Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận tn xu thế quan hệ quốc tế và những thách thức đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.9 KB, 22 trang )

Ngày nộp: 24/8/2022

Người chấm

Số phách

(Ký ghi rõ họ tên)

Điểm
Bằng số

Số phách
Bằng chữ

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Khóa: 11

Họ và tên: NGUYỄN HỒNG VĂN

Lớp: Hồn chỉnh chương trình CCLLCT
tại Trường

Ngày sinh: 04/06/1984

Khoa: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Ngày nộp: 24/8/2022

XU THẾ QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ
NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA


ĐỐI VỚI BẢO VỆ LỢI ÍCH QUỐC GIA
DÂN TỘC VIỆT NAM HIỆN NAY

Lớp: Hồn chỉnh chương trình CCLLCT tại Qn khu 7,
Khóa: 11

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP


1
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

2

NỘI DUNG

3

I. XU THẾ QUAN HỆ QUỐC TẾ HIỆN NAY

3

1. Một số nhân tố chủ yếu chi phối và quyết định cục diện
thế giới trong thời gian tới

3


2. Dự báo về xu thế quan hệ quốc tế hiện nay

5

II. LỢI ÍCH QUỐC GIA DÂN - TỘC VÀ VÀ NHỮNG
THÁCH THỨC ĐẶT RA ĐỐI VỚI BẢO VỆ LỢI ÍCH
QUỐC GIA - DÂN TỘC VIỆT NAM HIỆN NAY

9

1. Nhận thức về lợi ích quốc gia - dân tộc hiện nay

9

2. Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam trong xu hướng
quan hệ quốc tế mới

11

3. Những thách thức đặt ra đối với bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc Việt Nam hiện nay

13

4. Những giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

13

III. TRÁCH NHIỆM CỦA QUÂN ĐỘI VÀ VẬN DỤNG VÀO
CHỨC TRÁCH, NHIỆM VỤ CỦA BẢN THÂN


16

1. Trách nhiệm của Quân đội trong bảo vệ lợi ích quốc gia –
dân tộc

16

2. Đặc điểm của đơn vị và vận dụng vào chức trách, nhiệm
vụ của bản thân

18

KẾT LUẬN

20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

21


2
MỞ ĐẦU

Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện
nay, Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của thế giới, sự phát triển
của Việt Nam luôn gắn kết và chịu sự tác động sâu rộng của tình hình thế
giới. Vì vậy, dự báo chính xác xu thế quan hệ quốc tế là một trong những cơ
sở quan trọng để Đảng, Nhà nước ta hoạch định đường lối, chính sách trong
quan hệ ngoại giao cũng như bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc.

Sau hơn 35 năm đổi mới và phát triển, Việt Nam đã ngày càng chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện trên nhiều lĩnh vực,
đồng thời tuân thủ các tập quán và thông lệ phổ quát của quốc tế. Tuy nhiên,
những thách thức hiện nay đặt ra nhiều vấn đề mới đối với việc bảo vệ lợi ích
quốc gia - dân tộc của Việt Nam, như: bảo vệ các lợi ích đi đơi với việc thực
hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế; bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ; xác định và xử lý các thách thức về chủ quyền trong không gian
mạng, chủ quyền số; xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc
tế; các thách thức đối với duy trì đà phát triển nhanh và bền vững đồng thời
bảo vệ môi trường, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội,... Nghiên cứu về xu thế
quan hệ quốc tế chính là cơ sở để Đảng, Nhà nước ta xác định lợi ích quốc gia
– dân tộc cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử nhằm bảo đảm cho sự phát triển
của đất nước đồng thời phù hợp với các cam kết, thỏa thuận, luật pháp quốc tế
mà Việt Nam tham gia.
Qua quá trình học tập, nghiên cứu chương trình hồn chỉnh lý luận cao
cấp chính trị, Bản thân xây dựng tiểu luận với chủ đề: “Xu thế quan hệ quốc
tế và những thách thức đặt ra đối với bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc Việt
Nam hiện nay”. Nhằm trình bày những kiến thức hiểu biết về xu hướng quan
hệ quốc tế, những vấn đề về lợi ích quốc gia – dân tộc và những thách thức
đặt ra đối với bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc.


NỘI DUNG
I. XU THẾ QUAN HỆ QUỐC TẾ HIỆN NAY

1. Một số nhân tố chủ yếu chi phối và quyết định cục diện thế giới
trong thời gian tới
Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát
triển với những trình độ ngày càng cao. Từ đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX đến
nay khoa học và công nghệ phát triển quá nhanh mà con người khơng thể dự

đốn hết.
Những năm gần đây, cách mạng khoa học và công nghệ làm thay đổi
kết cấu nền kinh tế; kết cấu giai tầng xã hội chủ yếu ở các nước phát triển và
sẽ lan toả ra các nước đang phát triển nhờ q trình tồn cầu hố kinh tế và
q trình chuyển giao cơng nghệ.
Bên cạnh những bước tiến nhảy vọt về khoa học cơng nghệ thì q
trình tồn cầu hố nền kinh tế cũng có bước phát triển đột phá. Từ cuối thập
kỷ 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã hình thành những mạng lưới
toàn cầu về những lĩnh vực cơ bản nhất như mạng thông tin viễn thông, mạng
giao thông quốc tế, mạng thương mại mậu dịch, mạng tài chính tiền tệ, mạng
giao lưu văn hoá, mạng các tổ chức xuyên quốc gia… Các mạng lưới này đã
thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tồn cầu hố quốc tế. Q trình này ln đi liền
với liên kết kinh tế, khu vực. Hiện nay nền kinh tế thế giới có rất nhiều khối
liên kết kinh tế hoặc mậu dịch tự do, trong đó quan trọng hơn cả là: Cộng
đồng châu Âu (EU), khối mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Châu Á- Thái
Bình Dương với Diễn đàn APEC; Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á với
khu vực mậu dịch tự do (AFTA)… Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học và công nghệ, cũng như q trình tồn cầu hố nền kinh tế, chúng ta đang
chứng kiến sự hình thành một trật tự thế giới mới - trật tự thế giới đa cực. Trật
tự thế giới này sẽ làm nổi bật tính đa dạng trong sự phát triển của nhân loại,
đa dạng về thể chế, chế độ chính trị, về loại hình cấu trúc xã hội, đa dạng về


trình độ, cung bậc phát triển. Do quốc tế hố nền kinh tế thế giới nên các
nước lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết
quốc tế. Các quốc gia trở nên phụ thuộc vào nhau chặt chẽ, lợi ích các quốc
gia gắn bó tới mức một biến động nào cũng không phải là vấn đề riêng của
một nước, sự phát triển của một quốc gia không thể dựa trên sự đối lập với
quốc gia khác.
Bên cạnh những biến động tích cực, tình hình thế giới cũng tồn tại

những diễn biến phức tạp, các mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn rất gay gắt,
chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, ly khai, hoạt
động khủng bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên
thiên nhiên, đặc biệt là dầu mỏ tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày
cùng phức tạp, khó giải quyết.
Q trình tồn cầu hố vừa tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa
đựng những nhân tố bất bình đẳng, gây thách thức lớn cho các quốc gia, nhất
là các nước đang phát triển. Cạnh tranh kinh tế, thương mại, giành giật các
nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ giữa các
nước ngày càng gay gắt. Nhiều vấn đề tồn cầu, bức xúc địi hỏi các quốc gia,
các tổ chức quốc tế phối hợp giải quyết. Khoảng cách chênh lệch giữa các
nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn, bùng nổ dân số, tình trạng
khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, suy thối mơi trường, thiên
tại, bệnh dịch có chiều hướng gia tăng. Trong hơn hai năm qua, đại dịch
Covid-19 đã ảnh hưởng nặng nề đến mọi mặt của hầu hết các quốc gia trên
thế giới, cướp đi sinh mạng của hơn 6,4 triệu người.
Những nhân tố tiềm ẩn gây ảnh hưởng lớn đén hồ bình, an ninh thế
giới vẫn cịn tồn tại như tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới,
lãnh thổ, biển đảo, nguồn tài nguyên thiên nhiên giữa các nước, một số nước
có nguy cơ mất ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội.


2. Dự báo về xu thế quan hệ quốc tế hiện nay
2.1. Trên thế giới, hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo
Các quốc gia dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển tiếp tục
dành ưu tiên hàng đầu cho lợi ích quốc gia dân tộc để tăng cường sức mạnh
và nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Chính phủ và nhân dân các nước
không ngừng nỗ lực bảo vệ và duy trì mơi trường hồ bình, ổn định. Ngày
nay, mặc dù nguy cơ về một cuộc chiến tranh thế giới không còn thường trực
nhưng vẫn còn tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức mới có khả năng đe doạ

nền hồ bình và ổn định ở nhiều khu vực. Hồ bình và ổn định là nhân tố
quyết định đến sự phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt là phát triển kinh tế.
Thực tế đã chỉ ra rằng những nước bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, mất ổn định
về chính trị thì nền kinh tế ngày càng xấu đi và đời sống của nhân dân sẽ gặp
nhiều khó khăn. Chính vì vậy, để duy trì hồ bình, ổn định, ngăn ngừa chiến
tranh, các quốc gia sẽ bắt tay xây dựng một thế giới cơng bằng, dân chủ, bình
đẳng và tiến bộ. Trong đó, Liên Hợp quốc tiếp tục giữ vai trị chủ đạo, là
trung tâm điều phối trong hoạt động giữ gìn hịa bình và an ninh quốc tế.
Trong xu thế hồ bình, hợp tác và phát triển, mọi quốc gia đều có điều
kiện tăng cường hợp tác trong việc giải quyết những vấn đề tồn cầu, đó là
những vấn đề khơng thể giải quyết trong phạm vi hẹp mà nó đòi hỏi sự hợp
tác của tất cả các quốc gia trên thế giới. Cũng trong xu thế này, các nước
muốn phát triển đều tìm cách mở cửa thị trường, nguồn vốn đầu tư, chuyển
giao công nghệ, tham gia sâu rộng vào phân công lao động quốc tế, xây dựng
mối quan hệ đơi bên cùng có lợi. Có thể khẳng định đây là xu thế tiếp tục phát
triển mạnh mẽ trong giai đoạn tới, bởi vì các quốc gia đều nhận thấy không
thể phát triển kinh tế bằng cách xây dựng nền kinh tế khép kín, tự cơ lập trong
một nước, thậm chí một nhóm nước.
2.2. Thế kỷ XXI, tiếp tục diễn ra quá trình phát triển lực lượng sản
xuất mạnh mẽ, kinh tế tri thức, khoa học công nghệ…


Giai đoạn mới của các nền kinh tế phát triển cao sau giai đoạn kinh tế
cơng nghiệp, nó biểu hiện ở hàm lượng tri thức chiếm tỷ lệ chủ yếu trong giá
trị các sản phẩm và sự dịch chuyển của khu vực chế tạo sang khu vực dịch vụ
với những đặc điểm mới. Các quốc gia đều tìm cách nắm lấy những tri thức
mới nhất của nhân loại, sản phẩm của nền kinh tế tri thức là những thành quả
của việc nghiên cứu, ứng dụng những công nghệ mới, các nguồn năng lượng
mới sẽ được khám phá và thay thế cho những nguồn năng lượng hiện có và
đang dần cạn kiệt; các vật liệu mới ra đời, các chất siêu dẫn, siêu cứng, siêu

bền… sẽ thay thế cho các vật liệu truyền thống; công nghệ thông tin, công
nghệ vi sinh, công nghệ gen sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ; không gian của sự
phát triển kinh tế sẽ được mở rộng đến vũ trụ và đáy đại dương…
2.3. Trong thực tế hiện nay, tồn cầu hố tiếp tục là xu thế khách
quan, là một q trình tất yếu
Tồn cầu hóa diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng
trước hết và chủ yếu là trên lĩnh vực kinh tế. Tồn cầu hố kinh tế thúc đẩy
nhanh, mạnh, diễn ra cả bề rộng lẫn chiều sâu sự phát triển và xã hội hoá của
lực lượng sản xuất, đem lại sự phát triển kinh tế cao và năng động. Tồn cầu
hố sẽ tạo ra sự truyền bá và chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn những
phát minh, những thành quả mới, những đột phá sáng tạo về khoa học và công
nghệ hiện đại, về tổ chức và quản lý, về sản xuất và kinh doanh, đưa kiến thức
và kinh nghiệm đến mọi quốc gia. Một điều không thể phủ nhận là tồn cầu
hố thúc đẩy sự xích lại gần nhau hơn của các dân tộc, kích thích các luồng và
các dạng giao lưu, từ cá thể con người đến các quốc gia trở nên gần gũi nhau
hơn trong một mái nhà chung, có thể kịp thời nắm bắt tình hình và các sự kiện
đang diễn ra. Bằng cách đó, tồn cầu hố góp phần nâng cao dân trí và trình
độ hiểu biết của mỗi cá nhân, sự tự khẳng định mình của các dân tộc, các
quốc gia và con người.
Tuy nhiên, q trình tồn cầu hố nền kinh tế thế giới cũng sẽ đưa đến
những thách thức to lớn, diễn biến ở nhiều góc độ và nhiều cấp độ phức tạp


như: sự gia tăng các rủi ro về kinh tế (khủng hoảng kinh tế tài chính, tiền tệ,
chứng khốn, suy thối kinh tế, sự sụt giảm thương mại tồn cầu, những mâu
thuẫn giữa kinh tế xã hội và chính trị xã hội). Những thách thưc này là nhân
tố hạn chế tính độc lập chủ quyền của các quốc gia, chịu sự phụ thuộc và ảnh
hưởng của các nước lớn và các trung tâm kinh tế, gây tác động đến sự phát
triển bền vững của các quốc gia dân tộc. Trong q trình tồn cầu hố, “người
mạnh” sẽ thu được nhiều lợi ích hơn, “người yếu” sẽ bị thua thiệt hơn. Những

quốc gia có tiềm lực lớn, có thuận lợi trong cạnh tranh quốc tế sẽ tìm cách
khai thác triệt để q trình tồn cầu hố và cài đặt các lợi ích của họ.
2.4. Ngày nay, xu hướng về một trật tự thế giới đa cực hoá trong
quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển mạnh mẽ, trong đó các nước lớn gia
tăng tranh giành ảnh hưởng để trở thành một đối trọng lớn trong cục diện
chính trị thế giới
Trật tự thế giới hai cực giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản hình
thành sau chiến tranh thế giới thứ II đã khơng cịn tồn tại, nhưng những ảnh
hưởng của nó vẫn khơng mất đi hồn tồn. Sự hình thành trật tự thế giới mới
đang vận động hình thành. Trong đó, các nước lớn, các trung tâm kinh tế đều
có những mục tiêu riêng của mình, các chủ thể này đều muốn tìm mọi cách
theo đuổi trật tự thế giới đa cực, nhưng trong trật tự thế giới đó họ có vị thế,
ảnh hưởng nhất định và giữ vai trò chi phối cục diện thế giới. Quan hệ giữa
các nước lớn tiếp tục trong khuôn khổ vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiềm chế
ảnh hưởng của nhau. Trên mỗi vấn đề cụ thể ở mỗi địa bàn cụ thể đều có sự
dàn xếp hoặc tranh chấp lợi ích đan xen rất phức tạp. Hiện nay, khi xem xét
về tương quan so sánh lực lượng, Mỹ vẫn giữ vị trí siêu cường ráo riết triển
khai chiến lược tồn cầu hịng thiết lập trật tự thế giới một cực và bá chủ thế
giới. Nhất là từ sau sự kiện 11 tháng 9 năm 2001 đã gây tác động động lớn
đến hoà bình và an ninh thế giới. Từ tiềm lực sẵn có của mình, mượn danh
chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế, Mỹ tập hợp đồng minh cũ và mới và cho
mình quyền đơn phương hành động nhằm bảo vệ lợi ích an ninh và kinh tế


riêng của Mỹ. Sự điều chỉnh và thực hiện chiến lược của Mỹ sẽ ảnh hưởng
toàn diện tới cục diện thế giới, các quốc gia lớn, nhỏ buộc phải điều chỉnh
chiến lược của mình. Tuy nhiên, tình hình đó trong thời gian tới sẽ có những
thay đổi, Mỹ dần mất đị vị trí độc tơn của mình với sự lớn mạnh của: Liên
minh châu Âu, Nhật Bản sẽ vươn lên mạnh mẽ và trở thành các trung tâm lớn
của thế giới; Trung quốc đang trỗi dậy ngày càng có vị trí, vai trị ảnh hưởng

lớn trong đời sống quan hệ quốc tế; Nước Nga đang cố gắng khôi phục địa vị
cường quốc được thừa hưởng từ Liên Xô; Phong trào cộng sản, công nhân
quốc tế, các nước xã hội chủ nghĩa sẽ có bước hồi phục và phát triển mới, trải
qua nhiều khó khăn, thử thách các nước xã hội chủ nghĩa còn lại (Trung
Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Lào) tiếp tục đứng vững và giành được những thành
tựu to lớn trong phát triển kinh tế xã hội, giữ vững được sự ổn định chính trị
trong nước và nâng cao được vị thế của mình trong quan hệ quốc tế, tiếp tục
kiên định con đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, trong thời gian tới trào lưu cánh tả xuất hiện từ các nước châu
Mỹ La Tinh (Vênêxuêla- 1998; Chilê- 2000; Braxin- 2002; Áchentina- 2003;
Panama- 2004, Urugoay- 2004; Bôlivia- 2005; Êcuađo- 2006; Nicaragoa2007; Goatêmala- 2007) trở thành một xu thế tích cực. Ở mức độ này hay
mức độ khác, chính phủ các nước ở các nước này đều tiến hành cuộc cải cách
mang tính dân tộc, dân chủ nhằm củng cố độc lập dân tộc và chủ quyền quốc
gia, mở rộng dân sinh… đây là nhân tố tác động tích cực đối với xu thế quan
hệ quốc tế.
Sự quá độ, chuyển tiếp trên nhiều bình diện của thế giới làm nổi lên sự
đan xen giữa sự hợp tác và các mâu thuẫn, nhiều hệ giá trị cũ và mới tương
tác với nhau, sự xuất hiện của những vấn đề mới, sự biến động không ổn định
của quan hệ quốc tế, sự tương quan so sánh lực lượng của các chủ thể phấn
đấu cho những triển vọng phát triển khác nhau của thế giới, hình thành nên
các tập hợp lực lượng vừa đấu tranh, vừa hợp tác với nhau trong một thế giới
thống nhất đa dạng.


II. LỢI ÍCH QUỐC GIA - DÂN TỘC VÀ VÀ NHỮNG THÁCH THỨC
ĐẶT RA ĐỐI VỚI BẢO VỆ LỢI ÍCH QUỐC GIA - DÂN TỘC VIỆT NAM
HIỆN NAY

1. Nhận thức về lợi ích quốc gia - dân tộc hiện nay
Lợi ích quốc gia - dân tộc là một phạm trù được đề cập rộng rãi trong

quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của các quốc gia trên
thế giới. Các nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế đã đưa ra khá nhiều quan niệm
khác nhau về lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia - dân tộc. Tuy
nhiên, hầu như các nhà nghiên cứu đều cho rằng, lợi ích quốc gia - dân tộc là
giá trị của một chủ thể có trách nhiệm tự xác định lợi ích của quốc gia, dân
tộc mình. Vì vậy, có thể nói, đây là một khái niệm có tính khái qt hóa cao,
bao gồm những nhu cầu sống cịn của quốc gia đó; đó là tự bảo vệ, độc lập,
tồn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị, quân sự và thịnh vượng về kinh tế…
Ở Việt Nam, một số chuyên gia cho rằng, khái niệm lợi ích quốc gia,
lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia - dân tộc mặc dù có những điểm khác nhau,
song được xem là có chung nội hàm và có thể sử dụng thay thế lẫn nhau. Lợi
ích quốc gia là lợi ích chung của cộng đồng những người sống trên một đất
nước, có chung nguồn gốc, lịch sử, phong tục, tập qn và phần nhiều cịn
chung cả tiếng nói, chữ viết. Lợi ích quốc gia thiên về đại diện của giai cấp
cầm quyền. Trong khi đó, lợi ích dân tộc bao hàm tất cả những gì tạo thành
điều kiện cần thiết cho sự trường tồn của cộng đồng với tư cách quốc gia dân tộc có chủ quyền, thống nhất, độc lập, lãnh thổ toàn vẹn; cho sự phát triển
đi lên về mọi mặt của quốc gia - dân tộc theo hướng làm cho đời sống vật chất
và tinh thần của cộng đồng ngày càng phong phú, tốt đẹp hơn; cho sự nâng
cao không ngừng sức mạnh tổng hợp quốc gia, năng lực cạnh tranh quốc gia
trên trường quốc tế, vị trí, vai trị, uy tín quốc tế của quốc gia dân tộc. Lợi ích
dân tộc là lợi ích của tất cả mọi người dân của một nước. Do những điều kiện
đặc thù nên khái niệm lợi ích quốc gia - dân tộc ở Việt Nam có hướng tổng
hợp cả hai khái niệm trên. Vì vậy, có thể xem lợi ích quốc gia - dân tộc là


tồn bộ những nhu cầu sống cịn, trường tồn và phát triển của một quốc gia đã
được nhận thức và biến thành mục tiêu của chính sách đối ngoại trong quan
hệ với thế giới còn lại ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, là công cụ hết sức quan
trọng trong phân tích chính sách đối ngoại.
Việc xác định đúng và phù hợp mức độ, thứ tự ưu tiên lợi ích quốc gia dân tộc là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia nói chung, Việt

Nam nói riêng. Trên thế giới, các nhà nghiên cứu thống nhất cho rằng, việc
sắp xếp mức độ ưu tiên trong các lợi ích quốc gia - dân tộc phụ thuộc rất lớn
vào việc quyết định xem loại lợi ích nào quan trọng hơn, có tác động mạnh
mẽ hơn tới sự tồn vong và phát triển của quốc gia đó. Việc sắp xếp thứ tự ưu
tiên giữa các lợi ích cho phép các quốc gia có cơ sở để xác định những vấn đề
nào là ưu tiên, cốt lõi phải bảo vệ, vấn đề nào có thể thỏa hiệp, góp phần phác
họa bức tranh chung về lợi ích quốc gia - dân tộc của các quốc gia để từ đó
đưa ra những giải pháp, cách thức chính xác nhằm nâng cao sức mạnh tổng
hợp quốc gia khi thực hiện một chính sách hay một chiến lược nào đó trong
một giai đoạn lịch sử nhất định, đặc biệt cần có sự bảo vệ “quyết liệt” những
lợi ích đó tại thời điểm được cho là mang tính “sống cịn”. Đơn cử như, trong
“Chiến lược An ninh quốc gia” (năm 2017), Mỹ xác định “nước Mỹ trên hết”
với “bốn lợi ích quốc gia tối quan trọng”, đó là bảo vệ người dân Mỹ, nước
Mỹ và lối sống Mỹ; thúc đẩy sự thịnh vượng của nước Mỹ; bảo vệ hịa bình
thơng qua sức mạnh; gia tăng ảnh hưởng của Mỹ.
Nhìn chung, lợi ích quốc gia - dân tộc được xem là “hòn đá tảng” hay
“kim chỉ nam” của chính sách đối ngoại. Nội hàm của lợi ích quốc gia - dân
tộc đơi khi cũng bao gồm cả những công cụ được lựa chọn để thực hiện mục
tiêu chiến lược và ngoại giao chính là một trong những cơng cụ quan trọng
giúp hiện thực hóa mục tiêu này. Để có thể thốt khỏi những “cạm bẫy” trong
q trình xác định và tối ưu hóa lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề hết sức
quan trọng đối với mỗi quốc gia, bất kể lớn hay nhỏ, khi thực tế đã và đang
cho thấy, thành công rất nhiều nhưng thất bại cũng khơng phải khơng có.


2. Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam trong xu hướng quan hệ
quốc tế mới
Đối với Việt Nam, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc có sự kế
thừa từ truyền thống lịch sử của ông cha ta cũng như tư tưởng ngoại giao Hồ
Chí Minh về “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết” trong quan

hệ đối ngoại mà Việt Nam tiến hành từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến
nay. Quan điểm đó được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cũng
như thể hiện ở mục tiêu xuyên suốt, đó là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội”. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của đất nước và biến động của
tình hình thế giới, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc liên tục được bổ
sung và hoàn chỉnh qua các kỳ Đại hội của Đảng. Trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lợi ích quốc gia - dân tộc được
coi trọng trong từng chủ trương, chính sách phát triển đất nước và hoạt động
đối ngoại. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) lần đầu tiên nêu lên mục tiêu đối
ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng (năm
2016) đã chỉ rõ mục tiêu hoạt động đối ngoại của nước ta phải nhằm “bảo
đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Qua đó, Đảng ta khẳng định:
1- Lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là thống nhất; 2- Lợi ích quốc gia - dân
tộc của Việt Nam là những lợi ích chính đáng, khơng phải là những lợi ích vị
kỷ; 3- Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình
đẳng, hợp tác, cùng có lợi, cùng phấn đấu vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới; 4- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân
tộc nghĩa là đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết và trên hết, ln nỗ lực
đạt được lợi ích quốc gia - dân tộc tới mức cao nhất có thể, lợi ích quốc gia dân tộc là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại.
Đại hội XIII (tháng 1-2021) của Đảng xác định rõ: “Bảo đảm cao nhất lợi ích
quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên
hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.


Trong giai đoạn hiện nay, có thể thấy, lợi ích quốc gia - dân tộc cao
nhất của Việt Nam là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ gắn liền với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo hộ lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân cũng

như doanh nghiệp Việt Nam trong nước và ở nước ngồi; bảo vệ sự nghiệp
đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội và nền văn hóa dân tộc. Bối cảnh mới của quốc gia - dân tộc hiện
đại cịn mở rộng thêm các lợi ích quốc gia - dân tộc, như: hịa bình, ổn định,
hợp tác, phát triển, tự do lưu thơng hàng hóa, tự do hàng hải, tự do hàng
không, tự do khai thác tài nguyên phù hợp với luật pháp quốc tế. Cũng như
các quốc gia - dân tộc khác, Việt Nam còn chủ động và tích cực tham gia
giải quyết những vấn đề chung của nhân loại, như chống chiến tranh, ứng
phó với biến đổi khí hậu, dịch bệnh; các thách thức an ninh phi truyền thống
(an ninh biển, an ninh mạng, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an
ninh tiền tệ, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố...) mà không một quốc gia
nào tự mình đủ sức gánh vác.
Trên cơ sở nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối
ngoại”; “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”, Việt
Nam luôn nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà nước ta tham gia,
tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của
cộng đồng, khu vực và quốc tế. Đồng thời, chủ động tích cực đề xuất sáng
kiến xây dựng, định hình các thể chế đa phương trên nguyên tắc cùng có lợi,
với phương châm chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia”; “là
bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế”, nhất là trong quá trình xây dựng và định hình các quy tắc, cơ
chế hợp tác và những luật lệ mới, củng cố và nâng cao vai trị trong cộng
đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.


3. Những thách thức đặt ra đối với bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc
Việt Nam hiện nay
Nhìn lại hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhờ đi đúng xu thế

của thời đại, tranh thủ tốt các nguồn lực từ bên ngồi, cơng cuộc đổi mới của
Việt Nam ngày càng đạt được những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm lợi
ích quốc gia - dân tộc để nâng cao vị thế và thực lực của đất nước, góp phần
gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Tuy nhiên, để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, Việt Nam đứng trước
nhiều thuận lợi song cũng đối mặt với khơng ít khó khăn, thách thức chung và
riêng, bao gồm: việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và đẩy mạnh các
hoạt động đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa ở tầm khu vực và tồn cầu
để thực hiện và bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh diễn ra
những thay đổi khó đốn định của tình hình quốc tế, khu vực; cạnh tranh
chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực tiếp tục diễn ra gay
gắt; ở khu vực, vấn đề Biển Đông ngày càng phức tạp, do sự chồng xếp, đan
xen của ba tầng quan hệ (tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và lợi ích chiến lược
biển, đảo giữa các nước láng giềng; cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ - Trung
Quốc và can dự của các nước lớn khác; an toàn, tự do hàng hải và hàng khơng
trong khu vực); hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn
là xu thế lớn, song chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa
bảo hộ có xu hướng gia tăng..., tác động khơng nhỏ đến vấn đề bảo đảm lợi
ích quốc gia - dân tộc; cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ phát triển mạnh
mẽ chưa từng có, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với đó
là vấn đề an ninh mạng.
4. Những giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc
của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay


Bối cảnh trên đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới, phức tạp hơn đối
với việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, đòi hỏi Việt Nam cần thực hiện
tốt một số vấn đề sau:
Một là, tiếp tục triển khai có hiệu quả các chủ trương, quan điểm,

đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, như: 1- Kiên trì thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng; là bạn,
là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; 2Tranh thủ cơ hội, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, tạo
sự đan xen lợi ích của các nước lớn ở Việt Nam; nâng tầm đối ngoại đa
phương, song phương; thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới...
Hai là, luôn theo dõi, bám sát diễn biến tình hình, vận dụng phương
pháp khoa học để đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực; nắm bắt, dự báo
được các xu hướng trong quan hệ quốc tế, cũng như mục tiêu chiến lược của
các nước, nhất là các nước lớn đối với khu vực nói chung và Việt Nam nói
riêng, để kịp thời đề ra đường lối, chính sách phù hợp, chính xác, trong đó
phải ln đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết, trên hết; bất luận hoàn
cảnh nào cũng tránh để rơi vào thế kẹt giữa các bên, đúng như lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất kỳ hịa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm
vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”.
Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp trên cơ sở kết hợp sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để khai thác,
sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Đây là vấn đề có tính ngun tắc
trong đường lối cách mạng của Đảng ta, nhất là khi thế giới đang phải đối
diện với những thách thức khó lường và đại dịch COVID-19 đã làm cho
những thách thức này càng trở nên phức tạp, nghiêm trọng hơn.


Bốn là, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc
với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và lợi ích chính đáng của các quốc
gia, dân tộc khác. Hiện nay, tất cả các nước trên thế giới đều coi trọng, đề cao
lợi ích quốc gia - dân tộc khi thực thi chính sách đối ngoại. Nhưng do mục
tiêu phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau, nên lợi ích quốc gia - dân

tộc của mỗi nước cũng khơng hồn tồn giống nhau, thậm chí đối nghịch
nhau. Do vậy, để có mơi trường hịa bình, an ninh và ổn định phục vụ phát
triển bền vững cho mỗi quốc gia, dân tộc, vấn đề quan trọng đặt ra là cần tìm
thấy “điểm tương đồng”. Ở đây, điểm tương đồng chính là sự tôn trọng các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế mà
toàn thể nhân loại đã và đang nỗ lực gìn giữ nhằm điều chỉnh những quan hệ
phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc
tế.
Năm là, tiếp tục tạo dựng và phát triển hình ảnh Việt Nam là một quốc
gia “có trách nhiệm”, “đối tác tin cậy”. Đây là mục tiêu vừa mang tính đối
nội, vừa mang tính đối ngoại. Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc
tế, một quốc gia được cho là phát triển và giàu mạnh luôn là quốc gia sở hữu
những thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế. Để hội nhập thành công
cũng như tận dụng được các cơ hội mà hội nhập quốc tế đem lại, nhất là khi
tham gia các hiệp định thương mại tự do, Việt Nam cần xây dựng một chiến
lược phát triển các thương hiệu quốc gia mạnh nhằm phát huy hiệu quả các
nguồn lực và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và
hàng hóa - dịch vụ, từ đó nâng cao giá trị các thương hiệu cũng như hình ảnh
Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc
gia.
Sáu là, bảo đảm an ninh và phát triển cho người dân trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Quốc gia - dân tộc Việt Nam là một cộng đồng thống nhất,
tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và
phát triển kinh tế. Lợi ích của cộng đồng dân tộc cũng bao hàm lợi ích của
mỗi cá nhân con người, an ninh quốc gia cũng không thể tách rời an ninh con
người. Các hoạt động đối ngoại, xét cho cùng, là nhằm mang lại quyền lợi cho


người dân, tạo điều kiện cho người dân có cơ hội phát triển tồn diện. Nhìn
rộng ra trong khu vực, mục tiêu này phù hợp với bối cảnh các nước ASEAN

đang nỗ lực xây dựng một Cộng đồng ASEAN hướng tới người dân và “lấy
người dân làm trung tâm”.
Bảy là, nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, củng cố và phát triển lý
luận, thông tin tuyên truyền, nhất là thơng tin đối ngoại trong tình hình mới
đối với việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; tận dụng hiệu quả sức mạnh
của công nghệ thông tin và truyền thông nhằm xúc tiến liên tục, bền bỉ các
chương trình truyền thơng về văn hóa, đất nước, con người Việt Nam; về chủ
quyền của Việt Nam trong lịch sử và hiện tại..., giúp nâng cao hình ảnh và
tranh thủ sự ủng hộ của các nước, nhân dân trên thế giới đối với sự nghiệp
bảo vệ chủ quyền cũng như xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam.
III. TRÁCH NHIỆM CỦA QUÂN ĐỘI VÀ VẬN DỤNG VÀO

CHỨC TRÁCH, NHIỆM VỤ CỦA BẢN THÂN
1. Trách nhiệm của Quân đội trong bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc
Thứ nhất: Quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước
ta nói chung và quan điểm về vấn đề lợi ích quốc gia – dân tộc nói riêng.
Thường xun quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà
nước ta nói chung và quan điểm về vấn đề lợi ích quốc gia – dân tộc nói
riêng, nhận định đánh giá đúng tình hình, xu hướng vận động của thế giới,
khu vực và trong nước, kịp thời tham mưu đề xuất cho Đảng, Nhà nước ta về
nhiệm vụ quân sự quốc phịng, góp phần bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc.
Thứ hai: Nhận thức rõ mục tiêu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện
nay chính là bảo vệ những lợi ích cốt lõi của quốc gia – dân tộc.
Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc hiện nay: “Bảo vệ vững chắc độc lập, tự chủ,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và lợi ích quốc gia;
không để đất nước bị bất ngờ về chiến lược; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; không để xảy ra “diễn biến hịa bình”, ngăn


chặn có hiệu quả các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ;

bảo vệ nền hịa bình bền vững của đất nước; ngăn ngừa xung đột vũ trang,
không để xây ra chiến tranh; đồng thời sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái,
quy mơ chiến tranh xâm lược”. Đây vừa là mục tiêu bảo vệ tổ quốc và cũng
chính là bảo vệ các lợi ích cốt lõi, quan trọng của quốc gia – dân tộc, trong đó
Quân đội là lực lượng nòng cốt.
Thứ ba: Thực hiện tốt và tham mưu cho Đảng, Nhà nước về đối ngoại
quốc phòng, góp phần củng cố phát triển quan hệ quốc tế và bảo đảm lợi ích
quốc gia dân tộc của Việt Nam.
Đối ngoại quốc phòng Việt Nam là bộ phận quan trọng của nền ngoại
giao Nhà nước Việt Nam. Đối ngoại quốc phịng góp phần quan trọng trong
bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc. Mục tiêu của đối ngoại quốc phòng Việt
Nam là thiết lập và phát triển quan hệ về quốc phòng với tất cả các nước trên
cơ sở bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau nhằm góp phần vào cơng cuộc củng cố
quốc phịng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang, giữ vững mơi trường hịa
bình, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư: Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, hiện đại làm nịng cốt bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định: "Đến năm 2030 một số quân
chủng, binh chủng, lực lượng hiện đại, phấn đấu từ năm 2030 xây dựng Quân
đội hiện đại”. Để đạt mục tiêu đó địi hỏi Qn đội phải ln giữ vững và
không ngừng tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng
đối với Quân đội; xây dựng Quân đội phải thực sự tinh nhuệ cả về chính trị và
quân sự; xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, linh hoạt về cơ cấu tổ chức, biên
chế đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; xây dựng
và phát triển cơng nghiệp quốc phịng đạt trình độ tiên tiến, hiện đại; xây
dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng với yêu cầu xây dựng quân đội
hiện đại.



Thứ năm: Tích cực tham mưu, đề xuất cho Đảng, Nhà nước về nhiệm
vụ quân sự, quốc phòng; xây dựng nền quốc phịng tồn dân vững mạnh đáp
ứng u cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.
“Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
Xã hội Chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước,
hệ thống chính trị và tồn dân, trong đó Qn đội nhân dân và Cơng an nhân
dân là nịng cốt” là quan điểm nhất quán, được Đảng ta tiếp tục khẳng định
trong Nghị quyết Đại hội XIII. Vì vậy Quân đội phải thường xuyên chủ động
nghiên cứu, đánh giá, dự báo đúng tình hình, nhất là những vấn đề phức tạp
mới nảy sinh; kịp thời tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành các
chủ trương, chính sách về qn sự, quốc phịng; xử lý linh hoạt các tình
huống; khơng để bị động, bất ngờ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Chủ động phối hợp với các ban,
bộ, ngành Trung ương và địa phương nâng cao chất lượng xây dựng khu vực
phòng thủ trên các hướng chiến lược, các địa bàn trọng yếu; nâng cao chất
lượng tổng hợp của các lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên; thực hiện
tốt cơng tác giáo dục quốc phịng; tăng cường phối hợp với cơng an và các lực
lượng trong đấu tranh phịng, chống tội phạm, giúp nhân dân phòng, chống,
khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ-cứu nạn làm sáng đẹp thêm hình ảnh Bộ
đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới.
2. Đặc điểm của đơn vị và vận dụng vào chức trách, nhiệm vụ của
bản thân
2.1. Đặc điểm đơn vị
Là đơn vị chủ lực của Quân khu, cùng với Quân đội nói chung và đơn
vị nói riêng ngày càng được Đảng, Nhà nước quan tâm về mọi mặt. Đội ngũ
cán bộ Lữ đoàn ngày càng được đào tạo cơ bản; điều kiện nơi ăn, ở, sinh hoạt
của bộ đội, các thiết chế văn hóa, cảnh quan mơi trường của đơn vị ngày càng
được đầu tư củng cố khang trang, xanh, sạch, đẹp; trình độ nhận thức, đời
sống vật chất tinh thần của cán bộ, chiến sỹ ngày càng được nâng cao. Mối



quan hệ giữa đơn vị với cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương trên địa
bàn đóng qn ln gắn bó chặt chẽ. Cơng tác xóa đói giảm nghèo và thực
hiện các hoạt động phúc lợi xã hội luôn được các cấp, các ngành của địa
phương quan tâm.
Tuy nhiên, đơn vị đóng quân trên địa bàn biên giới, đời sống của gia
đình cán bộ, chiến sỹ và Nhân dân đang gặp nhiều khó khăn. Địa bàn đóng
quân người dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ cao (có xã chiếm 72%), trình độ dân
trí cịn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cịn cao (có xã tỉ lệ hộ nghèo 8,6%). Các thế lực
thù địch tiếp tục tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng nước ta với
những thủ đoạn tinh vi, khó nhận diện, đặc biệt chúng tuyên truyền, xuyên tạc
chủ trương đường đối ngoại, xuyên tạc lợi ích quốc gia – dân tộc, thực hiện
âm mưu “phi chính hóa qn đội”, hịng làm mất hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”
trong lòng Nhân dân. Sự bùng phát nhanh của hệ thống thơng tin mạng, sự
ảnh hưởng của các văn hóa xấu độc, các tệ nạn qua mạng Internet, tác động
mặt trái của nền kinh tế thị trường, tình hình thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt là
dịch Covid-19 diễn biến phức tạp đã tác động khơng nhỏ đến tâm tư tình cảm
của cán bộ chiến sỹ, cũng như đời sống Nhân dân trên địa bàn đóng quân.
2.2. Vận dụng vào chức trách, nhiệm vụ của bản thân
Trên cương vị là Phó Chính ủy Lữ đồn, ủy viên ban thường vụ đảng
ủy cơ sở, để góp phần bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc bản thân nhận thấy
cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, tiếp tục nghiên cứu, quán triệt nhận thức đúng và tham mưu đề
xuất cho cấp ủy, Ban Chỉ huy thực hiện tốt đường lối, chủ trương đối ngoại
của Đảng, Nhà nước ta nói chung và lợi ích quốc gia – dân tộc nói riêng.
Hai là, tham mưu đề xuất và trực tiếp chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thực
hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục không ngừng nâng cao nhận thức cho
cán bộ, chiến sỹ về đường lối đối ngoại độc lập tự chủ và quan điểm về vấn
đề lợi ích quốc gia dân tộc của Đảng, Nhà nước ta, từ đó nâng cao ý thức bảo

vệ Tổ quốc cho cán bộ, chiến sỹ trong tình hình mới.



×