Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Thực tiễn áp dụng án treo tại địa phương nơi sinh viên thực tập những thuận lợi khó khăn và biện pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.99 KB, 26 trang )

Phần 1: Giới thiệu chuyên đề
án treo, một chế định pháp lý hình sự ra đời sớm xuất hiện cùng với sự ra
đời và phát triển của luật Hình sự Việt Nam. Từ sau cách mạng tháng 8 năm
1945 đã quy định: “Khi phạt tù tồ án có thể cho tội nhân được hưởng án treo
nếu có lý do đáng để khoan hồng” với sự quy định của văn bản pháp luật này án
treo được hiểu là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
Theo quy định tại điều 60 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999:
“Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân người phạm tội
và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù
thì tồ án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một đến năm
năm”.
Khi xét xử cho người bị kết án phạt tù được hưởng áo treo là thể hiện sự
khoan hồng của pháp luật hình sự Việt Nam và chính sách của Đảng và nhà
nước ta nhằm đưa người phạm tội nhanh chóng trở lại với cộng đồng, để hiểu
thêm về thực tiễn xét xử và thực trạng áp dụng pháp luật vào thực tiễn của toà án
nơi thực tập tại địa phương nên em chọn đề tài: “thực tiễn áp dụng án treo tại địa
phương nơi sinh viên thực tập, những thuận lợi khó khăn và biện pháp khắc
phục” thơng qua việc lựa chọn đề tài này em muốn tìm hiểu thêm về thực tiễn áp
dụng án treo tại địa phương nơi mình thực tập, qua đó hiểu thêm những thuận
lợi, khó khăn trong việc áp dụng án treo tại địa phương nơi mình thực tập từ đó
đề ra những biện pháp khắc phục, những khó khăn đó cũng thơng qua đề tài này
em muốn tìm hiểu thêm về việc áp dụng án treo tại địa phương nơi mình thực
tập và việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn dựa trên những căn cứ pháp luật,
hiểu thêm về tình hình phạm tội tại địa phương, tìm hiểu thêm về nguyên nhân
cũng như các điều kiện phạm tội và từ đó tìm ra những thuận lợi, khó khăn và từ
đó tìm ra biện pháp khắc phục, để hiểu thêm về những vấn đề đó nên em chọn
đề tài này.
Thơng qua chun đề thực tập này em rất mong nhận được nhận xét của
thầy cơ để chun đề của em được hồn thiện hơn, em xin chân thành cảm ơn.



Phần 2: Q trình tìm hiểu, thu thập thơng tin.
1. Thời gian thu thập thông tin.
Được sự phân công, chỉ đạo của nhà trường với thời gian thực tập tại Toà
án nhân dân huyện Quỳnh Lưu từ ngày 7 tháng 1 năm 2008 đến ngày 18 tháng 4
năm 2008.
Trong quá trình thực tập tại Tồ án được sự giúp đỡ của cán bộ cơng nhân
viên tại tồ án đặc biệt là của cán bộ hướng dẫn đã giúp cho chúng em có thời
gian để bước đầu làm quen với kiến thức thực tế và cũng là khoảng thời gian để
thu thập thông tin phục vụ cho chuyên đề thực tập của mình.
Thời gian:
- Ngày 14 tháng 1 năm 2008 đến ngày 22 tháng 2 năm 2008: Nghiên cứu
hồ sơ vụ án đã giải quyết và chưa giải quyết.
- Ngày 25 tháng 2 năm 2008 đến 29 tháng 2 năm 2008: Xem toà án xử
các vụ.
- Ngày 01 tháng 3 năm 2008 đến 21 tháng 3 năm 2008: Nghiên cứu hồ sơ
và tham gia các chuyến đi cơ sở.
- Ngày 24 tháng 3 năm 2008 đến 31 tháng 3 năm 2008: Tham gia các
phiên xét xử của toà án, viết biên bản phiên toà.
- Ngày 01 tháng 4 năm 2008 đến 22 tháng 4 năm 2008: Nghiên cứu hồ sơ
tại toà án và tham gia các chuyến đi cơ sở.
2. Phương pháp thu thập:
a. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ tài liệu có sẵn:
Trong q trình thực tập tại tồ án, được sự giúp đỡ, hướng dẫn của cán
bộ toà án đặc biệt là cán bộ hướng dẫn đã tạo điều kiện thuận lợi để nghiên cứu,
tìm hiểu, thu thập thơng tin dựa trên nguồn tài liệu có sẵn của tồ án đó là các
bản án, các quyết định đã giải quyết là nguồn tài liệu sẵn có để phục vụ cho việc
nghiên cứu thông qua việc nghiên cứu các hồ sơ tài liệu có sẵn tại tồ án đó vừa
là nguồn tài liệu quan trọng giúp em hiểu thêm về cách xét xử của từng thẩm
phán cũng từ đó thu thập được thơng tin một cách có hiệu quả hơn. Qua cac bản



án, quyết định của toà án mà thu thập được là nguồn tài liệu quan trọng phục vụ
cho chuyên đề thực tập đạt được hiệu quả hơn ngoài việc nghiên cứu những hồ
sơ tài liệu sẵn có của tồ án cịn thơng qua mạng internet cũng là nguồn tài liệu
quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu và thu thập thông tin lam cho chuyên đề
thực tập được phong phú hơn. Cùng với đó là các chuyến đi thực tế tại các cơ
sở, xem xét các vụ án giải quyết tại phiên toà cũng là điều kiện thuận lợi để thu
thập thông tin phục vụ cho chuyên đề thực tập đạt được hiệu quả cao hơn.
b. Phương pháp phân tích.
Dựa trên nguồn tài liệu sẵn có tại tồ án đó là các bản án, quyết định, các
chuyến đi thực tế và các phiên toà xét xử, kinh nghiệm của các thẩm phán trong
các buổi họp với sinh viên thực tập là nguồn tài liệu sẵn có, dựa trên nguồn tài
liệu ấy thơng qua việc phân tích, nghiên cứu rút ra được những nội dung cũng
như kinh nghiệm cơ bản phục vụ cho việc nghiên cứu, từ nguồn tài liệu sẵn có
của tồ dựa trên cơ sở phân tích là nguồn tài liệu phục vụ cho chuyên đề thực
tập của mình, cũng từ quá trình nghiên cứu các nguồn tài liệu giúp em hiểu thêm
về các căn cứ mà toà án áp dụng đối với người phạm tội mà toà án cho hưởng án
treo:
- Gồm các căn cứ:
Mức phạt tù
Nhân thân của người phạm tội.
Các tình tiết giảm nhẹ
Khơng cần phải bắt chước chấp hành phạt tù.
Dựa trên những căn cứ đó của pháp luật để xem xét cho một người phạm
tội được hưởng án treo hay không.
Thông qua việc phân tích tài liệu hồ sơ của tồ án cùng với nguồn tài liệu
trên internet giúp em hiểu thêm về quá trình xét xử của tồ án và việc áp dụng
những quy định của pháp luật vào thực tiễn.
c. Phương pháp điều tra:
Trong q trình thực tập tại tồ án, đó là khoảng thời gian để chúng em có

cơ hội làm quen với những gì đang diễn ra trong thực tế, những vấn đề lý thuyết


và thực tiễn có gì giống và khác nhau, trong q trình thực tập thơng qua việc
nghiên cứu hồ sơ tài liệu có sẵn tại tồ án, qua các chuyến đi thực tế và các buổi
họp với các thẩm phán với sinh viên thực tập là cơ hội để thu thập thông tin,
học hỏi những kinh nghiệm thực tế của các thẩm phán khi giải quyết các vụ án
cụ thể có những thuận lợi và khó khăn gì.
Các chuyến đi cơ sở cũng là cơ hội và điều kiện để tìm kiếm, thu thập
thơng tin phục vụ cho chun đề thực tập của mình.
Thơng qua phương pháp điều tra giúp em hiểu về việc áp dụng pháp luật
vào thực tiễn cũng như tình hình tội phạm tại địa phương nơi mình thực tập.
d. Phương pháp xã hội học:
- Các chuyến đi cơ sở thu thập những kiến thức thực tế.
- Các buổi họp của thẩm phán với sinh viên thực tập.
- Phiên tồ xét xử các vụ án.
- Thơng qua internet.
Thông qua phương pháp này là cơ hội cũng như điều kiện thu thập thông
tin phục vụ cho chuyên đề thực tập.
3. Nguồn tư liệu thu thập:
- Các bản án, quyết định đã giải quyết của toà án.
- Internet
- Từ các chuyến đi cơ sở
- Số liệu thống kê thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm.
- Các phiên toà xét xử toà án trong thời gian thực tập.
4. Các thông tin thu thập:
Trong thời gian thực tập tại toà án, được sự giúp đỡ của cán bộ cơng nhân
viên của tồ án đặc biệt là cán bộ hướng dẫn trực tiếp đã giúp em nghiên cứu thu
thập thông tin đạt được kết quả và bước đầu làm quen với những kiến thức thực
tiễn tại toà trong quá trình thực tập cùng với sự giúp đỡ và hướng dẫn đã giúp

em thu thập được thông tin thơng qua:
- Các bản án, quyết định của tồ án.


- Số liệu thông kê thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm của các
năm: năm 2006, năm 2007.
Thông qua các hồ sơ vụ án đã giải quyết giúp em thu thập được những vụ
án cụ thể:
Bản án số: 31/2006/HSST ngày 24/8/2006
* Nguyễn Văn Hải, sinh 1969.
Sinh trú quán: khối 8, phường Nam Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà
Tĩnh.
Nghề nghiệp: Bn bán, trình độ văn hố: 10/10.
Tiền án, tiền sự: khơng.
Bị bắt tạm giữ từ ngày 13/6/2006 đến ngày 19/6/2006, cho bảo lãnh (có
mặt).
* Trịnh Dương Trường, sinh năm 1977.
Sinh trú quán: xóm Nam Tiến, xã Hùng Tiến, huyện Nam Đàn, Nghệ An.
Nghề nghiệp: lái xe, trình độ văn hố: 12/12.
Tiền án, tiền sự: Khơng.
Nội dung bản án:
Vào tối ngày 12/6/2006.
Nguyễn Văn Hải đi đến cửa khẩu Cầu treo mua một người không quen
biết 11 con tê tê với giá 19.500.000đ (mười chín triệu năm trăm nghìn đồng)
đem về nhà cho tê tê ăn và cất tại nhà Hải để đưa ra Thanh Hóa bán kiếm lời,
khoảng 6 giờ ngày 13 tháng 6 năm 2006, Hải điện cho Trịnh Dương Trường
thuê tác xi do Trường lái vận chuyển một số lượng hàng từ thị xã Hồng Lĩnh ra
Thanh Hóa. Do buổi sáng phải lên tồ án huyện Nam Đàn nên Trường không
hỏi Hải chở hàng gì và nói với Hải nếu đi thì đưa hàng sang nhà Trường chờ,
sau khi điện thoại cho Trường xong, Hải thuê một người lái xe lại không rõ tên,

địa chỉ chở Hải và 11 con tê tê đi theo đường Hồ Chí Minh đến nhà Trường.
Khoảng 9h30 phút cùng ngày (13/6/2006) Trường ở toà án huyện Nam Đàn và
nhà thì gặp Hải, hai bên thoả thuận Trường dùng xe ô tô 37H – 3677 thuê của
công ty cổ phần thương mại miền Trung chở 11 con tê tê cùng Hải ra Thanh


Hóa tìm mối bán, th vận chuyển với giá là 1000.000 đồng (một triệu đồng)
thanh toán sau khi Hải bán hàng xong sau khi thoả thuận.
Hải và Trường bỏ hai con tê tê vào túi du lịch và để dưới sàn xe còn 9
con tê tê bỏ vào hộp sắt dưới ghế ngồi ở hàng ghế sau cùng của xe ô tô, bốc
hàng xong, Trường rũ Trần Minh Hiếu (bạn của Trường) cùng đi chơi cho vui.
Trường điều khiển xe ô tô chờ Hải và Hiếu chạy trên quốc lộ 1A. Khi xe chạy
đến thị trấn Cầu Giát huyện Quỳnh Lưu khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày thì họ
bị lực lượng hạt kiểm lâm Quỳnh Lưu phát hiện, bắt giữ, lập biên bản phạm
pháp quả tang thu giữ gồm: 1xe ơ tơ hiệu NISAN màu trắng biển kiểm sốt 37H
– 3677 và 11 con tê tê có trọng lượng 41,5g.
Bản cáo trạng số 30 ngày 28/7/2006 của Viện Kiểm soát nhân dân huyện
Quỳnh Lưu đã truy tố hai bị cáo Nguyễn Văn Hải và Trịnh Dương Trường về
tội: “Vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm” theo khoản
1 điều 190 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu
giữ nguyên quyền công tố, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị hội đồng
xét xử áp dụng khoản 1điều 190 điểm, h, p khoản 1 điều 46 và điều 60 xử phạt
Nguyễn Văn Hải từ 12 tháng 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách
18 đến 24 tháng.
áp dụng khoản 1 điều 190, điểm h, p khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự xử
phạt: Trinh Dương Trường từ 12 đến 16 tháng cải tạo không giam giữ. Cấm
chức vụ lái xe trong thời gian cải tạo phạt tiền bổ sung đối với bị cáo Hải từ 4
đến 5 triệu đồng, phạt tiền đối với bị cáo Trường từ 3 đến 4 triệu đồng.
Căn cứ vào các cứ tài liệu đã được thẩm tra tại toà, căn cứ vào kết quả

tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét thấy đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý
kiến kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác.
Xét thấy trong q trình điều tra cũng như tại phiên tồ hơm nay, các bị
cáo Nguyễn Văn Hải và Trịnh Dương Trường đã khai nhận tồn bộ hành vi
phạm tội của mình như cáo trạng của Viện Kiểm sát đã nêu.


Đối chiếu lời khai của các bị cáo với nhau, với biên bản bắt giữ người có
hành vi phạm pháp quả tang, vật chứng thu được hoàn toàn phù hợp về thời gian
cũng như nội dung vụ việc. Có đủ căn cứ kết luận Nguyễn Văn Hải có hành vi
mua bán 11 con tê tê có trọng lượng 41,5kg thuê Trịnh Dương Trường vận
chuyển bằng xe tô tô do Trịnh Dương Trường thuê của Công ty CP Thương mại
miền Trung ra Thanh Hóa bán kiếm lời.
Hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn Hải và Trịnh Dương Trường đã phạm
tội “vi phạm các quy định bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm” theo khoản 1
điều 190 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố và luận tội của
kiểm sát viên tại phiên toà.
Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm, đã
xâm hại động vật hoang dã quý hiếm gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái,
ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Vì vậy cần xử lý nghiêm nhằm giáo
dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
Vai trò các bị cáo trong vụ án này nổi lên là Nguyễn Văn Hải người trực
tiếp mua bán động vật tê tê thuê Trường vận chuyển ra Thanh Hóa bán kiếm lời.
Hải phạm tội khơng có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ là phạm tội lần
đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo,
ăn năn hối cải, nhân thân bị cáo từ trước đến nay chưa có tiền án, tiền sự, bởi
vậy không cần thiết phải cách ly bị cáo ngoài xã hội ma cho bị cáo hưởng án
treo cũng đủ điều kiện để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã
hội, hồn cảnh gia đình bị cáo hiện nay khó khăn, bố mẹ già yếu em trai bị cáo
mới mất, số tiền mua động vật bị cáo vay mượn tiền của người khác gửi bị cáo

mua hàng điện tử nay phải vay nợ trả cho họ, nên chỉ áp dụng hình phạt tiền bổ
sung đối với Hải mức 3.000.000đ (ba triệu đồng) sung công quỹ nhà nước.
Đối với Trinh Dương Trường là người được Hải thuê vận chuyển động
vật tê tê nhưng chưa được hưởng lợi gì. Nhân thân bị cáo từ trước đến nay chưa
có tiền án tiền sự. Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau
khi bị bắt đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bố đẻ bị cáo là liệt sỹ. Vì vậy,
khơng cần phải cách ly bị cáo ngồi xã hội cho bị cáo hưởng án treo mức thấp


hơn Hải cũng đủ điều kiện để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho
xã hội. Hồn cảnh gia đình bị cáo hiện nay khó khăn, bị cáo đã ly hôn vợ, phải
nuôi con nhỏ, mẹ già. Bị cáo vận chuyển động vật cho Hải những chưa được lợi
gì nên chỉ phạt bổ sung bị cáo mức 2.000.000đ (hai triệu đồng).
Đối với Trần Minh Hiếu là người được Trường rủ đi theo xe ô tô chơi
không có hành vi mua bán vận chuyển động vật nên không xử lý là đúng pháp
luật.
Xe ô tô nhãn hiệu NISAN mang biển số 37H – 3667 là phương tiện thuộc
quyền sở hữu của Công ty cổ phần thương mại miền Trung do trường hợp đồng
thuê xe với công ty. Việc Trường dùng xe ô tô vận chuyển động vật khơng có
trong hợp đồng, xe ơ tơ dùng lần đầu vào việc phạm pháp, số lượng động vật do
Trường vận chuyển không lớn nên không cần tịch thu, cơ quan công an huyện
Quỳnh Lưu đã trả lại cho bị cáo đã trả lại cho Công ty CP thương mại miền
Trung là đúng pháp luật.
Số động vật tê tê thu giữ của bị cáo công an đã chuyển cho hai kiểm lâm
Quỳnh Lưu xử lý theo thẩm quyền, số tiền bán động vật 23.400.000 đã nạp tại
kho bạc huyện Quỳnh Lưu do phạm tội mà có nên sung quỹ nhà nước.
Như vậy khi xét cho bị cáo được hưởng án treo toà án đã căn cứ vào
những quy định của pháp luật:
+ Mức hình phạt tù: đây là căn cứ đầu tiên để toà án xem xét cho người
phạm tội xem họ có được hưởng án treo hay khơng.

Người bị kết án phạt tù không quá ba năm, không kể tội đã phạm là tội gì
đều có thể cho hưởng án treo, trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về
nhiều tội mà hình phạt chung khơng vượt q ba năm thì cũng thuộc diện được
hưởng án treo. Tuy nhiên mức hình phạt tù khơng q ba năm phải phù hợp với
tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm.
+ Về nhân thân người phạm tội: người được hưởng án treo phải là người
có nhân thân tốt. Vì nhân thân tốt là căn cứ quan trọng để quyết định hình phạt
và là căn cứ cần thiết để xem xét người phạm tội với điều kiện cụ thể có khả
năng tự giáo dục, cải tạo hay không để quyết định cho hưởng án treo.


Khi xem xét nhân thân người phạm tội phải xem xét toàn diện tất cả đặc
điểm về nhân thân trong đó chú ý đặc điểm nhân thân ảnh hưởng đến khả năng
tự giáo dục cải tạo như thế nào, thái độ của người phạm tội sau khi gây án và khi
bị xét xử cũng có ý nghĩa nhất định đến việc cho họ hưởng án treo hay khơng.
+ Có tình tiết giảm nhẹ: có từ 2 tình tiết giảm nhẹ trở lên được quy định
tại khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.
+ Thuộc trường hợp khơng cần phải bất chấp hành hình phạt tù khi áp
dụng án treo, toà án chủ yếu phải dựa vào ba căn cứ cần phải có trên đây để kết
luận khả năng tự giáo dục, cải tạo của người bị kết án.
Như vậy, khi cho người phạm tội được hưởng án treo toà án phải dựa vào
những căn cứ đã quy định trên nhằm xử phạt đúng với những quy định của pháp
luật đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho người phạm tội có cơ hội được
sửa chữa sai lầm của mình và nhanh chóng trở lại với xã hội, trở lại với cộng
đồng để thành người có ích.
Trong thời gian thực tập tại toà án nhân dân huyện Quỳnh Lưu được với
sự giúp đỡ của cán bộ toà án cùng với các phương pháp nghiên cứu, phân tích so
sánh còn thu thập được số liệu thống kê thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ
thẩm của các năm 2006, năm 2007.
Năm 2006:

* Từ 1/1/2006 đến 31/3/2006:
Tổng:

- 13 vụ
- 22 bị cáo

Xét xử:

- 13 vụ
- 22 bịc aos

Tỷ lệ giải quyết: 13 vụ/13 vụ đạt 100%
22 bị cáo/ 22bị cáo đạt 100%.
Trong đó có 12 bị cáo được hưởng án treo.
* Từ 1/4/2006 đến 30/6/2006:
Tổng:

- 19 vụ
- 37 bị cáo


Xét xử:

- 18 vụ
- 34 bị cáo

Tỷ lệ giải quyết: 18 vụ/19 vụ đạt 94,7%
34 bị cáo/ 37 bị cáo đạt 92%.
Trong đó có 15 bị cáo được hưởng án treo
* Từ 1/7/2006 đến 30/9/2006:

Tổng :

- 19 vụ
- 24 bị cáo

Xét xử:

- 19 vụ
- 24 bị cáo

Tỷ lệ giải quyết: 19 vụ/ 19 vụ đạt 100%.
24 bị cáo/24 bị cáo đạt 100%.
Trong số 24 bị cáo đưa ra xét xử có 10 bị cáo được hưởng án treo.
* Từ 1/10/2006 đến 31/12/2006:
Tổng:

- 28 vụ
- 56 bị cáo

Xét xử:

- 22 vụ
- 48 bị cáo

Tỷ lệ giải quyết: 22 vụ/28 vụ đạt 79%
48 bị cáo/ 56 bị cáo đạt 86%.
Có 22 bị cáo được hưởng áo treo trong số 48 bị cáo đưa ra toà xét xử.
Năm 2007:
* Từ 1/1/2007 đến 31/8/2007:
Tổng:


- 78 vụ
-136 bị cáo

Xét xử:

- 75 vụ
- 136 bị cáo

Tỷ lệ giải quyết: 75 vụ/ 87 vụ đật 96%
131 bị cáo trên 136 bị cáo đạt 96%.
Trong đó có 60 bị cáo được hưởng án treo.


* Từ 1/9/2007 đến 30/9/2007:
Tổng:

- 11 vụ
- 13 bị cáo

Xét xử:

- 11 vụ
- 13 bị cáo

Tỷ lệ giải quyết: 11 vụ/11 vụ đạt 100%
13 bị cáo/ 13 bị cáo đạt 100%.
Trong số 13 bị cáo có 3 bị cáo được hưởng án treo.
* Từ 1/10/2007 đến 31/12/2007:
Tổng:


- 21 vụ
- 29 bị cáo

Xét xử:

- 18 vụ
- 26 bị cáo

Tỷ lệ giải quyết: - 18 vụ/21 vụ đạt 86%
- 26 bị cáo/29 bị cáo đạt 90%.
Trong đó có 6 bị cáo cho hưởng án treo.
Các tội thông thường được giải quyết tại tồ án:
+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho người khác
(điều 104 bộ luật hình sự).
+ Tội cướp tài sản (điều 133).
+ Tội cướp giật tài sản (điều 136)
+ Tội trộm cắp tài sản (điều 138).
+ Tội sản xuất, tàng trữ vận chuyển buôn bán hàng cấm (điều 155)
+Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm (điều
190).
+ Tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ (điều 202).
+ Tội chế tạo tàng trữ vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt vật liệu nổ (điều 232).
+ Tội đánh bạc (điều 248)


+ Tội chứa mại dâm (điều 254)
+ Tội môi giới mại dâm (điều 255).

+ ...........
Là một huyện phía bắc của tỉnh Nghệ An, Quỳnh Lưu có diện tích tự
nhiên là 15.472.64 ha, dân số năm 2007 là 360.000 người, có đường biên giới
dài 122km với 43 xã trong huyện. Có đường biên giới đất liền 88km và 34km
đường biển, khoảng cách huyện lỵ là: từ thị trấn Cầu Giát đến thành phố Vinh
khoảng 60km, tiếp giáp: phía bắc giáp Tĩnh Gia, có chung địa giới khoảng 24km
với ranh giới tự nhiên là khe nước lạnh. Phía Nam và tây huyện Quỳnh Lưu giáp
với Diễn Châu và huyện Yên Thành ranh giới tự nhiên khoảng 31km vùng phía
Nam của huyện Quỳnh Lưu có chung khu vực đồng bằng với hai huyện Diễn
Châu và Yên Thành. Phía Tây của huyện Quỳnh Lưu giáp với huyện Nghĩa Đàn
với ranh giới khoảng 33km, được hình thành một cách tự nhiên bằng các dãy núi
kéo dài liên tục mà giữa chúng có nhiều đèo thấp tạo ra những con đường nối
liền hai huyện với nhau. Phía Đơng huyện Quỳnh Lưu giáp biển đơng, trong
điều kiện thời tiết có nhiều mặt khơng thuận lợi, dân cư trong huyện sống chủ
yếu bằng nghề nông nghiệp nên đời sống khó khăn từ đó dẫn tới số người phạm
tội tương đối nhiều, một phần cũng do khả năng nhận thức cũng như mức độ
hiểu bíêt của người dân cịn hạn chế có nhiều lúc phạm tội mà khơng biết.
Trong số các bị cáo xét xử tại tồ án hình phạt chủ yếu được áp dụng là từ
3 năm tù trở xuống và cho hưởng án treo.
Trong năm 2007:
Từ 1/1/2007 đến 31/8/2007: xét xử 131 bị cáo thì có 60 bị cáo được
hưởng án treo và 54 bị cáo chịu hình phạt tù từ 3 năm trở xuống.
1/9/2007 đến 30/9/2007: Xét xử 13 bị cáo thì có 3 bị cáo được hưởng án
treo, 6 bị cáo chịu hình phạt từ từ 3 năm trở xuống.
1/10/2007 đến 31/12/2007: Xét xử 26 bị cáo thì có 8 bị cáo cho hưởng án
treo và 15 bị cáo phải chịu hình phạt tù từ 3 năm trở xuống.
Khi xem xét giải quyết vụ án và quyết định hình phạt tồ án dựa vào
những quy định cụ thể của pháp luật được quy định trong bộ luật hình sự cũng



như các văn bản hướng dẫn liên quan, để giải quyết làm sao cho đúng với những
quy định của pháp luật và phù hợp với hành vi phạm tội của người phạm tội.
Vì án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện nên
trong q trình xét xử vụ án khi cho bị cáo được hưởng án treo toà án cũng rất
cần thiết và quan trọng phải xem xét những căn cứ và quy định của pháp luật để
giải quyết vụ án đó là các căn cứ:
+ Mức hình phạt tù.
+ Nhân thân người phạm tội
+ Có nhiều tình tiết giảm nhẹ
+ Thuộc trường hợp khơng cần bắt chấp hành hình phạt tù.
Dựa trên những căn cứ ấy của pháp luật để áp dụng vào từng trường hợp
từng vụ việc và từng bị cáo cụ thể để đưa ra phán quyết chính xác giúp ngườ
phạm tội có cơ hội nhanh chóng được trở lại hồ nhập với xã hội, cộng đồng.
Là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện nên khi xét xử toà
án xem dựa vào những quy định của pháp luật để giải quyết vụ án cho phù hợp
cho người phạm tội có cơ hội nhanh chóng trở lại với cộng đồng nếu cải tạo tốt.
Phần 3: Xử lý thông tin đã thu thập được.
Theo quy định tại điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999;
1. “Khi xét xử phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người
phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy khơng cần phải bắt chấp hành
hình phạt tù thì toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 1 đến
5 năm.
2. Trong thời gian thử thách toà án giao người phạm tội được hưởng án
treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương
nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có
trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức chính quyền địa phương trong việc tổ
chức giám sát người đó.


3. Người được hưởng án treo có thể chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền,

cấm đảm nhiệm chức vụ cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy
định tại các điều 30 và điều 36 của Bộ luật này”.
Như vậy khi xem xét cho một người được hưởng án treo toà án phải dựa
trên những căn cứ do pháp luật quy định để xem xét giải quyết đó là các căn cứ
được quy định tại khoản 1 điều 60 Bộ luật hình sự đó là các căn cứ:
- Về mức hình phạt tù.
- Về nhân thân người phạm tội.
- Về các tình tiết giảm nhẹ.
- Thuộc về trường hợp khơng cần phải bắt chấp hành hình phạt tù.
Đồng thời qua đó tồ án ấn định thời gian thử thách cho người được
hưởng án treo
Bản án số: 45/2007/HSST ngày 23/11/2007
Nội dung vụ án:
* Nguyễn Nguyên, sinh năm 1957, có mặt.
Trú quán: Xóm 13, xã Quỳnh Ngọc, Quỳnh Lưu, Nghệ An.
Nghề nghiệp: Làm muối.
Trình độ văn hố: Lớp 7/10.
Tiền án, tiền sự: không.
Không bị tạm giữ, tạm giam.
2. Nguyễn Thị Sâm, sinh năm 1982, có mặt.
Trú quán: xóm 5, xã Sơn Hải, Quỳnh Lưu, Nghệ An.
Trình độ văn hố: 12/12.
Nguyễn Nguyên và ông Nguyễn Văn Thôn quen biết nhau từ trước. Tối
ngày 8/7/2007, Nguyễn Nguyên thấy điện thoại của mình có một cuộc gọi nhờ
hiện số máy bàn nhà ông Nguyễn Văn Thôn ở xã Sơn Hải, Quỳnh Lưu, Nguyễn
Nguyên gọi điện thoại để lại số máy điện thoại nhà ơng thơn, thì gặp con gái ơng
Thơn là Nguyễn Thị Sâm nghe máy. Nội dung của cuộc điện thoại là: Nguyễn
Thị Sâm hỏi Nguyễn Nguyên “có mấy thùng pháo có lấy khơng” Nguyễn
Ngun đồng ý mua và hẹn gặp Nguyễn Thị Sâm ở đầu giếng mới xã Sơn Hải,



theo hẹn, Nguyễn Nguyên đi xe máy xuống gặp Nguyễn Thị Sâm và được Sâm
dẫn vào nhà bà Nguyễn Thị Quế. Nguyễn Thị Sâm đã giao cho Nguyễn Nguyên
20 thùng pháo diêm do Trung Quốc sản xuất, trong 4 bao tải mỗi bao đựng 5
thùng pháo (Sâm chỉ thừa nhận đã giao cho Nguyên 3 bao tải bằng 15 thùng
pháo). Nguyễn Nguyên và Nguyễn Thị Sâm thoả thuận mua bán mỗi thùng pháo
là 150.000đ. Nguyễn Nguyên đã trả cho Sâm 450.000đ cịn lại khi nào bán được
pháo thì trả tiếp. ý định của Nguyễn Nguyên là đem số pháo của Nguyễn Thị
Sâm vào Vinh bán kiếm lời, lấy tiền chữa bệnh. Nguyễn Nguyên dùng xe máy
chở 4 bao pháo đó lên để ở quán nước ven đường Quốc lộ 1A, thuộc khối 8 thị
trấn Cầu Giát, khoảng 4 giờ ngày 09/7/2007, Nguyễn Nguyên về nhà lai vợ con
lên nơi dấu pháo. Nguyên đưa pháo ra đường chuẩn bị đón xe ô tô vào Vinh tiêu
thụ thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế – ma tuý công an Quỳnh Lưu
phát hiện bắt giữ.
Tang vật thu được gồm: 4 bao tải đựng pháo, mỗi bao tải đựng 5 thùng
pháo Trung Quốc. Tổng cộng 20 thùng có trọng lượng là 88 kg một xe máy
wave an pha sơn màu xanh, khơng có biển kiểm sốt, một điện thoại di động
sam sung máu trắng đã cũ.
Ngày 10/7/2007, công an huyện Quỳnh Lưu ra quyết định trưng cầu giám
định, xác minh “mẫu ghi thu của Nguyễn Nguyên và Nguyễn Thị Trung gửi tới
giám định là pháo diêm (pháo quẹt nổ).
Chị Nguyễn Thị Trung là vợ của Nguyễn Nguyên có mặt tại nơi vận
chuyển pháo, khối 8 thị trấn Cầu Giát, nhưng kết quả điều tra không chứng minh
được chị Trung đồng phạm cùng Nguyễn Nguyên thực hiện tội phạm nên chị
Trung khơng phải chịu trách nhiệm hình sự, chiếc xe máy Nguyên dùng trong
vận chuyển hàng phạm pháp là xe của ông Nguyễn Xuân Quế, bố đẻ của
Nguyên cho Nguyên mượn sử dụng, ơng Quế khơng biết việc Ngun dùng xe
đó chở hàng phạm pháp, nên cơ quan công an huyện Quỳnh Lưu đã trả lại cho
ông Quế.
Bà Nguyễn Thị Quế không biết số hàng mà Nguyễn Thị Sâm gửi ở nhà bà

là pháo nổ, do vậy bà không phải chịu trách nhiệm hình sự.


Cáo trạng số 51/KSĐT, ngày 30/10/2006 của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Quỳnh Lưu truy tố Nguyễn Nguyên và Nguyễn Thị Sâm về tội: “Buôn
bán hàng cấm”, theo khoản 1 điều 155 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tồ, Viện kiểm sát nhân dân đề nghị:
áp dụng khoản 1 điều 155, điểm p khoản 1 điều 46, khoản 2 điều 46 Bộ
luật hình sự xử phạt:
Nguyễn Thị Sâm từ 06 – 09 tháng tù.
áp dụng khoản 1 điều 155, điểm p khoản 1 điều 46 khoản 2 điều 46,
khoản 1,2 điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt:
Nguyễn Nguyên từ 06 – 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thử thách
từ 18 đến 24 tháng.
Căn cứ vào chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà căn cứ vào kết
quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ , ý
kiến của Viện Kiểm Sát, bị cáo, người làm chứng.
Tại phiên toà, các bị cáo Nguyễn Nguyên và Nguyễn Thị Sâm đã khai
nhận:
Vào tối ngày 08/702007 tại xã Sơn Hải, Quỳnh Lưu, Nguyễn Nguyên và
Nguyễn Thị Sâm đã có hành vi buôn bán pháo nổ (loại pháo quẹt do Trung
Quốc sản xuất ) sau khi hai bên thống nhât giá cả số lượng hàng Nguyễn
Nguyên đã mua của Nguyễn thị Sâm 03 bao tải pháo diêm nói trên để dễ vận
chuyển các bị

cáo đã san số bao tải từ 3 thành 4 bao tải. Nguyễn Nguyên đã

đưa số pháp nổ đó lên Cầu Giát để bán thì đội điều tra cảnh sát công an huyện
Quỳnh Lưu bắt quả tang lập hồ sơ vụ án và thu số pháo nổ nói trên.
Đây là loại hình hàng hố mà nhà nước ta đang cấm sản xuất tàng trữ,

buôn bán, vận chuyển sử dụng do đó hai bị cáo Nguyễn Nguyên và Nguyễn Thị
Sâm bị viện kiểm sát nhân dân huyện quỳnh Lưu truy tố về tội: “ Bn bán
hàng cấm” là có căn cứ và đúng pháp luật. Khi thực hiện hành vi mua bán pháo
nổ Nguyễn Nguyên và Nguyễn Thị Sâm nhận thức rõ việc làm đó bị pháp luật
cấm nhưng do tư lợi nên đã phạm tội. Hành vi đó của các bị cáo đã xâm hại tới
chế độ độc quyền của nhà nước trong việc quản lý, sản xuất mặt hàng trên. Bởi


vậy cần truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo trên để răn đe phòng
ngừa tội phạm.
Trước khi phạm tội các bị cáo có nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự , các
bị cáo khơng có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có các tình tiết giảm nhẹ
quy định tại khoản 1 điều 46 bộ luật hình sự là phạm tội lần đầu thuộc trường
hợp ít nghiêm trọng thành khẩn khai báo ăn năn hối cải. Nguyễn Nguyên đang là
bệnh nhân suy thận ở giai đoạn cuối đang điều trị nội trú tại bệnh viện giao
thông 4 sức khoẻ nguy kịch.
Nguyễn Thị Sâm đang phải nuôi con nhỏ (con mới 6 tháng tuổi) là lao
động c hính trong gia đình đang phải chăm sóc mẹ chồng bị ung thư hồn cảnh
gia đình khó khăn đã được chính quyền địa phương xác nhận. đáng lẽ các bị cáo
phải bị cách ly với xã hội một thời gian nhưng vì các điều kiện nêu trên nên
cần xử phạt tù đối với bị cáo được hưởng án treo thể hiện sự nhân đạo của pháp
luật Việt Nam lấy việc giáo dục thuyết phục làm chính mà vẫn đủ khả năng giáo
dục cải tạo các bị cáo trở thành người có ích. Hiện tại hồn cảnh gia đình các bị
cáo đang gặp khó khăn do vậy khơng cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với các
bị cáo. Bà Nguyễn Thị Quế cho Nguyễn Thị Sâm gửi hàng nhưng do khơng cịn
minh mẫn nên khơng biết đó là hàng cấm. Chị Nguyễn Thị Trung khơng biết
chồng mình mua bán, vận chuyển hàng cấm nên không phải chịu trách nhiệm
hình sự.
Bởi những lẽ trên các bị cáo Nguyễn Nguyên , Nguyễn Thị Sâm phạm tội
“ buôn bán hàng cấm”. áp dụng khoản 1 điều 155 các điểm h,p khoản 1 điều

46, khoản 2 điều 46, khoản 1, khoản 2 điều 60 bộ luật hình sự xử phạt các bị cáo
Nguyễn Nguyên 12(mười hai) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời
gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, Nguyễn Thị Sâm
12(mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 18 (mười
tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao các bị cáo Nguyên và Sâm cho
chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát giáo dục trong thời gian thử thách
án treo gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa
phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.
Như vậy việc khi xem xét cho các bị cáo hưởng án treo toà án phải dựa
vào những quy định trong luật để xem xét giải quyết, những căn cứ ấy được quy


định trong bộ luật cụ thể là tại điều 60 khoản 1 bộ luật hình sự đó là các tình tiết
về mức hình phạt tù, về nhân thân người phạm tội về các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự dựa vào những căn cứ ấy xem xét bị cáo có được hưởng án treo
hay khơng, thuận lợi trong việc xem xét lý lịch của bị cáo, khi cho bị cáo được
hưởng án treo thì bị cáo khơng phải đi tù giúp giảm t ốn kém cho kinh phí của
nhà nước vì nếu khi xét xử một bị cáo đi tù sẽ gây cho nhà nước nhiều khoản chi
phí.
Với bản chất của án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện, nó thể hiện chính sách nhân đạo của luật hình sự Việt Nam của đảng
và nhà nước ta đối với người phạm tội, nó có tác dụng khuyến khích người bị
kết án tu dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích cực của xã hội
cũng như gia đình, đồng thời cảnh báo họ nếu họ phạm tội mới trong thời gian
thử thách thì buộc phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên. Việc cho người phạm
tội được hưởng án treo vừa thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước cũng
đồng thời là nhằm cảnh báo người phạm tội.
Hàng năm toà án nhân dân huyện Quỳnh Lưu xét xử khoảng hơn 100 vụ
án hình sự trong đó án xử trên 50% giao cho chính quyền địa phương vì phần
lớn người phạm tội là thành thiếu niên với các tội : trộm cắp, cướp giật… nhưng

mới ở mức độ nhẹ nên giao các bị cáo này cho chính quyền địa phương phối hợp
cùng gia đình để giám sát và giáo dục các bị cáo. Nguyên nhân phạm tội là do
chủ yếu không chịu học hành, đua đòi ăn chơi cùng bạn bè, gia đình thiếu sự
quan tâm chăm sóc con cái.
Số liệu thống kế: Năm 2006

Tháng
1/1 – 30/8/06
1/9 -30/9/06
1/10 – 31/12/06

Tổng
xét xử
vụ
bị cáo
vụ
bị cáo
37
61
34
54
6
11
6
11
28
56
22
48
Hình 1. Thống kê số lượng án treo năm 2006


án treo
19
4
22

Trong năm 2006 có 71 vụ với 138 bị cáo, xét xử 62 vụ với 113 bị cáo có
45 bị cáo được hưởng án treo chiếm khoảng 39,8%
Năm 2007:

Tháng

Vụ

Tổng
Bị cáo

Xét xử
Vụ
Bị cáo

án treo


1/1 – 30/8/2007
78
136
75
131
1/9 – 30/9/2007

11
13
11
13
1/10 – 31/12/2007
19
29
18
26
Hình 2. Thống kê số lượng án treo năm 2007

60
3
8

Năm 2007 tổng 110 vụ với số lượng bị cáo là 178 xét xử 104 vụ, với 1`70
bị cáo có 71 bị cáo hưởng án treo chiếm 41,76% . Trong năm 2007 số bị cáo
được hưởng án treo chiếm tỷ lệ khá cao với các tội chủ yếu: trộm cắp tài sản,
cướp tài sản… phạm tội chủ yếu là vị thành niên. Khi xét cho hưởng án treo
thuận lợi chủ yếu dựa vào Điều 60 khoản 1 Bộ Luật Hình Sự, các tình tiết giảm
nhẹ được quy định tại khoản 1, khoản 2 điều 46 .
Bên cạnh những thuận lợi cịn có những khó khăn. Sau khi xử phạt phần
lớn các án không được thi hành một cách nghiêm túc và triệt để, sau khi xét xử
chuyển quýêt định cho nơi giám sát giáo dục bị cáo thì khơng được thi hành
triệt để dẫn tới tình trạng án xử xong rồi để đấy “án tại hồ sơ”. Khi xét xử các bị
cáo xong có rất nhiều địa chỉ như sinh viên, học sinh, địa chỉ nhà, địa chỉ trường
nên không biết phải gửi về đâu. Chính vì những khó khăn trên nên xét xử án treo
khơng có hiệu quả, khơng đi vào thực tế .
Do vậy cần phải có biện pháp khắc phục như : Pháp luật cần phải quy
định một cách chặt chẽ để dễ dàng trong việc áp dụng, các cơ quan phối hợp một

cách trịêt để, có sự liên kết giữa các cơ quan chức năng và chính quyền địa
phương trong việc giám sát giáo dục. Nhà nước cần có chính sách đầu tư vào địa
phương xây dựng tủ sách pháp luật có các văn bản quy định rõ ràng để dễ dàng
thực hiện, nâng cao trình độ hiều biết pháp luật của người dân bằng cách tuyên
truyền và phổ biến pháp luật.
Phần 4: Nhận xét, kiến nghị
Với bản chất của án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện
Theo quy định tại điều 60 bộ luật hình sự : “khi xử phạt tù không quá ba
năm căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét
thấy khơng cần thiết phải cách lý khỏi xã hội thì tồ án xử cho hưởng án treo và
án định thời gian thử thách từ một đến năm năm”.


án treo thể hiện tình hình nhân đạo của luật hình sự Việt Nam có tác dụng
khuỷến khích người bị kết án tu dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ
tích cực của xã hội cũng như cộng đồng và gia đình. Khi xét xử một vụ án cụ thể
để áp dụng cho đúng những quy định của pháp luật thẩm phán giải quyết vụ án
luôn dựa vào những căn cứ:
Về mức hình phạt tù:
Mức hình phạt tù là căn cứ đầu tiên để toà án xem xét cho ngưồ bị kết án
có được hưởng án treo hay khơng;
Những người bị tồ án tun phạt tù khơng q ba năm khơng kể tội đã
phạm là tội gì đều có thể được xét cho hưởng án treo. Trường hợp người bị xét
xử trong cùng một lần về tội mà hình phạt chung khơng vượt q ba năm thì
cũng thuộc được xét cho hưởng án treo: Tuy vậy trong những trường hợp như
thết thì tồ án xem xét một cách thận trọng và chặt chẽ để quyết định cho hưởng
án treo hay khơng. Mặc dù vậy mức hình phạt tù không quá ba năm được tuyên
phải phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm trên cơ sở căn
cứ hình phạt áp dụng cho từng trường hợp cụ thể.


Về nhân thân người phạm tội:
Người được toà án xét cho hưởng án treo phải là người có nhân thân tốt
vì đặc điểm nhân thân của người phạm tội không chỉ là căn cứ quan trọng để
quyết định hình phạt mà cịn là căn cứ cần thiết để xem xét người phạm tội với
điều kiện cụ thể có khả năng tự giáo dục cải tạo hay khơng để quyết định có cho
hưởng án treo hay khơng.
Người phạm tội được coi là nhân thân tương đối tốt phải là người chấp
hành đúng chính sách pháp luật của đảng và nhà nước phải thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ của bản thân v ới tư cách là thành viên trong xã hội, chưa có tiền án
tiền sự khi đánh giá về nhân thân người phạm tội toà án đã xem xét toàn diện tất
cả các đặc điểm về nhân thân, trong đó những đặc điểm về nhân thân ảnh hưởng
đến khả năng tự giáo dục, cải tạo, thái độ của người phạm tội sau khi gây án và



×