MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................2
1.
LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI...................................................................................................2
2.
MỤC TIÊU ĐỀ TÀI..................................................................................................................3
3.
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU...............................................................................3
4.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................................................................................3
5.
KẾT CẤU ĐỀ TÀI....................................................................................................................3
NỘI DUNG............................................................................................................................................5
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN, SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN ÁI
QUỐC (1911 – 1930).........................................................................................................................5
1.
Cơ sở lý luận..........................................................................................................................5
2.
Sơ lược quá trình hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc...........................................7
(1911 – 1930)..................................................................................................................................7
CHƯƠNG II VAI TRỊ TÌM RA CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC ĐÚNG ĐẮN CHO DÂN TỘC. .9
1.
Quá trình hoạt động bắt gặp tới chủ nghĩa Mác – Lênin...................................................9
2.
Tại sao Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vơ sản.....................................12
CHƯƠNG III: Q TRÌNH CHUẨN BỊ VỀ MỌI MẶT CHO SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG......14
1.
Sự sáng tạo trong truyền bá chính trị, tư tưởng vào Việt Nam........................................14
2. Người không chỉ truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào phong trào cơng nhân mà cịn
truyền bá vào phong trào yêu nước............................................................................................17
3. Sự sáng tạo trong phương pháp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc..............................................................................................................23
CHƯƠNG IV NGUYỄN ÁI QUỐC TRIỆU TẬP VÀ CHỦ TRÌ HỘI NGHỊ THÀNH LẬP
ĐẢNG...............................................................................................................................................26
1. Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.....................................26
2. Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành cơng hội nghị hợp nhất........................................................29
CHƯƠNG V NGUYỄN ÁI QUỐC SOẠN THẢO VÀ THÔNG QUA CƯƠNG LĨNH CHÍNH
TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG.........................................................................................................32
1.
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên..........................................................32
2.
Sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên...........................33
3. Ý nghĩa và giá trị thực tiễn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên...........................................35
KẾT LUẬN:.........................................................................................................................................38
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................................40
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách
mạng Việt Nam: chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước của
các phong trào yêu nước Việt Nam từ khi thực dân Pháp xâm lược đếm
những năm 20 của thế kỷ XX. Đảng ta đã trải qua 91 năm thành lập, xây
dựng và phát triển. Khẳng định sự cầm quyền lãnh đạo xuất sắc cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Khẳng định nhân tố quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, từng bước hiện thực hóa “chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ đại cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”.
Sự ra đời của Đảng gắn liền với công lao và tên tuổi của lãnh tụ thiên tài danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Ái Quốc. Trải qua 19 năm kể từ khi bước
lên con tàu đưa Người thâm nhập vào “nguồn gốc của Chủ nghĩa tư bản” và
tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lênin – con đường giải phóng dân tộc Việt
Nam. Với vai trị khơng chỉ là một người yêu nước mà còn là một người
chiến sĩ cộng sản kiên trung, Người đã từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính
trị, tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng Cương lĩnh,
Chánh cương phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Là người đào tạo,
huấn luyện những cán bộ cốt cán của Đảng đoàn kết, thống nhất, “chèo lái
con thuyền cách mạng Việt Nam” thắng lợi.
Vấn đề nghiên cứu “Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong cuộc vận động
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1920 – 1930)” nhằm tìm hiểu về quá
2
trình tìm ra chân lý cách mạng của Bác, sự chuẩn bị mọi mặt cho sáng lập
Đảng mà còn là những sáng tạo sáng suốt của Người đối với sự ra đời và xây
dựng Đảng kiểu mới hoàn toàn phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Đó cịn là những bài học quý báu mà toàn Đảng, toàn dân ta luôn phải học tập
và làm theo tấm gương của Người.
Với lý do đó nhóm 5 lựa chọn nghiên cứu về vấn đề “Vai trò của Nguyễn
Ái Quốc trong cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1920 –
1930)”.
2. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI
Phân tích về các vai trị của Nguyễn Ái Quốc trong tìm kiếm và chuẩn bị
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó, có những đánh giá, nhận
xét về con đường cách mạng trong giai đoạn này của Người.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong cuộc vận động
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Thân thế sự nghiệp, con đường cách mạng của
Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn từ 1911 – 1930.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp lơgíc.
5. KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Đề tài gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận
Phần nội dung gồm 5 chương, 13 tiết
3
Chương I: Cơ sở lý luận, sơ lược quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc (1911
– 1930)
Chương II: Vai trị tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
Chương III: Quá trình chuẩn bị về mọi mặt cho sự ra đời của đảng.
Chương IV: Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì hội nghị thành lập Đảng
Chương V: Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN, SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG
CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC (1911 – 1930)
1. Cơ sở lý luận
1.1 Khái niệm
Chủ nghĩa Mác – Lênin Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ thống quan điểm và
học thuyết khoa học của C. Mác, Ph. Ăngghen và sự phát triển của V.I. Lênin;
là sự kế thừa và phát triển những giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ
sở thực tiễn của thời đại; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vơ sản,
giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người; là thế giới quan và
phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Đảng Cộng sản là chính đảng theo chủ nghĩa cộng sản. Đảng cộng sản là
sự kết hợp của chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân. Là đội tiên
phong của giai cấp cơng nhân, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động.
Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng vơ sản tại Việt Nam. Là kết quả
của phong trào công nhân, phong trào yêu nước với nền tảng chủ nghĩa Mác –
Lênin.
Vai trò là khái niệm một phân vai mà một chủ thể nào đó được đóng vai
trong một hồn cảnh cụ thể.
Theo suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, Người đã
cơng hiến cả cuộc đời của mình cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Vai trò
5
trong cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là vai trò đầu tiên
của Người trên con đường thành cơng của cách mạng Việt Nam.
Vai trị của chủ thể trong vấn đề nghiên cứu là Nguyễn Ái Quốc được
phân vai cụ thể trong hoàn cảnh những hoạt động của chủ thể trong gia đoạn
từ năm 1920 – 1930 của thế kỷ XX. Trong vấn đề vai trò của Nguyễn Ái
Quốc có liên quan và tác động tới một chủ thể nữa là Đảng Cộng sản Việt
Nam trong đặc điểm sự thành lập của tổ chức trên.
1.2
Cơ sở thực tiễn
Tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XIX đến đầu những năm 20 của thế kỷ
XX, đang chìm trong sự thống trị của thực dân Pháp. Các phong trào cứu
nước theo nhiều khuynh hướng đều thất bại. Việt Nam rơi vào tình trạng
khủng hoảng về đường lối cách mạng. Các phong trào có thể kể đến: sự nổ ra
của các cuộc khởi nghĩa hưởng ứng phong trào Cần Vương theo khuynh
hướng phong kiến, khuynh hướng dân chủ tư sản của Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, khuynh hướng dân chủ tư sản nổi lên hoạt động của Việt Nam
Quốc dân Đảng… Các phong trào đều chưa thể hiện được tính ưu việt của
mình với thực tiễn cách mạng Việt Nam, kết quả nhiều phong trào bị thực
dân Pháp đàn áp đẫm máu và đi đến thất bại. Sự bế tắc nặng nề và đòi hỏi
con đường cách mạng phù hợp, chân chính giải quyết được tình hình dân tộc
ta lúc bấy giờ.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời muộn, sau cuộc khai thác thuộc đại
lần thứ nhất (1897 – 1914). Họ là những cơng nhân tại các xí nghiệp, hầm
mỏ, đồn điền của Pháp. Công nhân Việt Nam ra đời trong hồn cảnh nước
mất nên tuy số lượng ít nhưng có tinh thần yêu nước, đấu tranh kiên cường.
6
Giai cấp cơng nhân Việt Nam có quan hệ mật thiết với giai cấp nơng dân nên
dễ hình thành liên minh giai cấp – liên minh công nông. Công nhân Việt
Nam không ra đời trong nền đại công nghiệp, chịu sự bóc lột của ba tầng áp
bức là: thực dân Pháp, phong kiến và tư sản. Họ vẫn đang đắm chìm trong sự
áp bức bóc lột khổ cực, chưa thực sự nắm bắt được vận mệnh cách mạng của
mình. Các cuộc đấu tranh của cơng nhân giai đoạn này cịn rất lẻ tẻ, chưa có
sự thống nhất và mang tính tự phát. Địi hỏi thực tiễn lịch sử cần có một tổ
chức đứng ra lãnh đạo, tập hợp đông đảo cơng nhân đấu tranh – đó chính là
chính đảng vơ sản.
2. Sơ lược quá trình hoạt động cách mạng của
Nguyễn Ái Quốc
(1911 – 1930)
Nguyễn Ái Quốc (19/5/1890 – 2/9/1969) tên khai sinh
là Nguyễn Sinh Cung. Người sinh ra tại quê ngoại làng
Hoàng Trù (làng Chùa), xã Kim Liên, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh ra và lớn lên trong một nhà
nho yêu nước, ở một quê hương có truyền thống đấu
tranh cách mạng. Dưới ách thống trị của Thực dân
Pháp, mâu thuẫn trong xã hội ngày càng sâu sắc trong đó chủ yếu là mâu thuẫn
giữa tồn thể dân tộc Việt Nam với Thực dân Pháp và phọn phản động tay sai.
Tình hình Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX đang khủng hoảng về đường lối
cứu nước, các khuynh hướng cứu nước đều thất bại và đi vào bế tắc. Với tinh
thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, Người đã
7
bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước
lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước.
Ngày 5/6/1911, Người ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đi đến nước
Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người vừa lao động
kiếm sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu các học thuyết cách
mạng. Giữa năm 1920, Người đọc “Sơ thảo luận cương lần thứ nhất về vấn về
thuộc địa của Lênin” Người đã hoàn toàn tin theo con đường cách mạng vô sản.
Tháng 12/1920, Người tham dự Đại hội XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở Tua,
Người đã tán thành sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một đảng viên
Cộng sản.
Từ năm 1921 – 1929, Nguyễn Ái Quốc hoạt động tại Pháp (1921 – 1923),
Liên Xô (1923 – 1924), Trung Quốc (1924 – 1927) để chuẩn bị về tư tưởng,
chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 2/1930, chủ
trì Hội nghị hợp nhất sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách
mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về
đường lối lãnh đạo cách mạng. Là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có ý nghĩa quyết
định cho những bước phát trển tiếp theo của lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là
nhân tố hang đầu đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
8
CHƯƠNG II VAI TRỊ TÌM RA CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC ĐÚNG ĐẮN
CHO DÂN TỘC
1. Quá trình hoạt động bắt gặp tới chủ nghĩa Mác – Lênin
1.1 Quá trình ra đi tìm đường cứu nước (1911 – 1920)
Ngày 5/6/1911, với tên gọi là Văn Ba, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành trên con tàu Latouche Treville của Pháp rời bến cảng Nhà Rồng sang phương
Tây tìm đường cứu nước.
Từ năm 1911 – 1917, Người đã đi qua nhiều nước Châu Âu, Châu Phi, Châu
Mỹ, nhất là 3 nước tư bản phát triển (Anh, Pháp, Mĩ). Người làm nhiều nghề để
sống, để đi, để tìm hiểu, tiếp xúc với nhiều người. Ngày 6-7-1911, Nguyễn Tất
Thành đến cảng Mácxây, thấy nhiều phụ nữ nghèo khổ. Nguyễn Tất Thành nói với
người bạn “Tại sao người Pháp khơng “khai hóa” đồng bào của họ trước khi đi “khai
hóa” chúng ta?”. Làm thuê trên chiếc tàu đi vịng quanh châu Phi, tận mắt trơng thấy
những cảnh khổ cực, chết chóc của người da đen dưới roi vọt của bọn thực dân,
Nguyễn Tất Thành nghĩ: Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da
vàng hay da đen cũng không đáng một xu. Giữa tháng 12-1912, Nguyễn Tất Thành
tới nước Mỹ, Người dành một phần thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn
thời gian dành cho học tập, nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776. Khi thăm
pho tượng Thần Tự do, Nguyễn Tất Thành không để ý đến ánh hào quang quanh đầu
tượng mà xúc động trước cảnh những nô lệ da đen dưới chân tượng. Cuối năm 1913,
Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh. Trên cơ sở đó, Người rút ra một kết luận có tính
chất tảng đầu tiên trên chặng đường tìm đường cứu nước của mình: ở đâu bọn đế
quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp
9
bức nặng nề và “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống
người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ một mối tình hữu ái là thật mà
thơi: tình hữu ái vơ sản”. Những nhận biết căn bản đó càng càng giục giã người
quyết tâm tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc.
Tàu Latouche Treville đưa Nguyễn Tất Thành bắt đầu con đường cứu nước”
Năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp, tham gia vào Hội Người Việt
Nam yêu nước ở Pari. Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp năm 1919, vì đây là tổ
chức chính trị tiến bộ ở Pháp lúc bấy giờ.
Ngày 18/6/1919, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, với
tên gọi mới Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Véc – xai “Bản yêu sách của nhân dân
An Nam” đòi chính phủ Pháp và các nước Đồng Minh thừa nhận các quyền tự do
dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách
không được chấp nhận nhưng đã gây tiếng vang lớn, là địn tấn cơng trực diện vào
bọn trùm đế quốc. Qua đó, rút ra bài học muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có
thể trơng cậy vào bản thân mình.
1.2 Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn
Báo L'Humanité (Nhân Đạo) số ra hai ngày 16 và 17 tháng 7 năm 1920 đăng
toàn văn Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin
dưới đầu đề chạy suốt trang số một. Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa lập
10
tức thu hút được sự chú ý đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc. Người đã đọc đi đọc lại
nhiều lần và qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người tìm thấy ở đó con
đường đi đúng đắn giải giải phóng đất nước khỏi ách thực dân. Nội dung chính được
Nguyễn Ái Quốc tâm đắc nhất là những về dân tộc. Luận cương xác định đúng đắn,
khoa học vấn đề quốc gia dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc trong một quốc
gia, về quyền bình đẳng của các dân tộc. V.I.Lênin đã đề cập trong “Sơ thảo luận
cương” những vấn đề về chủ quyền quốc gia dân tộc, mối quan hệ giữa các quốc gia
dân tộc trong giai đoạn Chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và
sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ
thuộc. V.I.Lênin đòi hỏi phải “phân biệt thật rõ nét những dân tộc bị áp bức, phụ
thuộc, không được hưởng quyền bình đẳng, với những dân tộc đi áp bức, bóc lột,
được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi”; khẳng định quyền bình đẳng và quyền tự quyết
của các dân tộc không phân biệt màu da, Người yêu cầu các đảng cộng sản cần phải
“tố cáo những việc vi phạm thường xuyên nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc và
những sự đảm bảo quyền lợi của các dân tộc thiểu số trong tất cả các quốc gia tư bản
chủ nghĩa”. Luận cương đã giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường giành độc
lập và tự do của nhân dân Việt Nam là con đường cách mạng vô sản. Từ đó Người
hồn tồn tin theo Lênin, dứt khốt đứng về Quốc tế thứ III.
Ngày 25/12/1920, Người tham dự Đại hội XVIII của Đảng Xã hội Pháp họp ở
Tua. Người đã đứng về phía đa số đại biểu bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế
Cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Nguyễn Ái Quốc trở thành đảng viên
Cộng sản và là một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Việc Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa cộng sản rồi đi từ nhận thức đến thực
tiễn, không chỉ đánh dấu việc kết thúc hành trình tìm đường cứu nước của Người mà
nó cịn thể hiện được sự sáng tạo trong việc đến với chủ nghĩa cộng sản. Như vậy,
11
sau khoảng 10 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp chủ nghĩa Mác
– Lênin và xác định được con đường giải phong dân tộc theo khuynh hướng vơ sản,
mở đường giải quyết tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước đầu thể kỷ XX.
Nó thể hiện cho trí tuệ, nhãn quan chính trị sắc bén, sự sáng tạo của Nguyễn Ái
Quốc trong hành trình đầy gian khổ này. Từ đây Người tích cực việc truyền bá chủ
nghĩa Mác- Lênin vào trong nước.
Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp tại Tour
2. Tại sao Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vơ sản
Thực tiễn đã chứng minh điều đó là đúng, khi hệ tư tưởng phong kiến đã hoàn
toàn lỗi thời và đi ngược lại với xu hướng của thời đại. Hệ tư tưởng tư sản thì dù có
giành lại được độc lập cũng vẫn xây dựng lên một nhà nước áp bức bóc lột mới,
độc lập và quyền lời của tồn thể nhân dân vẫn bị xâm phạm. Tìm hiểu các cuộc
cách mạng ở Pháp, Anh, Mỹ, Người cho rằng, đó là những cuộc cách mạng vĩ đại,
nhưng chưa đến nơi: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách
mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hịa và dân chủ, kỳ thực
trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa”. Vì vậy muốn dân
tộc được độc lập, muốn nhân dân lao động thốt khỏi thân phận người nơ lệ, thì
phải làm cách mạng một cách triệt để. Khơng thể đi theo con đường cách mạng tư
12
sản, khơng thể thiết lập mơ hình nhà nước cộng hịa tư sản, nơi chính quyền chủ
yếu thuộc về giai cấp hữu sản.
Trong bối cảnh đó thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, đã giúp cho mơ
ước ngàn đời của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột về cuộc sống tốt đẹp, về khả
năng xây dựng một xã hội mới công bằng, văn minh đã trở thành hiện thực. Cách
mạng Tháng Mười tạo ra một khả năng mới cho sự phát triển của các dân tộc, tạo
ra đối trọng mới để thế giới cân bằng. Cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào cách mạng
trên thế giới và đưa nó đi theo hướng mới, tiến hành cuộc cách mạng vơ sản. Thắng
lợi của nước Nga cịn đáp ứng được một nhu cầu bức thiết nhất của Việt Nam là
giải phóng dân tộc, đồng thời nó là cuộc cách mạng của toàn dân, đưa nhân dân lao
động lên làm chủ đất nước và hướng tới xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Sau này Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô trực tiếp nghiên cứu về cuộc Cách
mạng Tháng Mười Nga, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Xô viết; được tận
mắt chứng kiến những thành tựu vĩ đại do Cách mạng Tháng Mười Nga mang lại
trên quê hương Xô viết. Bằng sự trải nghiệm thực tiễn, Người đã rút ra kết luận: “
Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến
nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, khơng
phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An
Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công,
nông các nước và dân tộc bị áp bức các thuộc địa làm cách mạng để đập đổ tất cả
đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới”.
Chỉ có duy nhất chủ nghĩa Mác-Lênin là kết tinh của ánh sáng thời đại. Và việc
Nguyễn Ái Quốc chọn con đường cách mạng XHCN là sự khẳng định lớn nhất cho
sự đúng đắn sáng tạo của Người khi tìm ra con đường cứu nước.
13
CHƯƠNG III: QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ VỀ MỌI MẶT CHO SỰ RA ĐỜI
CỦA ĐẢNG.
Trong giai đoạn 1921 - 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự
ra đời của Đảng. Ở đây có ba điểm rất đáng lưu ý:
Thứ nhất, sáng tạo trong việc truyền bá chính trị, tư tưởng vào Việt Nam.
Thứ hai, Người không chỉ truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào phong trào cơng
nhân mà cịn truyền bá vào phong trào u nước.
Thứ ba, sự sáng tạo trong phương pháp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt
Nam của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
1. Sự sáng tạo trong truyền bá chính trị, tư tưởng vào Việt Nam.
Nếu như C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Nguyễn Ái Quốc dành
sự quan tâm đặc biệt đến cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Trong điều kiện
xã hội thuộc địa, Người không nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp, mà tập trung
vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Độc lập, tự do là khát vọng cháy bỏng của
mọi người Việt Nam mất nước. Trong tư duy chính trị Nguyễn Ái Quốc, thực chất
của vấn đề dân tộc thuộc địa chính là vấn đề độc lập dân tộc. Tư tưởng cốt lõi là
“khơng có gì quý hơn độc lập, tự do”, có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông
đảo quần chúng nhân dân.
Với tầm nhìn, cùng nhãn quan sắc bén Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá chi tiết đúng
đắn về khả năng tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin của nhân dân Việt Nam. Người xác
định, với chủ nghĩa ngun bản khơ khan khó hiểu hàn lâm sẽ chẳng thể tiếp cận
được với nhân dân trong nước với hơn 90% là mù chữ. Vì vậy, trong suốt q trình
hoạt động của mình, Nguyễn Ái Quốc ln thay đổi chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp
14
với tình hình của Việt Nam, xác định đúng mục tiêu cao nhất cần đấu tranh là giành
độc lập dân tộc, bên cạnh đó là cải biên sáng tạo ngơn ngữ dễ hiểu, giúp mọi người
cùng có thể giác ngộ.
Chính vì vậy từ khi khẳng định cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách
mạng vơ sản giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã ngày đêm suy nghĩ, để làm sao
biến chủ nghĩa Mác-Lênin thành một chủ nghĩa của người Việt. Sau quá trình đúc
kết, sáng tạo Nguyễn Ái Quốc đã đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam dưới dạng
“lí luận cách mạng giải phóng dân tộc”. Gồm các vấn đề được biến đổi trên nền tảng
chủ nghĩa Mác-Lênin sao cho phù hợp với tình hình nước ta.
Từ đó Nguyễn Ái Quốc đã đẩy mạnh công tác chuẩn bị về mặt chính trị, tư
tưởng cho cách mạng Việt Nam.
Nội dung của “lí luận cách mạng giải phóng dân tộc”, được trình bày qua những
bài viết cho các báo: Người cùng khổ (Le Paria); báo Nhân đạo của Đảng cộng sản
Pháp; báo Sự thật của Đảng cộng sản Liên Xô; Tạp chí thư tín Quốc tế của Quốc tế
Cộng sản; tuần báo Thanh niên của hội Việt Nam cách mạng thanh niên; các tờ báo
được xuất bản định kì báo Cơng nơng, tờ bán nguyệt san Lính cách mệnh. Những
tham luận của Người đọc tại Hội nghị Quốc tế nông dân và Đại hội V của Quốc tế
Cộng sản, đặc biệt là qua tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp và Đường kách
mệnh.
Những lí luận đó được tiếp cận đến đơng đảo người dân trong nước, đồng thời
cịn tác động đến cả các binh lính người Việt trong qn đội Pháp. Thay vì sử dụng
những lí luận khơ khan, Người đã chọn cách sử dụng báo chí để nói về cách vấn đề
hiện thực trong xã hội, vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân, đó đưa vào những tư
tưởng cách mạng, vận động các tầng lớp nhân dân làm cách mạng. Cho nên những
15
luồng tư tưởng đó của Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng được tiếp cận được đến mọi
người.
Đặc biệt tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện rõ nhất qua tác phẩm
Đường kách mệnh. Đây được coi là cuốn sách gối đầu giường của biết bao thanh
niên Việt Nam thời đó. Tác phẩm là sự chuẩn bị tập trung và chu đáo về lí luận
chính trị cho Đảng ta, đặt nền tảng tư tưởng cho đường lối chính trị của cách mạng
Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tác phẩm “Đường Kách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc xuất bản năm 1927
Tác phẩm đã xác định mục tiêu tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên
chủ nghĩa xã hội; gắn bó cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vơ sản. Tất
yếu phải đồn kết giữa giai cấp vơ sản ở chính quốc và giai cấp vơ sản ở thuộc địa,
đoàn kết giữa các dân tộc thuộc địa thành một mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa
đế quốc. Cách mạng thuộc địa có khả năng nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng
vơ sản ở chính quốc. Cách mạng Việt Nam sẽ đi theo con đường cách mạng Nga,
làm cách mạng giải phóng dân tộc; sau khi cách mạng thắng lợi sẽ đi lên chủ nghĩa
xã hội. Tác phẩm cũng nhấn mạnh, cách mạng thắng lợi phải có Đảng cách mạng,
16
Đảng phải có lí luận cách mạng dẫn đường, có đường lối và phương pháp cách mạng
đúng đắn.
Để đi sâu hơn nữa vào đời sống nhân dân, Nguyễn Ái Quốc còn cho xuất bản
tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp. Đây như được coi là tiếng nói của nhân dân
An Nam trong cuộc sống lầm than dưới thân phận người dân nước thuộc địa. Tác
phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” còn vạch rõ kẻ thù của quần chúng lao động và
các dân tộc bị áp bức. Đó là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Hình thù của nó là
con đỉa hai vịi, một vịi hút máu của giai cấp vô sản và nhân dân lao động ở chính
quốc, một vịi hút màu của giai cấp vô sản và nhân dân lao động ở các thuộc địa. Sự
có mặt và sự tác oai tác quái của nó trên trái đất này là cội nguồn của mọi thảm họa,
mọi nỗi đau khổ đã trút lên đầu lên cổ nhân dân các thuộc địa từ mấy thế kỷ nay.
Đồng thời, tác phẩm đã vạch ra cái mâu thuẫn khơng thể điều hịa được giữa chúng kẻ đã gây ra mọi thảm họa, với giai cấp vô sản và nhân dân vị áp bức - người đã
từng chịu mọi thảm họa. Từ trong đêm tối của cuộc đời lầm than đau khổ, tác phẩm
đã mở ra cho quần chúng nhân dân thấy cảnh tương lai tươi sáng. Tác phẩm đã vạch
ra đường lối chiến lược và sách lược cho quần chúng nhân dân đấu tranh quật ngã kẻ
thù.
Như vậy, với những lí luận được truyền bá vào trong nước, Nguyễn Ái Quốc đã
chuẩn bị kĩ càng về chính trị, tư tưởng cho cách mạng nước ta. Trong suốt cơng tác
đó, là q trình vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo vào cách mạng
nước ta. Vì thế, Người đã chọn những vấn đề căn cốt nhất, cách diễn đạt ngắn gọn,
dễ hiểu nhất… Do đó, dễ dàng được dân tộc Việt Nam, trước hết là những nhà cách
mạng tiếp thu.
2. Người không chỉ truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào phong trào cơng
nhân mà cịn truyền bá vào phong trào yêu nước.
17
Với quan điểm: tất cả người dân Việt Nam là những người theo chủ nghĩa dân
tộc và ước mơ được độc lập. Trên đất nước Việt Nam, không một người nào lại
không phải là người theo chủ nghĩa dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước là thiên bẩm.
Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá đúng đắn tình hình Việt Nam, những tình hình chính
trị xã hội. Người nhận thấy theo học thuyết Mác - Lênin, một Đảng Cộng sản ra đời
từ sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân. Luận điểm này
đúng, nhưng chỉ đúng với các nước phương Tây, khi giai cấp công nhân đã bước lên
vũ đài chính trị với tư cách một lực lượng cách mạng độc lập, được lý luận khoa học
của Mác dẫn đường. Sự ra đời và phát triển của một loạt Đảng của giai cấp vô sản ở
các nước Tây Âu cũng như ở Nga hồi cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã chứng minh
tính đúng đắn của luận điểm nêu trên.
Tuy nhiên với những điều kiện cần và đủ để giai cấp công nhân Việt Nam tiếp
thu chủ nghĩa Mác-Lênin và nhanh chóng vươn lên nắm quyền lãnh đạo cách mạng
là chưa chín muồi. Ở các nước phương Đông, đặc biệt là các nước thuộc địa nửa
phong kiến như Việt Nam thì luận điểm đó cần được bổ sung, phát triển cho phù hợp
với điều kiện cụ thể. Những nước này bị chủ nghĩa thực dân thống trị, nền kinh tế
hết sức lạc hậu. Công nghiệp gần như chưa phát triển, giai cấp công nhân tuy đã ra
đời và sống khá tập trung, song còn nhỏ bé. Vì vậy, phong trào đấu tranh của giai
cấp cơng nhân chưa đại diện được cho toàn bộ phong trào dân tộc. Hơn nữa, vấn đề
dân tộc cần phải giải quyết trở nên hết sức bức xúc, cuộc đấu tranh của giai cấp cơng
nhân phải hồ chung với phong trào yêu nước của các tầng lớp, giai cấp khác trong
xã hội, giai cấp công nhân phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc để lãnh đạo những cuộc đấu
tranh này. Bên cạnh đó, chủ nghĩa Mác-Lênin lúc này tuy đã được truyền bá vào
Việt nam, tuy nhiên chỉ được một số bộ phận nhỏ những trí thức tiến bộ tiếp cận,
cịn với hầu hết người dân Việt Nam nó chỉ là thứ mơ hồ. Trừng nào lí luận cách
18
mạng còn chưa được thâm nhập sâu vào quần chúng, thì các yếu tố để thành lập một
Đảng cộng sản ở nước ta vẫn chưa thể xuất hiện. Muốn lí luận cách mạng được
truyền bá rộng rãi vào giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động thì cần có một đội
ngũ cán bộ tiên phong tuyên truyền, giác ngộ.
Nguyễn Ái Quốc với nhãn quan chính trị sắc bén đã nhận ra được lợi thế của
tầng lớp tri thức trong các phong trào yêu nước. Họ là những người có tinh u nước
nồng nàn, sức trẻ, có tính qn thân cho sự nghiệp cao cả và đặc biệt quan trọng họ
là những người được tiếp cận với với tri thức, biết chữ nên là đối tượng có thể giác
ngộ, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nguyễn Ái Quốc đánh giá phong trào yêu nước có thể trở thành một yếu tố cho
sự ra đời của Đảng vì:
Thứ nhất, phong trào yêu nước có vị trí, vai trị cực kỳ to lớn trong quá trình phát
triển của dân tộc Việt Nam. Là giá trị văn hoá trường tồn trong văn hoá Việt Nam.
Thứ hai, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào u nước bởi vì hai
phong trào đó đều có mục tiêu chung: giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được
hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa, phong trào yêu nước có
trước phong trào công nhân, phong trào công nhân xét về nghĩa nào đó nó lại là
phong trào yêu nước.
Thứ ba, phong trào nơng dân kết hợp với phong trào cơng nhân. Nói đến phong
trào yêu nước Việt Nam phải kể đến phong trào nơng dân. Do đó, giữa phong trào
cơng nhân và phong trào yêu nước có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Thứ tư, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc
đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tinh thần yêu nước đã trở thành truyền thống đấu tranh bất khuất trong lịch sử
dân tộc, có vai trị hết sức to lớn trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, trong
19
các phong trào cách mạng Việt Nam. Ngay từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng
xâm lược nước ta thì phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo
vệ nền độc lập dân tộc đã bắt đầu. Từ năm 1858 đến trước năm 1930 đã nổ ra các
cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh với mục tiêu giành lại nền độc lập dân tộc.
Các phong trào yêu nước tuy đều thất bại, nhưng đã rút ra được nhiều bài học về
việc chọn con đường cứu nước đúng đắn. Bên cạnh đó, bản thân Nguyễn Ái Quốc
cũng đến với chủ nghĩa Mác-Lênin từ chính chủ nghĩa yêu nước. Người hiểu được
tinh thần độc lập dân tộc của biết bao thế hệ trẻ người Việt. Giữa lúc đó, trong bối
cảnh những nhà yêu nước đang loay hoay tìm cho mình chân lí cứu nước đúng đắn
thì chủ nghĩa Mác-Lênin và lý luận giải phóng dân tộc thơng qua hoạt động của
Nguyễn Ái Quốc đã được truyền bá vào nước ta. Những tư tưởng của Nguyễn Ái
Quốc nhanh chóng được những người yêu nước Việt Nam tiếp thu. Chủ nghĩa MácLênin và lí luận cách mạng giải phóng dân tộc như một ánh sáng mới, soi tỏa cho
cách mạng Việt Nam. Những nhà yêu nước nhận ra được đây chính là tư tưởng có
thể giải quyết được triệt để nhiệm vụ lớn lao nhất giải phóng dân tộc Việt Nam.
Tháng 11/1924, khi về đến Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc mở lớp
huấn luyện đào tạo cán bộ. Phần lớn học sinh là thanh niên, học sinh, trí thức Việt
Nam yêu nước. Họ học làm cách mạng, học hoạt động bí mật. Phần lớn số học sinh
đó sau khi học xong bí mật về nước truyền bá lí luận giải phóng dân tộc và tổ chức
nhân dân, Một số người được gửi sang học trường đại học Phương Đơng hoặc
trường qn sự Hồng Phố. Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn một số thanh niên tích cực
trong Tâm tâm xã để tổ chức thành nhóm Cộng sản đồn (2/1925) — Tháng 6/1925,
Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên nhằm tổ chức và
lãnh đạo quần chúng đoàn kết lại, kịch liệt tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và tay sai để tự cứu mình.
20