cấn về
lương thực bước đầu đã được giải quyết.
Hội nghị tháng 9 vạch ra sự cải cách về điều hành công nghiệp: trở lại quản
lí theo vùng, đưa các xí nghiệp vào hạch toán kinh tế (tự quản, tự mua, tự trang
trải tài chính); kết hợp tính sáng tạo của nhà nước với sáng kiến địa phương.
Tháng 10 năm 1965 Xô viết tối cao Liên Xô thông qua đạo luật thành lập các
bộ liên bang và cộng hoà liên bang trong lĩnh vực công nghiệp, loại bỏ các uỷ
ban kinh tế quốc dân.
9
Cải cách dự kiến giảm đáng kể số lượng các chỉ tiêu kế hoạch do các bộ
vạch ra cho các xí nghiệp. Các chỉ tiêu chủ yếu cần đạt được là: Khối lượng sản
phẩm thực tế, lợi nhuận sản xuất, tổng số lợi nhuận. Để khuyến khích kinh tế
các xí nghiệp đối với lợi nhuận, Nhà nước cho phép thành lập quỹ khuyến
khích. Nó có thể được dùng vào phát triển sản xuất, giúp đỡ vật chất cho công
nhân viên chức, nhu cầu văn hoá xã hội và xây dựng nhà ở.
Giải quyết vấn đề về nhà ở từ chỗ do nhà nước đảm nhiệm nay chuyển một
phần sang cho các bộ chủ quản.
Cải cách kinh tế 1965 được thực hiện thành công trong những năm kế
hoạch 5 năm lần thứ 8 (1965- 1970). Tổng sản lượng công nghiệp tăng 56%.
Đã xây dựng được khoảng 1900 xí nghiệp lớn, trong đó có nhà máy ơ tơ
Tơliachi. Năm 1970 nhà máy bắt đầu cho ra xưởng những chiếc Riguli đầu tiên.
Sản xuất nông nghiệp tăng 21%.
Tháng 11 năm 1969 ở Matxcơva đã diễn ra Đại hội lần thứ 3 các nông trang
viên Liên Xô. Đại hội đã thông qua Điều lệ mới của các nông trang (thay cho
Điều lệ năm 1935). Điều lệ mới duy trì quyền có kinh tế phụ, thực hiện trả tiền
bảo hiểm và lương hưu cho các nông trang viên.
Trong những năm 70, tốc độ tăng trưởng kinh tế lại bắt đầu suy giảm, dẫn
đến cuộc khủng hoảng kinh tế sâu sắc. Cải cách 1965 đã ngừng thực hiện, mặc
dù chưa được bao lâu giờ tuyên bố loại bỏ.
Nơng nghiệp lại đưa xuống hàng thứ hai, cịn trong các lĩnh vực cơng
nghiệp, sự áp đặt hành chính từ trên xuống các xí nghiệp ngày một tăng. Các
Bộ nắm tất cả các quyền của xí nghiệp, chấm dứt sự tự quản của họ.
Tiếp đó, cán bộ vẫn như cũ, thậm chí chính người chủ xưởng của cải cách
là Cơxưgin, đứng đầu chính phủ cũng thiếu quan tâm tới nó. Cuối cùng, những
sự kiện ở Tiệp Khắc năm 1968- 1969 đã tăng cường phái bảo thủ trong Ban
lãnh đạo Xô viết. Cải cách kinh tế không được củng cố bằng cải cách hệ thống
chính trị nên đã bị thất bại.
10
Tóm lại, trong hơn hai thập niên kể từ năm 1950, mặc dù cịn có những sai
lầm và thiếu sót, Liên Xô đã thu được những thành tựu phát triển to lớn trở
thành cường quốc công nghiệp đứng thứ hai trên thế giới (sau Mĩ), chiếm
khoảng 20% tổng sản lượng công nghiệp thế giới.
Từ 1951- 1975, tốc độ tăng trưởng của cơng nghiệp Xơ viết hàng năm bình
qn đạt 9,6%. Tới năm 1970, sản lượng một số ngành công nghiệp quan trọng
là: điện lực đạt 740 tỉ kilơốt giờ (gấp 352 lần năm 1913, bằng sản lượng điện
của 4 nước lớn Anh, Pháp, Tây Đức, Italia cộng lại), dầu mỏ đạt 353 triệu tấn,
than đạt 624 triệu tấn, và thép (năm 1971) đạt 121 triệu tấn, lần đầu tiên vượt
Mĩ.
Tuy gặp khơng ít khó khăn và phức tạp, sản lượng nơng nghiệp đã có
chuyển biến và thu được nhiều thành tích nổi bật. Sản lượng nơng phẩm trong
những năm 60 tăng trung bình hàng năm khoảng 16%. Năm 1970, sản lượng
nông nghiệp Liên Xô đạt được sản lượng và năng suất ngũ cốc chưa từng có
trong lịch sử đất nước với 186 triệu tấn ngũ cốc và năng suất trung bình 15,6 tạ
một hécta.
Trong lĩnh vực khoa học- kĩ thuật, Liên Xơ cũng thu nhiều thành tích
rực rỡ, chiếm nhiều đỉnh cao của khoa học- kĩ thuật thế giới ở các lĩnh vực vật
lí, hố học, điện tử, điều khiển học, khoa học vũ trụ... Năm 1957, Liên Xô là
nước đầu tiên phóng thành cơng vệ tinh nhân tạo của trái đất; năm 1961, phóng
con tàu vũ trụ "Phương Đơng" đưa nhà du hành vũ trụ đầu tiên Yu.Gagarin, bay
vòng quanh trái đất, mở đầu kỉ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người và
cũng là nước dẫn đầu thế giới về những chuyến bay dài ngày trong vũ trụ. Đây
là niềm tự hào của nhân dân Liên Xô cũng như của nhân dân các nước xã hội
chủ nghĩa anh em. Liên Xô trở thành cường quốc công nghiệp thứ hai trên thế
giới (sau Mĩ)
Sau chiến tranh, Liên Xô trở thành nước xã hội chủ nghĩa lớn nhất, hùng
mạnh nhất, Liên Xơ trở thành thành trì của hồ bình thế giới và chỗ dựa của
phong trào cách mạng thế giới
11
Trên lĩnh vực xã hội, Liên Xơ có những thay đổi, tiến bộ. Năm 1971,
công nhân chiếm hơn 55% số người lao động trong cả nước, cứ 1000 cơng nhân
thì có hơn 550 người có trình độ đại học và trung học. Hơn 1/2 số người ở nơng
thơn có trình độ đại học và trung học. Liên Xô là nước đứng hàng đầu thế giới
về trình độ học vấn của nhân dân với gần 3/4 số dân có trình độ đại học và
trung học, trên 30 triệu người làm việc trí óc. Đời sống của nhân dân Liên Xơ
được nâng lên rõ rệt so với thời kì trước.
2.Những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, xã hội
Những năm đầu sau chiến tranh, tư tưởng chiếm vị trí đặc biệt. Điều đó
được lí giải là trong q trình chiến tranh và sau đó, trí thức, trước hết là đội
ngũ cán bộ khoa học, nghệ thuật mong muốn tự do hóa.
Tuy nhiên tình hình quốc tế sau chiến tranh đã thay đổi. Chiến tranh lạnh
bắt đầu. Năm 1946 và 1948 đã thông qua một số chỉ thị về cơng tác văn hố của
Trung ương Đảng. Bắt đầu từ Lêningrat. Trong chỉ thị tháng 3 năm 1946: "Về
các tạp chí "Ngơi sao" và "Lêningrat" đã phê phán quyết liệt M.Dôsencô và
A.Akhơmatôvôi, bị buộc tội chống lại chế độ Xơ viết.
Ngồi Akhơmatơvơi và Dơsencơ, nhiều nhà văn, đạo diễn điện ảnh và nhạc
sĩ cũng bị phê phán như V. Murađeli, A.Phanchênốp, D.Beđơnưi, E.
Cadakêvich, G.Côdinseps...
Cuộc đấu tranh cho tư tưởng cộng sản chủ nghĩa trong nền nền văn hoá diễn
ra trong năm 1949 với chiến dịch chống lại sự "bợ đỡ" thấp hèn phương Tây.
Tín hiệu cho chiến dịch đó là bài xã luận trong báo "Sự thật" tháng 2 năm 1949
với tiêu đề "Về một nhóm chống Đảng của các nhà phê bình Xơ viết".
I.Iudôpxki, nhà nghiên cứu của Goocki, A. Gurơvich, nhà nghiên cứu về N.
Pôgôđin đã bị buộc tội theo chủ nghĩa dân tộc tư sản và hoạt đầu chính trị.
Trong những năm sau chiến tranh, trong xã hội Xơ viết, ngồi đường lối
tăng cường đề cao vai trò của nhà nước như đã nêu trên còn diễn ra mét xu
hướng tăng cường dân chủ hố hệ thống chính trị. Mùa xn năm 1945 ngay
sau chiến tranh Châu Âu kết thúc, Đảng và chính phủ đã tiến hành các biện
12
pháp để chấm dứt tình trạng khẩn cấp, loại bỏ uỷ ban quốc phịng nhà nước, cơ
quan chính quyền nằm ngoài hiến pháp do hoàn cảnh chiến tranh bắt buộc.
Trong những năm 1946- 1948 đã diễn ra cuộc bầu cử vào Xô viết các cấp và
đổi mới hệ thống đại biểu nhân dân hình thành từ những năm 1937- 1939. Kì
họp đầu tiên của Xơ viết tối cao Liên Xơ khố mới, khố 2 vào tháng 3 năm
1946 đã thơng qua kế hoạch 5 năm lần thứ IV, đạo luật về cải tổ hội đồng các
uỷ viên nhân dân thành hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, đồng ý cho Calinin rút
khỏi chức vụ Chủ tịch đồn chủ tịch Xơ viết tối cao do bị bệnh. N.M.Svecnhic
được cử giữ chức vụ này. Cuối cùng, trong những năm 1949 đến 1952 đã tiến
hành khôi phục lại sau một thời gian gián đoạn lâu dài Đại hội các tổ chức
chính trị xã hội ở Liên Xô. Chẳng hạn, năm 1949 đã diễn ra đại hội lần thứ X
các Cơng đồn Liên Xơ và Đại hội lần thứ XI Đoàn thanh niên cộng sản Liên
Xô (sau 17 và 13 năm gián đoạn). Năm 1952 đã diễn ra Đại hội lần thứ XIX
của Đảng, Đại hội cuối cùng có Xtalin tham dự. Đại hội đã quyết định đổi tên
Đảng cộng sản toàn Nga thành Đảng cộng sản Liên Xô.
Sau Đại hội lần thứ XIX của Đảng không lâu, ngày 5-3- 1953 Xtalin qua
đời.
Ban lãnh đạo đất nước gồm có: Đứng đầu nhà nước là Malencốp, Bộ trưởng
quốc phịng là ngun sối Bunganin, Bộ trưởng nội vụ và an ninh là nguyên
soái Bêria, chức vụ lãnh đạo Đảng cịn để trống. Chính quyền thực tế nằm trong
tay Malencốp và Bêria. Không lâu sau Bêria bị bắt và bị xử tử vào tháng 12
năm 1953 với tội danh đã tổ chức "đàn áp tập thể" dưới thời Xtalin và có âm
mưu đảo chính sau khi Xtalin qua đời.
Tiếp sau đó là Đại hội Đảng lần thứ XX và XXII của đảng cộng sản Liên
Xô là những sự kiện quan trọng nhất trong những năm 50. Đại hội lần thứ XX
của Đảng tiến hành vào tháng 2 năm 1956. Đại hội đã tổng kết kết quả việc
thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 5, thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ 6, thực
hiện nhiệm vụ đuổi kịp và vượt các nước tư bản phát triển trong thời hạn lịch
sử ngắn nhất. Trong phiên họp cuối cùng kết thúc Đại hội, Khơrutsôp đã đọc
13
báo cáo (khơng nằm trong chương trình nghị sự) về "tệ sùng bái cá nhân và hệ
quả của nó". Báo cáo đã dẫn ra nhiều sự kiện "đàn áp, khủng bố" dưới thời
Xtalin. Báo cáo đó đã mở đầu cho sự chia rẽ to lớn trong phong trào cộng sản
quốc tế. Một số Đảng cộng sản gọi là "Chủ nghĩa xét lại".
Báo cáo đó được giữ bí mật ở Liên xô trong 33 năm (lần đầu tiên công bố
năm 1989- ở Mĩ công bố hè năm 1956). Đại hội lần thứ XX cũng mở đầu cho
quá trình "minh oan" rộng lớn cho những người bị kết tội trong những năm 30
và 50 và một số dân tộc thiểu số (Chêchen, Ingusli,...).
Năm 1964, chính phủ đã tun bố xố bỏ lệnh của Đồn chủ tịch xơ viết tối
cao ngày 28-8-1941 trong quan hệ với người Xô viết gốc Đức bị buộc tội hợp
tác với bọn chiếm đóng. Đến năm 1968 lời buộc tội như vậy đối với người
Tacta Crưm cũng được loại bỏ. Cuối những năm 60 quá trình minh oan đã
chấm dứt.
Mùa hè năm 1957, Ban lãnh đạo Đảng và Chính phủ nhận thấy Khơrutsơp
đã đi q xa trong việc phê phán Xtalin, làm giảm uy tín của Liên Xơ và Đảng
cộng sản Liên Xô trên trường quốc tế. Nguyên sối Vơrơisilơp (đứng đầu nhà
nước), ngun sối Bunganin (đứng đầu chính phủ) cũng như Mơlơtơp,
Malencơp... tạo nên đa số trong Đồn chủ tịch Ban chấp hành Trung ương đã
thơng qua nghị quyết loại Khơrutsoop khỏi chức vị Bí thư thứ nhất ban chấp
hành Trung ương.
Khơrutsoop không tán thành. ủng hộ Khơrutsoop có một số thành viên
trong Đồn chủ tịch Ban chấp hành Trung ương, những người lãnh đạo thuộc
cơ quan "quyền lực"- Bộ trưởng quốc phịng Grucơp, Chủ tịch Uỷ ban an ninh
(KGB) Xêrôp. Những người chống đối Khơrutsôp dần dần bị thay thế hoặc
chuyển đổi công tác.
Kết quả, năm 1958 Khơrutsoop đồng thời giữ chức vụ Bí thư thứ nhất Ban
chấp hành Trung ương kiêm chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên xô.
14
Năm 1956, Đại hội lần thứ XX của Đảng cộng sản Liên Xô đã giao cho Ban
chấp hành Trung ương dự thảo đề án cương lĩnh mới của Đảng- Cương lĩnh xây
dựng chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô.
Ngay từ trước chiến tranh đã thành lập uỷ ban dự thảo cương lĩnh của
Đảng. Sau chiến tranh, uỷ ban bắt đầu công việc, chuẩn bị một số dự án nhưng
không được tiến hành đến cùng dưới thời Xtalin. Năm 1956, Khơrutxốp lãnh
đạo uỷ ban mới và mùa thu 1961 dự thảo cương lĩnh đã được cơng bố để tồn
dân thảo luận.
Tháng 10 năm 1961, tại Đại hội Đảng XXII Đảng Cộng sản Liên Xô, cương
lĩnh mới đã được thông qua. Xuất phát từ chỗ cho rằng chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xơ đã thắng lợi “hồn tồn và chắc chắn”, và đất nước đã vào giai đoạn “xây
dựng chủ nghĩa cộng sản”, Đại hội đã xem xét cương lĩnh mới như một sự khái
quát triết học, kinh tế học, chính trị học công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản
ở Liên Xô.
Để xây dựng chủ nghĩa cộng sản về cương lĩnh đã dự kiến giải quyết 3 vấn
đề: trong lĩnh vực kinh tế - xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa
cộng sản (đứng đầu thế giới về sản phẩm theo đầu người, đạt được năng suất
lao động cao nhất thế giới, bảo đảm mức sống cao nhất thế giới cho nhân dân);
trong lĩnh vực chính trị xã hội- tiến tới tự quản cộng sản chủ nghĩa; trong lĩnh
vực tư tưởng tinh thần- giáo dục con người mới, phát triển toàn diện. Khung
thời gian để hiện thực hóa cương lĩnh dự kiến khoảng 15 đến 20 năm.
Thực ra cho đến lúc tan rã, ở Liên Xô vẫn chưa xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội, còn nhận định “đã thắng lợi hoàn toàn và chắc chắn”, và đất nước
đã “bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa cộng sản” là “đốt cháy” giai đoạn,
không thực tế và không khoa học.
Kết quả, Cương lĩnh “Xây dựng chủ nghĩa cộng sản trong vịng 15- 20
năm” đã khơng thực hiện được, và đó là một trong những sai lầm quan trọng về
đường lối của Khơrutsơp trong thời kì ơng lãnh đạo Đảng và nhà nước Xô Viết.
15
3. Những hạn chế trong qúa trình khơi phục và xây dựng chủ nghĩa xã hội
của nhân dân Liên Xô.
Bên cạnh những thành tựu và tiến bộ, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xơ thời kì này đã phạm phải những sai lầm thiếu sót. Đó là tư tưởng
chủ quan nóng vội và "đốt cháy"giai đoạn. Như đề ra kế hoạch "xây dựng chủ
nghĩa cộng sản trong vòng 15- 20 năm" hoặc những khẳng định vội vã "chủ
nghĩa xã hội thắng hoàn toàn và triệt để ở Liên Xô” (1959), "Liên xô đã xây
dựng được chủ nghĩa xã hội phát triển" (1971), hoặc vẫn duy trì nhà nước tập
trung, quan liêu và bao cấp vốn đã có những khuyết tật thiếu sót, khơng tơn
trọng đầy đủ những quy luật khách quan về kinh tế, trong công nghiệp thiếu sự
phát triển cân đối, hài hồ giữa cơng nghiệp nặng và cơng nghiệp nhẹ, kéo dài
tình trạng coi sản xuất hàng tiêu dùng là thứ yếu và chất lượng thấp, hình thức
kém của nhiều loại hàng hố; tình trạng thiếu dân chủ, chưa công bằng và vi
phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy thế lúc này, những thiếu sót sai lầm đó
chưa dẫn tới trì trệ và khủng hoảng, nhân dân Xô viết vẫn hăng hái, tin tưởng
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xã hội Xô viết vẫn ổn định và phát
triển.
16
CHƯƠNG II. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VÀ MỐI QUAN HỆ HỢP TÁC
CỦA LIÊN XÔ ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA .
Về đối ngoại, Đảng và Nhà nước Xô viết đã thực hiện chính sách nhằm mục
tiêu chủ yếu và phương hướng cơ bản là: Đảm bảo những điều kiện thuận lợi
cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, loại trừ nguy cơ chiến tranh, duy trì
hồ bình và an ninh chung; mở rộng việc hợp tác với các nước xã hội chủ
nghĩa; góp phần củng cố và thúc đẩy sự tiến bộ của hệ thống xã hội chủ nghĩa,
phát triển quan hệ hữu nghị, bình đẳng với các nước mới được giải phóng; duy
trì và phát triển quan hệ với các nước tư bản chủ nghĩa trên cơ sở chung sống
hồ bình, hợp tác thiết thực, cùng có lợi; đồn kết quốc tế với các Đảng cộng
sản và các đảng dân chủ cách mạng, với phong trào cơng nhân quốc tế và
phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc.
Những mục tiêu, phương hướng trên được thực hiện thông qua những hành
động thực tiễn, những biện pháp cụ thể. Với các hiệp ước đoàn kết, hữu nghị và
hợp tác, Liên Xơ đã giúp đỡ tích cực và to lớn về vật chất cũng nh tinh thần cho
các nước xã hội chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Liên xô cũng đi đầu trong việc ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân các dân tộc.
Liên xô đấu tranh không mệt mỏi cho nền hồ bình và an ninh thế giới, kiên
quyết chống lại chính sách gây chiến xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực phản động quốc tế.
Là trung tâm, là chỗ dựa của phong trào cách mạng thế giới, Liên Xơ đã
đóng vai trị hết sức quan trọng trong quan hệ quốc tế. 1949, Liên Xô cùng các
nước Đông Âu đã thành lập khối Cộng đồng kinh tế gọi là khối SEV “Hội đồng
tương trợ kinh tế” nhằm giúp đỡ các nước Đơng Âu thốt khỏi sự lệ thuộc vào
Mĩ. Tháng 5 năm 1955, Liên Xô cùng các nước Đông âu thành lập tổ chức
“Hiệp ước Vacxava” trở thành lá chắn bảo vệ độc lập chủ quyền cho Liên Xô
và các nước Đông âu. Đây là tổ chức đối trọng với khối NATO của Chủ nghĩa
17
đế quốc. Liên Xô đã giúp đỡ to lớn cho các nước Đông Âu xây dựng chủ nghĩa
xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng, làm thất bại các cuộc phiến loạn, bạo loạn
ở các nước Đông Âu nh: Hungari 1956, Tiệp Khắc 1968…
Đối với phong trào giải phóng dân tộc, Liên Xô là chỗ dựa vững chắc về
tinh thần và lực lượng, nguồn động viên to lớn. Đối với phong trào hồ bình thế
giới thì Liên Xơ là một thành trì vững chắc đã làm thất bại âm mưu gây chiến
của chủ nghĩa đế quốc. Đặc biệt là sự kiện ở Cuba năm 1962.
Có thể nói sau chiến tranh Triều Tiên thì cuộc khủng hoảng ở Caribê là
nguy hiểm nhất. Năm 1962, Liên Xơ và Cuba kí hiệp định theo đó thì Liên Xơ
đã xây dựng các căn cứ tên lửa ở Cuba, điều đó đáp ứng được lợi Ých chiến
lược của cả Liên Xơ và Cuba. Sau đó, tình báo Mĩ đã phát hiện và kiên quyết
phản ứng quyết định phong toả Cuba bằng cả đường không và đường biển. Lực
lượng vũ trang của Mĩ và NATO đã đặt trong tình trạng chiến đấu. Liên Xơ
cũng đã kí với Cuba một hiệp ước hữu ước hữu nghị và hợp tác vì vậy lực
lượng vũ trang của Liên Xơ và khối VACXAVA cũng được huy động để chống
trả lại. Liên Xô cũng đã kiên quyết đấu tranh để bảo vệ Cuba và cuối cùng đi
đến thỏa hiệp giữa Tổng thống Mĩ Kenơdy và Khơrutsốp là Liên Xô sẽ rút hết
tên lửa ra khái Cuba và đổi lại là Mĩ chấm dứt phong tỏa Cuba.
Quan hệ với Trung Quốc: sau khi nước cộng hoà Dân chủ Nhân dân Trung
Hoa ra đời tháng 10 năm 1949, quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc hết sức
tốt đẹp. Liên Xơ đã kí với Trung Quốc một hiệp ước hữu nghị hiệp tác năm
1950 để giúp đỡ và viện trợ cho Trung Quốc khôi phục kinh tế và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Quan hệ của Liên Xơ và Trung Quốc thời kì này đã làm cho sức
mạnh của chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới là ở thế áp đảo so
với chủ nghĩa đế quốc và phản động quốc tế. Đây cũng là nguyên nhân cơ bản
đảm bảo thắng lợi của Triều Tiên trong chiến tranh Mĩ- Triều Tiên từ 19501953. Tuy nhiên quan hệ Xô- Trung xấu đi từ sau Đại hội lần thứ 20, Liên Xô
bắt đầu rút hết chuyên gia về nước, cắt đứt viện trợ và từ bất đồng chuyển sang
mâu thuẫn và đi đến thù địch. Báo chí và các phương tiện thơng tin đại chúng
18