Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Thương mại quốc tế - Biện pháp tự vệ thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.14 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG


BÀI TẬP NHĨM 3
MƠN: LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
GIẢNG VIÊN: THS. CHIÊM PHONG PHI
LỚP: 23LK01

Bình Dương, ngày 14 tháng 09 năm 2023


BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHĨM
Mơn: Luật Thương mại Quốc tế
GVHD: ThS. Chiêm Phong Phi
Đề tài: Biện pháp Tự vệ thương mại
Hình thức liên lạc: Nhóm trên Zalo
u cầu: Các thành viên tham gia tìm hiểu đề tài, phân tích, tìm hiểu thông tin, tra cứu
Luật, tài liệu tham khảo để giải quyết các câu hỏi được giao.
Đánh giá mức độ hồn thành nhiệm vụ của các thành viên trong nhóm thơng qua
bảng phân cơng cụ thể đính kèm bên dưới:

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHĨM
STT
1

Họ và tên
Trần Minh Thịnh

MSSV
20140037



Phân cơng nhiệm vụ

Mức độ

Xây dựng nội dung,

hồn thành
100%

Power point, thuyết
2

Lê Trường Giang

20140048

trình
Xây dựng nội dung,

100%

Power point, thuyết
3

Lê Trần Ngọc Quế Anh

20140008

trình

Xây dựng nội dung,

100%

Power point
4

Trần Thị Thùy Dung

18140366

Xây dựng nội dung,

100%

Power point
5

Nguyễn Thị Minh Thu

17140111

Xây dựng nội dung,
power point

100%


Nhóm trưởng
(Đã ký)


Trần Minh Thịnh

Mục lục


PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................. 5
PHẦN NỘI DUNG.............................................................................................................5
1. Khung pháp lý cho biện pháp tự vệ trong hệ thống thương mại GATT/WTO......5
2. Áp dụng biện pháp tự vệ trên cơ sở Điều XIX GATT và Hiệp định tự vệ thương
mại6
3. Áp dụng biện pháp tự vệ trên cơ sở Điều 5 của Hiệp định Nông nghiệp..............15
KẾT LUẬN.......................................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................18

PHẦN MỞ ĐẦU
Trong q trình tự do hố thương mại và mở cửa thị trường đã đặt các quốc gia phải
đối mặt với nhiều tình huống biến động, ảnh hưởng tiêu cực đến cơ cấu giá cả của hàng


hóa trên thị trường, đến mơi trường cạnh tranh hoặc đến sự phát triển của các ngành công
nghiệp nội địa do hậu quả của hoạt động thương mại của các đối tác. Trong trường hợp đó,
các quốc gia thừa nhận rằng cần phải có những cơng cụ pháp lý cần thiết để ngăn chặn
hoặc khắc phục hậu quả ảnh hưởng của các tình huống biến động này. Trong thương mại
quốc tế hiện đại, các công cụ này được gọi là “phịng vệ thường mại”. Các biện pháp đó
bao gồm:
(1) biện pháp tự vệ thương mại đối phó lại những thiệt hại do sự gia tăng ồ ạt hàng
hóa nhập khẩu do kết quả của việc thực hiện các nghĩa vụ mở cửa thị trường được ghi nhận
trong các Hiệp định GATT và các nghĩa vụ được cụ thể hóa trong các cam kết gia nhập
WTO.

(2) biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp đối phó lại những thiệt hại từ các
hành vi thương mại không lành mạnh của doanh nghiệp nước ngồi bán phá giá và của
chính phủ nước ngoài trợ cấp. Đây là những biện pháp mà quốc gia thành viên WTO được
phép áp dụng để bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước những thiệt hại và trong những
điều kiện nhất định mà không ảnh hưởng tới nghĩa vụ thương mại và những cam kết mở
của thị trường của quốc gia. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các biện pháp phòng vệ thương
mại giữa các thành viên đã, đang và sẽ nội dung gây nhiều tranh cãi nhất trong WTO.
PHẦN NỘI DUNG
1. Khung pháp lý cho biện pháp tự vệ trong hệ thống thương mại GATT/WTO
Biện pháp tự vệ thương mại hay còn gọi là điều khoản miễn nghĩa vụ được ghi nhận
lần đầu tiên trong Hiệp định giữa Mexicô và Hoa Kỳ năm 1943 liên quan đến chế độ
thương mại có đi có lại giữa hai quốc gia này. Có thể nói rằng Điều XIX GATT 1947 là sự
kế thừa trực tiếp của các điều khoản này. Trong khuôn khổ hệ thống GATT/WTO, biện
pháp tự vệ thương mại được quy định chủ yếu tại Điều XIX Hiệp định GATT và Hiệp định
tự vệ thương mại. Bên cạnh đó, GATT/WTO cũng quy định về biện pháp tự vệ thương mại
tại trong thương mại hàng nông nghiệp tại Điều 5, Hiệp định Nông nghiệp và thương mại


dịch vụ tại Điều X, Hiệp định GATS. Về bản chất, biện pháp tự vệ thương mại là một
trường hợp ngoại lệ của hệ thống thương mại GATT/WTO, theo đó trong một số trường
hợp đặc biệt khẩn cấp thành viên WTO được phép miễn thực hiện một số nghĩa vụ theo
quy định của GATT và các cam kết WTO liên quan. Việc thực hiện các biện pháp tự vệ
thương mại phải đáp ứng và tuân thủ các điều kiện nhất định được quy định tại Điều XIX
GATT 1994 và Hiệp định tự vệ thương mại được phân tích dưới đây.
2. Áp dụng biện pháp tự vệ trên cơ sở Điều XIX GATT và Hiệp định tự vệ thương
mại
2.1 . Thủ tục điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ
Biện pháp tự vệ thương mại được áp dụng khi và chỉ khi cơ quan có thẩm quyền
của thành viên nhập khẩu của WTO kết luận rằng:
- Có sự gia tăng của hàng hóa nhập khẩu đang bị điều tra;

- Sự phát triển không lường trước được và sự gia tăng này là kết quả từ các nghĩa
vụ mà thành viên nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại phải tuân thủ theo quy
định của GATT 1994;
- Việc gia tăng hàng hóa nhập khẩu gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm
trọng đối với ngành công nghiệp nội địa của thành viên nhập khẩu đang sản xuất sản
phẩm tương tự hoặc sản phẩm cạnh tranh trực tiếp;
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu gia tăng và thiệt hại/ đe dọa gây
thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước.
(1) Gia tăng của hàng hố nhập khẩu
Về sự gia tăng của hàng hóa, Điều 2.1, Hiệp định Tự vệ thương mại quy định rằng
một thành viên đã xác định được là:
(i) có sự gia tăng tuyệt đối của sản phẩm nhập khẩu, (sự gia tăng mang tính định
lượng cụ thể bằng tấn hàng nhập khẩu hoặc số lượng đơn vị hàng nhập khẩu); hoặc


(ii) có sự gia tăng tương đối của sản phẩm nhập khẩu, (sự gia tăng của khối lượng
hàng nhập khẩu trong so sánh với khối lượng hàng hoá được sản xuất trong nước).
Tuy nhiên, Hiệp định Tự vệ thương mại không định nghĩa cụ thể thế nào là gia tăng
tương đối, tuyệt đối và khoảng thời gian có sự gia tăng đó là bao lâu.
Trong vụ kiện Hoa Kỳ – Một số biện pháp tự vệ đối với thép (DS248) Ngày
07/03/2002, Cộng đồng Châu Âu (EC) yêu cầu tham vấn với Hoa Kỳ về việc áp đặt biện
pháp tự vệ chính thức dưới hình thức tăng thuế nhập khẩu đối với thép cán (flat steel), thép
cuộn nóng (hot-rolled bar), thép lạnh thành phẩm (cold-finished bar), thép gia cố (rebar),
thép ống hợp kim (certain welded tubular products), thép hợp kim các bon (carbon and
alloy fittings), thép thanh không gỉ (stainless steel bar), thép dây khơng gỉ (stainless steel
wire) và dưới hình thức hạn ngạch thuế quan đối với thép tấm có hiệu lực từ ngày
20/03/2002. EC cho rằng các biện pháp kể trên của Hoa Kỳ vi phạm các nghĩa vụ của quốc
gia này theo Hiệp định về biện pháp tự vệ và GATT 1994, cụ thể vi phạm các điều khoản
2.1, 2.2 ,3.1, 3.2, 4.1, 4.2, 5.1, 5.2, 7.1 và 9.1 của Hiệp định về biện pháp tự vệ và các điều
khoản I:1, XIII và XIX:1 của GATT 1994. EC cũng giữ quyền liên quan tới việc theo đuổi

vụ kiện theo Hiệp định về biện pháp tự vệ và Quy tắc Giải quyết Tranh chấp trong WTO
(DSU).
Khi xác định sự gia tăng thép nhập khẩu, Ủy ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ kết
luận thép nhập khẩu này đã gia tăng tuyệt đối và tương đối bởi vì Ủy ban thương mại quốc
tế căn cứ vào số lượng loại thép này nhập khẩu vào Hoa Kỳ năm 2000 (thời điểm thép này
nhập khẩu cao hơn bất kỳ năm nào trước đó). Đặc biệt, Ủy ban thương mại quốc tế khơng
sử dụng số liệu về số lượng thép nhập khẩu nửa đầu 2001 (thời điểm mà lượng thép nhập
khẩu vào Hoa Kỳ bị sụt giảm nghiêm trọng). Do đó, Cơ quan phúc thẩm kết luận rằng biện
pháp tự vệ thương mại của Hoa Kỳ không phù hợp với Điều XIX GATT 1947 và Hiệp
định về tự vệ thương mại bởi vì Ủy ban thương mại quốc tế đã:
(1) khơng phân tích được tại sao số lượng thép này bị kết luận là gia tăng trong bối
cảnh khối lượng sản phẩm này bị giảm sút trong một số thời điểm trong quá trình điều tra;


(2) Ủy ban thương mại quốc tế không cung cấp thông tin về số lượng sản phẩm này
vào thời điểm cuối giai đoạn điều tra; và
(3) không xác định khuynh hướng của sản phẩm này có thật sự tăng trong giai đoạn
điều tra hay khơng.
Để giải thích khuynh hướng gia tăng, Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO
khẳng định rằng sự gia tăng này không đơn thuần là việc so sánh số lượng hàng nhập khẩu
ở giai đoạn này với giai đoạn khác, bởi vì sự so sánh theo từng thời điểm như vậy có thể
dẫn đến kết quả khác nhau, thành viên nhập khẩu có quá nhiều cơ hội để lựa chọn thời
điểm so sánh theo hướng hàng nhập khẩu gia tăng nhằm bảo hộ ngành sản xuất trong
nước. Và nếu cơ quan có thẩm quyền của thành viên nhập khẩu so sánh mức nhập khẩu tại
thời điểm tiến hành điều tra và mức nhập khẩu tại thời điểm kết thúc điều tra để chứng
minh hàng hóa nhập khẩu đã gia tăng là không đầy đủ và không phù hợp với yêu cầu của
Điều XIX GATT và Hiệp định tự vệ thương mại. Thay vào đó, cơ quan có thẩm quyền
phải phân tích khuynh hướng gia tăng hàng nhập khẩu trong suốt giai đoạn điều tra
và khuynh hướng này phải đủ bất ngờ, đủ đột ngột, đủ nhiều và đủ mức độ đáng kể,
cả về số lượng lẫn chất lượng. Nếu cơ quan có thẩm quyền chỉ chứng minh được có sự

gia tăng hàng nhập khẩu đơn thuần về số lượng thì cũng khơng đáp ứng được u cầu về
tính gia tăng”.
(2) Sự phát triển khơng lường trước được
Sự phát triển không lường trước được hiểu là sự phát triển diễn ra sau khi các thành
viên WTO đã đàm phán cắt giảm thuế quan và các thành viên này đã không và không thể
biết tại thời điểm đàm phán. Thành viên nhập khẩu phải chứng minh được rằng sự gia tăng
tuyệt đối hoặc tương đối của hàng nhập khẩu là kết quả của tình huống khơng thể lường
trước, không mong đợi tại thời điểm đàm phán.
Cần phải lưu ý rằng Hiệp định tự vệ thương mại không sử dụng thuật ngữ “phát
triển không lường trước được”. Thay vào đó, Điều 3.1 Hiệp định tự vệ thương mại chỉ đề
cập đến sự gia tăng tuyệt đối hoặc tương đối (như đã phân tích ở trên). Trong vụ kiện trên,


Hoa Kỳ đã phủ nhận nghĩa vụ xác định tình huống gây ra sự phát triển không lường trước
được trong việc áp dụng biện pháp tự vệ thương mại. Tuy nhiên, Cơ quan giải quyết tranh
chấp của WTO đã bác bỏ lập luận này của các thành viên và thực tế đã khẳng định “cơ
quan có thẩm quyền của thành viên nhập khẩu phải có nghĩa vụ trước tiên xem xét về tình
huống khơng lường trước được trong quyết định áp dụng biện pháp tự vệ thương mại. Cụ
thể, cơ quan này phải giải thích hợp lý và đầy đủ rằng “tại sao và bằng cách nào” sự gia
tăng không lường trước được của hàng nhập khẩu làm cho ngành sản xuất liên quan trong
nước của thành viên đó bị thiệt hại/đe dọa bị thiệt hại bởi vì Cơ quan giải quyết tranh chấp
của WTO cho rằng “Điều XIX GATT và Điều 2 Hiệp định tự vệ thương mại phải được
đọc như là một gói quyền và nghĩa vụ khơng thể tách rời cần phải đặt song song với nhau.
Chẳng hạn như, trong vụ Hoa Kỳ - Thép cuộn nóng, Ủy ban thương mại quốc tế của Hoa
Kỳ đã lý giải rằng khủng hoảng tài chính ở Châu Á năm 1997 là một nhân tố đã gây ra tác
động tiêu cực đến thị trường thép thế giới mà các bên đã khơng lường trước tại thời điểm
diễn ra vịng đàm phán Uruguay.
Ngoài ra, Ủy ban thương mại quốc tế cũng nhấn mạnh rằng để duy trì sự lớn mạnh
của nền kinh tế Hoa Kỳ và việc tăng giá trị của đồng đơ la Hoa Kỳ trong tình huống khủng
hoảng tài chính như vậy là yếu tố khơng lường trước được. Tuy nhiên, Cơ quan giải quyết

tranh chấp của WTO không chấp nhận hai yếu tố trên với tính chất là

×