Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận tn giải pháp cơ bản đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.79 KB, 26 trang )

THU HOẠCH

Số phách
Điểm
Bằng số

Bằng chữ

THU HOẠCH

Họ và tên: NGUYỄN NGỌC VINH

Số phách

Ngày sinh: 08/8/1971

Người chấm
(Ký ghi rõ họ tên)

Lớp: HCCTCCLLCT Khóa: 11

Khoa: Nhà nước và pháp luật
Lớp: HCCTCCLLCT Khóa: 11
Ngày nộp: 24/8/2022

Ngày nộp: 24/08/2022

GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ
THỐNGCHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY



2
MỤC LỤC
Số TT

I

Nội dung

Trang

MỞ ĐẦU

03

NỘI DUNG

04

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
VIỆT NAM

04

Cấu trúc hệ thống chínhtrị xã hộichủ nghĩa Việt Nam

04

1.1.1

Thể chế chính trị


04

1.1.2

Quan hệ chính trị

05

1.1.3

Nguyên tắc và cơ chế vận hành hệ thống chính trị nước ta

07

1.2

Đặc điểm hệ thống chínhtrị xã hộichủ nghĩa ở nước ta

08

II

TÍNH TẤT YẾU ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

10

2.1


Tính tất yếu đổi mới hệ thống chính trị XHCN ở nước ta

10

1.1

2.2.1

Phương châm và nguyên tắc cơ bản đổi mới hệ thống
chính trị XHCN ở nước ta hiện nay
Phương châm

2.2.2

Nguyên tắc

14

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỔI MỚI HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

15

2.2

III
3.1
3.2
3.3
3.4

IV

Phân định rõ chức năng, phạm vi quyền lực và quan hệ
của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị
Xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo,
năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội
TRÁCH NHIỆM CỦA BẢN THÂN VÀ ĐƠN VỊ THAM
GIA XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CHÍNH TRỊ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA, NHẤT LÀ HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ HIỆN NAY
KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

14
14

15
17
10
21
22
25
26



MỞ ĐẦU

Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một chỉnh thể bao gồm
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, hoạt động nhằm duy
trì và bảo vệ quyền lực, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà nước
quản lý. Đảng Cộng sản Việt Nam, với tư cách là đội tiên phong của giai cấp
công nhân và đại biểu cho lợi ích của Nhân dân lao động và của toàn dân tộc,
lãnh đạo toàn bộ xã hội thơng qua nhà nước và các đồn thể Nhân dân; bộ máy
nhà nước có chức năng quản lý mọi mặt đời sống xã hội; các đồn thể Nhân dân
có chức năng tập hợp các giai cấp, tầng lớp xã hội tham gia việc quản lý nhà
nước, quản lý xã hội. Hệ thống chính trị Việt Nam đã thể hiện tính ưu việt trong
suốt q trình cách mạng Việt Nam, được đơng đảo Nhân dân đồng tình ủng hộ.
Đổi mới, hồn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở nhằm xây
dựng tổ chức bộ máy đồng bộ, tinh gọn, có tính ổn định, phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng hợp lý, có phẩm chất
chính trị, đạo đức, có trình độ, năng lực chun mơn, nghiệp vụ ngày càng cao,
đó là mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị nước ta mà Đảng đã xác định. Trải qua
hơn ba mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới, trong tiến trình ấy, chúng ta
khơng chỉ đổi mới kinh tế, mà cịn đổi mới Hệ thống chính trị, bảo đảm tính
thống nhất và đồng bộ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; hệ thống chính
trị của nước ta đã có những bước chuyển biến quan trọng, tích cực. Thực tiễn
cho thấy, đổi mới hệ thống chính trị nước ta là một đòi hỏi khách quan và đây là
một chủ trương đúng đắn của Đảng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII,
Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại” 1 là
một trong những đòi hỏi cấp thiết, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
1


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG-ST, HN.2021, tr.57


NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

1.1 Cấu trúc hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.1.1. Thể chế chính trị
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, về mặt thể chế bao gồm:
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội (Tổng Liên đồn Lao
động Việt Nam, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nơng dân Việt Nam). Trong hệ
thống chính trị Việt Nam, Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị. Đảng
cộng sản Việt Nam là hạt nhân của hệ thống chính trị, lãnh đạo nhà nước và xã
hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Là Ðảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã
hội. Ðảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách
và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động tổ chức,
kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Ðảng thống
nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng
viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh
đạo của hệ thống chính trị. Ðảng lãnh đạo thơng qua tổ chức đảng và đảng viên
hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị.
Nhà nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Bao gồm Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp (Tồ án và Viện kiểm sát nhân dân).
Nhà nước đang được xây dựng là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội (Tổng Liên

đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam):
là một bộ phận của hệ thống chính trị; là cơ sở chính trị của chính quyền Nhân
dân.
1.1.2. Quan hệ chính trị
Trong hệ thống chính trị nước ta, các quan hệ chính trị được xác lập do


một cơ chế chủ đạo (và cũng là quan hệ chủ đạo) là: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ”.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước
và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
sách và chủ trương lớn; bằng cơng tác tun truyền, thuyết phục, vận động, tổ
chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những
đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan
lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng
viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách
nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực
cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trị, tính chủ
động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của Nhân dân, hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. “Xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn
thiện, hoạt động có hiệu quả hơn, bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”2.
Nhà nước quản lý: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước

thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp
nơng dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực
nhà nước là thống nhất; có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban
hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ Nhân dân, gắn bó mật thiết
với Nhân dân, thực
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb CTQG Hà Nội 2021, . tr71


hiện đầy đủ quyền dân chủ của Nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của Nhân
dân và chịu sự giám sát của Nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn
ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vơ trách nhiệm, lạm quyền,
xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị
mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của Nhân dân. Tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân cơng,
phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. “Sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc đực củng cố, dân chủ xã hội chủ nhĩa tiếp tục được
phát huy”3.
Nhà nước quản lý xã hội trước hết bằng hệ thống quy phạm pháp luật,
bằng hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước từ các bộ đến các cơ sở, trong đó
khơng loại trừ các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thực hiện sự nghiêm minh
của pháp luật. Nhà nước thực hiện quản lý trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, xã hội, quản lý theo ngành hoặc lãnh thổ theo cấp vĩ mô hoặc vi mô. Nhà
nước thực hiện sự quản lý bằng cả chính sách, các cơng cụ địn bẩy khác... Mục
tiêu của quản lý nhà nước là phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của Nhân dân,
phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, đảm bảo cho Nhân dân được làm tất cả
những gì mà pháp luật không cấm, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành
phần kinh tế, nhằm phát triển nhanh và mạnh mẽ lực lượng sản xuất của đất
nước.

Quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là quan hệ phối
hợp hành động, được thực hiện theo Quy chế phối hợp công tác do ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cơ quan hữu quan ở từng cấp ban ngành. Đảng Cộng sản
Việt Nam vừa là người lãnh đạo Mặt trận vừa là thành viên của Mặt trận. Vì vậy
quan hệ giữa Đảng và Mặt trận Tổ quốc vừa là quan hệ lãnh đạo vừa là quan hệ
hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động: “Thực hành và phát
huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của
Nhân dân, củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường sự đồng thuận
của xã hội”4.

3
4

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG Hà Nội 2021,. tr70
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG Hà Nội 2021,. tr 38


Các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong khi tuân theo điều
lệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đồng thời vẫn giữ tính độc lập của tổ chức
mình: “Đổi mới tổ chức, bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo phương châm hướng mạnh về
cơ sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vài trò giám sát, phản biện xã hội, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và Nhân dân.
Củng cố, tăng cường lịng tin, sự gắn bó của Nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế
đội xã hội chủ nghĩa”5.
Nhân dân làm chủ, trước hết được xác định ở địa vị chủ thể quyền lực nhà
nước. Chỉ Nhân dân mới có chủ quyền đối với quyền lực nhà nước. Nhưng
Nhân dân ủy quyền cho các đại biểu của mình và giám sát đại biểu đó trong q
trình thực thi quyền lực nhà nước. Nhân dân cịn làm chủ bằng các hình thức
trực tiếp và gián tiếp (thông qua các đại biểu, các cơ quan dân cử và các đoàn

thể của dân). Ngày nay quyền làm chủ của Nhân dân ở nước ta không chỉ được
đảm bảo bằng Hiến pháp, pháp luật, mà bằng hệ thống truyền thông, các phương
tiện thông tin đại chúng, các cuộc vận động, thông qua thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, thơng qua vai trị
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể Nhân dân.
1.1.3. Nguyên tắc và cơ chế vận hành hệ thống chính trị nước ta
Hệ thống chính trị Việt Nam vừa hoạt động theo những ngun tắc phổ
biến của hệ thống chính trị nói chung: Nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân; nguyên tắc ủy quyền có điều kiện và có thời hạn (thơng qua bầu cử tự
do, bình đẳng, phổ thơng, trực tiếp và kín); các nguyên tắc đặc thù khác như:
Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc hoạt động cơ bản của hệ
thống chính trị. Riêng Mặt trận tổ quốc Việt Nam hoạt động trên nguyên tắc
đồng thuận, hiệp thương dân chủ.
Nguyên tắc quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất, không phân chia,
5

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG Hà Nội 2021,. tr 43


nhưng có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
1.2 Đặc điểm hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Các bộ phận trong hệ thống chính trị Việt Nam được kết nối với nhau
theo những quan hệ, cơ chế và nguyên tắc vận hành nhất định, trong một môi
trường văn hóa chính trị đặc thù, chính vì vậy hệ thống chính trị nước ta có
những đặc điểm riêng:
Một là, nhất nguyên chính trị. Lịch sử từ khi ra đời đến nay, hệ thống
chính trị ở Việt Nam cơ bản là thể chế nhất ngun chính trị, khơng tồn tại các

đảng chính trị đối lập. Hệ thống chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức
và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam. Đảng là một tổ chức trong hệ thống
chính trị nhưng có vai trị lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đảng là
đại biểu cho ý chí và lợi ích thống nhất của các dân tộc, Đảng ta trở thành Đảng
chính trị duy nhất có khả năng tập hợp quần chúng lao động đông đảo để thực
hiện lý tưởng của Đảng, Nhân dân tự nguyện đi theo Đảng, thừa nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng trong thực tế. Đây là đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị
ở nước ta.
Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị được thể hiện ở tính
nhất nguyên tư tưởng, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta đều lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động. Hệ thống chính trị nước ta là sự kế thừa và phát triển từ hệ thống
chính trị trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân về bản chất, nền
tảng xã hội và mục tiêu cơ bản, do vậy hệ thống chính trị nước ta mang tính định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, mang tính thống nhất về tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc này được tất cả các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở nước ta thực hiện. Bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí,
vai trị, chức năng khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo
thành một thể thống nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong
phú về tổ chức,


phương thức hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để phát hiện sức
mạnh tổng hợp và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị Việt Nam được thể hiện: Sự lãnh
đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam;
thống nhất về mục tiêu chính trị của tồn bộ hệ thống là xây dựng chủ nghĩa xã
hội Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;

thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân
chủ… Ba là, mọi quyền lực thuộc về Nhân dân, hệ thống chính trị có tính
Nhân
dân rộng rãi. Hệ thống chính trị Việt Nam khơng chỉ gắn với chính trị, quyền
lực chính trị, mà còn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tổ chức
chính trị (như Đảng, Nhà nước), các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có tính xã
hội (như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác). Do vậy, hệ
thống chính trị khơng đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội (như những lực lượng
chính trị áp bức xã hội trong các xã hội có bóc lột), mà là một bộ phận của xã
hội, gắn bó với xã hội. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội
chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong hệ thống
chính trị nước ta nguồn gốc của quyền lực bắt nguồn từ Nhân dân; hệ thống
chính trị là thiết chế bảo đảm quyền dân chủ của Nhân dân thơng qua các hình
thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện và gắn bó mật thiết với Nhân dân,
chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc của
hệ thống chính trị Việt Nam.
Bốn là, kết hợp nhuần nhuyễn giữa bản chất giai cấp công nhân với tính
Nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Hệ thống chính trị nước ta là sản phẩm cuộc
đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền và bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc,
bảo vệ nền độc lập dân tộc; vừa đại diện cho giai cấp, vừa đại diện cho dân tộc.
Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được thể hiện trong bản chất của
từng tổ chức thuộc hệ thống chính trị đồng thời hệ thống chính trị nước ta đã kế
thừa những giá trị truyền thống; kết hợp dân tộc với hiện đại và kế thừa có chọn
lọc các giá trị chung của lồi người. Hệ thống chính trị nước ta bảo đảm sự
thống


nhất giữa bản chất giai cấp cơng nhân và tính Nhân dân, tính dân tộc rộng rãi.
Đây là đặc điểm khác biệt căn bản của hệ thống chính trị ở nước ta với hệ thống
chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội

chủ nghĩa, sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp công nhân, Nhân dân lao động
cũng như cả dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân
chủ, văn minh.
II. TÍNH TẤT YẾU ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1. Tính tất yếu đổi mới hệ thống chính trị XHCN ở nước ta
Trong chặng đường hơn 35 năm đổi mới vừa qua, hệ thống chính trị của
đất nước đã có những bước chuyển biến quan trọng. Vai trò lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục được khẳng định, giữ vững và
ngày càng nâng cao. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân đang được chúng ta tiến hành một cách chủ động, tự giác và
thận trọng. Các tổ chức, đoàn thể khác thuộc hệ thống chính trị nước ta được
củng cố một bước quan trọng, đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt
động. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố,
xã hội được tôn trọng, phát huy và thực hiện ngày càng đầy đủ hơn. Thực tiễn
của đất nước cho thấy, sự vững mạnh và hoạt động có hiệu quả của hệ thống
chính trị là yếu tố đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng quyết định đối với sự
nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đổi mới và kiện tồn tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta
hiện nay là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước; là một địi hỏi mang tính tất yếu, khách quan, xuất phát từ những
vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, đây là xu hướng chung của mọi quốc gia, dân tộc. Đổi mới hệ
thống chính trị là một địi hỏi thực tiễn khách quan là biểu hiện của quy luật về
sự phù hợp giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng thường
xuyên vận động biến đổi dẫn đến kiến trúc thượng tầng có sự biến đổi cho phù


hợp. Thực tiễn luôn vận động và phát triển không ngừng. Do vậy, chúng ta

khơng thể duy trì mãi mơ hình, phương thức hoạt động cũ của hệ thống chính trị
trong khi điều kiện kinh tế - xã hội và những yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng
trong tình hình mới đã phát triển lên một bước cao hơn; trình độ dân trí cũng cao
hơn. Nói cách khác, để hệ thống chính trị ln theo kịp sự vận động, phát triển
của cuộc sống, phát huy vai trò hướng dẫn, định hướng sự phát triển xã hội đi
đúng quỹ đạo xã hội chủ nghĩa, phù hợp với các quy luật khách quan, đương
nhiên, hệ thống chính trị cũng phải ln có sự phát triển, đổi mới.
Đổi mới hệ thống chính trị là việc làm thường xuyên đối với các quốc gia,
cả các nước đang phát triển và các nước phát triển đều xem đổi mới hệ thống
chính trị như một động lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trường kinh tế, phát triển
dân chủ và các mặt khác của đời sống xã hội. Mặt khác, trình độ dân trí và tinh
thần dân chủ ngày càng cao đã đặt ra những yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị.
Thứ hai, đổi mới hệ thống chính trị nhằm đáp ứng sự nghiệp đổi mới,
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc đổi mới toàn diện các lĩnh vực của
đời sống xã hội, trước hết là đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, chỉ có thể được thực
hiện và dựa trên cơ sở vững chắc khi có sự đổi mới tương ứng của hệ thống
chính trị. Sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc chuyển sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước
cùng với những tác động tích cực của q trình hội nhập quốc tế và sự phát triển
của cách mạng khoa học - công nghệ,… là tiền đề quan trọng góp phần tạo nên
những thành tựu to lớn trong lĩnh vực phát triển kinh tế của đất nước trong thời
gian qua. Tuy nhiên, những kết quả quan trọng đó chỉ thực sự được tiếp tục phát
huy và ngày càng trở nên bền vững khi có sự đổi mới tương ứng của hệ thống
chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực và hiệu
quả hoạt động của Đảng Cộng sản với tư cách Đảng cầm quyền.
Thứ ba, đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta nhằm đáp ứng yêu cầu hội
nhập khu vực và quốc tế. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện đang là xu thế



tất yếu, khách quan, tác động mạnh mẽ tới tất cả các quốc gia, dân tộc, đến đời
sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại, cũng như cuộc sống của mỗi con người.
Tồn cầu hố và hội nhập quốc tế không chỉ tạo ra cho các nước những cơ hội,
mà cả những thách thức to lớn. Trong các thách thức đó thì thách thức về văn
hố, về việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, các giá trị truyền thống được
coi là một trong những thách thức lớn nhất đối với các nước đang phát triển. Đối
với Việt Nam, thách thức đó khơng phải là ngoại lệ. Vấn đề đặt ra với chúng ta
là làm thế nào để vừa giữ được bản sắc dân tộc, vừa loại bỏ được những truyền
thống đã trở nên lỗi thời, lạc hậu và tiếp thu được những tinh hoa văn hoá nhân
loại nhằm phát huy bản sắc dân tộc trong xu thế tồn cần hố hiện nay.
Thứ tư, từ âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch thực hiện chiến lược
"diễn biến hịa bình"chống phá cách mạng nước ta. Sự biến chuyển nhanh chóng
của tình hình thế giới địi hỏi chúng ta phải có những đổi mới hệ thống chính trị
cho phù hợp với hồn cảnh, u cầu và nhiệm vụ mới. Như chúng ta đã biết, sự
sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
thuộc Đông Âu trước đây bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan, trong đó, có nguyên nhân do sự xơ cứng, máy móc, thiếu linh hoạt của hệ
thống chính trị, trước hết là vai trò của Đảng Cộng sản với tư cách đảng cầm
quyền. Chính điều này đã làm giảm hiệu quả hoạt động và sức chiến đấu của hệ
thống chính trị tại các nước này, và cuối cùng, khi cuộc “cách mạng nhung lụa”
được các thế lực thù địch đẩy đến “điểm nút”, đã nhanh chóng dẫn đến sự đổ vỡ
của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, trong bối cảnh tồn cầu hố kinh tế, hội nhập quốc
tế trở thành một xu thế chung và đặc biệt, các thế lực thù địch ngày càng đẩy
mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình” hướng vào phong trào cách mạng thế
giới, trước hết là nhằm chống phá các nước xã hội chủ nghĩa cịn lại, chúng ta
phải có sự đổi mới để tăng cường năng lực cũng như hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới.
Thứ năm, từ thực trạng của hệ thống chính trị nước ta, bên cạnh những
thành tựu, ưu điểm, còn nhiều những hạn chế về tổ chức và hoạt động. Thực tế



cho thấy, hệ thống chính trị của nước ta hiện cịn nhiều vần đề cần được khắc
phục, giải quyết. Nhìn chung, cơ cấu bộ máy của Đảng và các tổ chức thuộc hệ
thống chính trị ở các cấp hiện cịn khá cồng kềnh, đầu mối tổ chức và biên chế
ngày càng tăng. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một số cơ quan, tổ chức
trong hệ thống chính trị chưa được quy định rõ ràng, chưa được thực hiện đầy
đủ, đơi khi cịn chồng chéo, trùng lặp và phân tán. Chức năng, nhiệm vụ quy
định cho bộ, ngành này nhưng lại do bộ, ngành khác thực hiện. Có chức năng,
nhiệm vụ do một số bộ, ngành và Uỷ ban Nhân dân địa phương cùng thực hiện
nhưng lại chưa có cơ quan nào đứng ra chủ trì và chịu trách nhiệm chính.
Chất lượng của các hoạt động nghiên cứu, thẩm định, hướng dẫn, kiểm
tra… của các cơ quan tham mưu còn có những hạn chế nhất định. Ban cán sự
Đảng, đồn ở các ngành Trung ương và các địa phương còn lúng túng trong việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Một số tổ chức chính trị - xã hội vẫn chưa khắc
phục được phương thức hoạt động cũ, mang tính hành chính hố trước đây; chưa
phát huy vai trị và hồn thành tốt chức năng vận động, tổ chức và hướng dẫn
quần chúng nhân dân trong việc thực hiện những chủ trương, chính sách của
Đảng và nhà nước. Điều này làm ảnh hưởng khơng nhỏ đến tính hiệu lực, hiệu
quả của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý, điều hành các hoạt động của
đời sống xã hội.
Đội ngũ cán bộ hiện nay, xét cả về chất lượng và số lượng, chưa ngang
tầm với những yêu cầu mới, ngày càng cao của giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá đất nước và hội nhập với thế giới; đặc biệt, một số nơi có tình
trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ (nhiều cán bộ yếu kém năng lực chuyên mơn,
thiếu cán bộ nghiên cứu và chun gia giỏi). Trình độ tổ chức, quản lý của đội
ngũ cán bộ trong các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị cịn thấp, khơng
đồng bộ. Một số cán bộ có chức, có quyền có biểu hiện tham vọng cá nhân cục
bộ, kèn cựa địa vị, cơ hội, gia trưởng độc đoán, quan liêu, ức hiếp nhân dân,
kém ý thức tổ chức kỷ luật, phát ngôn và làm việc tuỳ tiện, gây mất đoàn kết nội
bộ nghiêm trọng. Những biểu hiện này đang có chiều hướng gia tăng, làm ảnh



hưởng đến việc phát huy vai trò lãnh đạo và tăng cường sức chiến đấu của Đảng,
nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước. Trước những biến động
phức tạp trên thế giới và tình hình trong nước cịn nhiều khó khăn, cũng như do
sự nhận thức mơ hồ, lệch lạc về chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội, một
bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện dao động, giảm sút niềm tin, hồi nghi
đối với đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước. Tư
tưởng chạy theo đồng tiền, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu… làm cho
một bộ phận cán bộ, đảng viên xa rời lý tưởng, sa sút phẩm chất đạo đức, lối
sống… ảnh hưởng đến uy tín và sức chiến đấu của Đảng, đến năng lực và hiệu
quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, việc đổi mới hệ thống chính trị ở nước
ta hiện nay, xét cả trên phương diện lý luận lẫn phương diện thực tiễn, là một
địi hỏi mang tính tất yếu, khách quan.
2.2. Phương châm và nguyên tắc cơ bản đổi mới hệ thống chính trị
XHCN ở nước ta hiện nay
2.2.1. Phương châm: Thực hiện đổi mới từng bước vững chắc, trên cơ sở
đổi mới kinh tế. Khâu mấu chốt là phân định rõ chức năng và giải quyết các mối
quan hệ giữa Đảng, nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
2.2.2. Nguyên tắc: Đổi mới Hệ thống chính trị tức là đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động; cũng như mối quan hệ giữa các tổ chức chính trị hợp
pháp trong hệ thống chính trị; chứ khơng được thay đổi mục tiêu và con đường
XHCN, không chấp nhận “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, gây rối loạn xã
hội. Quá trình đổi mới tuân thủ các nguyên tắc: Tạo điều kiện cho ổn định phát
triển kinh tế - xã hội; bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam với hệ thống chính trị và tồn xã hội tăng cường hiệu quả
của hệ thống chính trị theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; bảo
đảm quyền làm chủ Nhân dân; đồng thời với quyết tâm phòng, chống quan liêu
tham nhũng có hiệu quả.



III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỔI MỚI HỆ THỐNG

CHÍNHTRỊ XÃ HỘI CHỦNGHĨAỞ NƯỚC TA HIỆN NAY
Đổi mới, hồn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay, trước hết cần tiếp tục quán triệt sâu sắc các nghị quyết và kết luận của
Trung ương Đảng về đổi mới, hồn thiện hệ thống chính trị như: Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5 khóa IX “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính
trị cơ sở xã, phường, thị trấn”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa X “Về
đổi mới, kiện tồn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi mới tổ
chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội”; Kết
luận số 64-KL/TW, ngày 28-5-2013, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về
“Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hồn thiện hệ thống chính trị từ trung ương
đến cơ sở”… và gần đây nhất là Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của
Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp
tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14 ngày 12/3/2019 về sắp xếp các đơn vị
hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019-2021. Nghị quyết số 37- NQ/
TW của Bộ Chính trị về sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong
giai đoạn 2016-2021 và hướng đến giai đoạn 2022-2030, trong đó tập trung thực
hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
3.1. Phân định rõ chức năng, phạm vi quyền lực và quan hệ của các
bộ phận cấu thành hệ thống chính trị
Đây là một trong những giải pháp quan trọng, bởi vì:
Thứ nhất, là cơ sở để hệ thống chính trị được thiết kế tổ chức rõ ràng và
hoạt động theo đúng chức năng.
Thứ hai, từ thực tế hiện nay: tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn
còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động
chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ

máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, cịn chồng chéo,
trùng lắp...Việc phân cơng, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và


trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; cịn tình trạng
bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của
cấp uỷ cấp tỉnh, cấp uỷ cấp huyện chưa cụ thể hoá đầy đủ; thiếu quy định khung
quy chế làm việc của cấp uỷ các cấp. Số lượng, cơ cấu, chất lượng cấp uỷ viên,
uỷ viên ban thường vụ cấp uỷ các cấp còn một số bất cập. Năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của khơng ít cấp uỷ, tổ chức đảng còn yếu, nhất là ở một số cơ sở
và trong doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập…Năng lực quản lý,
điều hành và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của một số cơ quan nhà nước cả ở
Trung ương và địa phương còn hạn chế. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành,
các địa phương có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ. Chưa phân định thật rõ tính đặc thù
của chính quyền đơ thị, nơng thơn, hải đảo.
Tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể chính trị - xã hội chậm đổi mới, một số nhiệm vụ còn trùng lắp, vẫn
cịn tình trạng "hành chính hố", "cơng chức hố". Cơ cấu cán bộ, công chức,
viên chức giữa các cấp và trong từng cơ quan chưa hợp lý; năng lực, trình độ
của đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở cịn hạn chế. Nội dung và phương
thức hoạt động có lúc, có nơi chưa thiết thực, hiệu quả, thiếu sâu sát cơ sở. Cơ
chế phân bổ ngân sách nhà nước đối với Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính
trị - xã hội còn bất cập; một số quy định về tổ chức, hoạt động và cơ chế quản
lý tài chính, tài sản đối với tổ chức cơng đồn chưa phù hợp. Tổ chức hội quần
chúng lập nhiều ở các cấp, nhưng cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động chủ yếu
vẫn dựa vào ngân sách nhà nước.
Giải pháp: Xác định rõ chức năng của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội. Đổi mới quan hệ giữa Đảng và nhà nước, bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng, nhưng phải bảo đảm vai trị chủ động tích cực của

nhà nước. Cụ thể hóa cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ. Đổi mới cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, xác định rõ trách nhiệm
của các chủ thể chính trị trong các hoạt động chung. Đổi mới phương thức lãnh


đạo của Đảng đối với nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các thành viên. Đổi mới,
kiện toàn bộ máy của Đảng, nhà nước, Mặt trận theo hướng tính gọn, hiệu lực,
hiệu quả.
3.2. Xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực
cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng
Một là, trong đổi mới hệ thống chính trị, phải giữ vững vai trò lãnh đạo, vị
thế cầm quyền của Đảng - đó là vấn đề có tính nguyên tắc, bất di, bất dịch. Để
bảo đảm được điều đó, phải làm tốt cơng tác xây dựng Đảng để Đảng có đủ năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu trong mọi hoàn cảnh. Muốn vậy, Đảng phải đứng
vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù
hợp với xu thế lịch sử, thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và
của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp;
khơng dao động trong bất cứ tình huống nào. Kiên định đường lối đổi mới,
chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vơ nguyên tắc.
Hai là, phải tiếp tục xây dựng Đảng trở thành một “đảng đạo đức, văn
minh”, cách mạng và khoa học, trong sạch và vững mạnh, thật sự vì lợi ích của
mỗi người dân và lợi ích của cả dân tộc, phấn đấu cho một xã hội của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân; từng cán bộ, đảng viên của Đảng phải là những
người trung thành, tận tụy, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, “khổ trước thiên
hạ, sướng sau thiên hạ”, xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
của Nhân dân. “Mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức cách mạng, thực sự là một tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán
bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và Nhân dân…

Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng
và Nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Các tổ
chức đảng tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao động có năng suất, chất


lượng, hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Đẩy mạnh tự
phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng”.
Ba là, với tư cách là thủ lĩnh chính trị, được Nhân dân ủy thác, Đảng phải
đưa ra được những quyết sách chính trị đúng đắn, khoa học, khách quan, phù
hợp, hướng vào mục tiêu vì hạnh phúc của Nhân dân. Vì vậy, phải “Tăng cường
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm
quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và
những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, khơng ngừng phát triển lý
luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc
phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận”.
Bốn là, chăm lo xây dựng, củng cố, giữ gìn sự đồn kết, thống nhất trong
Đảng “như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Giữ vững và thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc tập trung dân chủ. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của
Đảng; kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên.
Năm là, chăm lo thật tốt “công việc gốc của Đảng” - công tác cán bộ, ở tất
cả các khâu, công đoạn, bảo đảm đúng quy trình, dân chủ, khách quan, để chọn
được những người xứng đáng, đúng là tinh hoa của tập thể, được tập thể suy tơn.
Đó là những cán bộ vững vàng về lập trường chính trị, có tinh thần trách nhiệm
cao trong cơng tác, có thái độ tơn trọng luật pháp và thực sự “cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng, vô tư”. “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ.
Thực hiện tốt chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của
công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát
hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có
tài… Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã

được bổ sung, hồn thiện, lấy hiệu quả cơng tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân
dân làm thước đo chủ yếu… Đổi mới, trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản
lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển”.


Sáu là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị theo hướng dân chủ, hiệu quả.
Tập trung lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân đủ mạnh, với hệ thống luật pháp mang đặc trưng
đó ngày càng hồn chỉnh, đồng bộ.
Bảy là, Đảng thật sự tôn trọng dân chủ, phát huy có hiệu quả trong thực tế
vai trị của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội trên mọi phương
diện thuộc chức năng của các tổ chức này, đồng thời đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của chúng; khắc phục tình trạng hành chính hóa. “Tập trung rà
sốt, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế,
quy định, quy trình cơng tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện,
làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước… Đổi mới
phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương
đến địa phương, cơ sở… Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục tình trạng rườm rà,
bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp; sâu sát thực tế, cơ sở; nói đi đơi
với làm”’; “Tiếp tục xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là
nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của nhà nước.” 6.
Tám là, chăm lo nâng cao trình độ dân trí, nhất là trình độ văn hóa pháp
lý, văn hóa dân chủ, văn hóa chính trị, nhằm làm cho nhân dân lao động hiểu
biết và sử dụng quyền dân chủ, thực hành dân chủ một cách đúng đắn, hiệu quả.
3.3. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân

dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Đây là yếu tố quyết định trực tiếp sự thành cơng, tính hiệu quả trong vận
hành của HTCT- hình thức thể hiện và cơ chế vận hành của thể chế chính trị dân
chủ XHCN. Trong q trình đổi mới, Đảng ta đã khẳng định nhất quán đường
6

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, Tr174.


lối xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân
và vì Nhân dân. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Xác định rõ hơn vị
trí, chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền,
bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng rành mạch, phối
hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”.
Để tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân, Đại hội XIII của Đảng xác định: “ Đảng lãnh đạo, nhà
nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội làm nịng cốt để
Nhân dân làm chủ” và chỉ ra 4 nội dung chủ yếu: Hoàn thiện pháp luật gắn với tổ
chức thi hành pháp luật; hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức
và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nhà nước pháp quyền
XHCN; hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước; chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Trong 4 nội dung nêu trên, Đại hội XIII đặc biệt nhấn mạnh cần “Xây
dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công
khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lời ích hợp pháp, chính đáng của người
dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu
phát triển nhanh, bền vững”7.
Đối với Quốc hội: Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội,
bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan

quyền lực nhà nước cao nhất. Đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và
hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao.
Đối với Chính phủ: Nghiên cứu tách chức năng quản lý nhà nước ra khỏi
chức năng kinh doanh; định rõ quyền và trách nhiệm của những người đứng đầu

7

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2021, tr. 175.



×