LỜI MỞ ĐẦU
Không thể phủ nhận rằng Liên minh Châu Âu EU đang là một nhân tố quan
trọng trong các vấn đề chính trị, an ninh, kinh tế quốc tế. Việc xây dựng và hoàn
thiện chính sách đối ngoại và an ninh chung cho Châu Âu chứng tỏ EU không
muốn chỉ dừng lạị ở liên minh về kinh tế mà hơn thế là ở cả lĩnh vực an ninh và
ngoại giao mục tiêu cuối cùng là biến EU thành một nhà nước liên bang hùng mạnh
nhất. Mặc dù vậy, sự liên kết về kinh tế vẫn là yếu tố quan trọng đối với sự tồn tại
và phát triển của EU, là cơ sở cho sự liên kết ở các lĩnh vực khác trong chiến lược
của EU. Vì thế phát triển kinh tế vẫn luôn được coi là mối quan tâm lớn nhất của
Liên minh EU.
Liên minh Châu Âu có quá trình phát triển kinh tế lâu nhất, cũng là tổ chức
tập hợp nhiều nền kinh tế quan trọng, là thị trường tiêu thụ khổng lồ, là nhà xuất
khẩu công nghiệp và dịch vụ rất có uy tín, tất cả đều làm cho EU luôn là một thể
chế kinh tế quan trọng hàng đầu của thế giới, là đối tác lớn trong chiến lược phát
triển kinh tế của bất kỳ một quốc gia hay khu vực nào.
Trong chiến lược phát triển của EU, hợp tác kinh tế khu vực là một trong
những nội dung quan trọng, nhất là trong xu hướng hợp tác toàn cầu như hiện nay.
Đối tác của EU có rất nhiều nhưng ASEAN hiện là đối tác mà EU rất quan tâm, coi
là đối tác chiến lược trong mọi lĩnh vực trong đó có kinh tế.
Giữa EU và ASEAN dường như có rất nhiều điểm khác biệt như về lịch sử,
văn hoá, mức độ phát triển kinh tế, xã hội, các thế mạnh về kinh tế, vị trí địa
lý Tuy nhiên EU và ASEAN đều mong muốn có sự hợp tác về kinh tế bởi cả hai
đều tìm thấy được những lợi ích mà sự hợp tác đó đem lại cho sự phát triển kinh tế
của mỗi bên, vậy đó là những lợi ích gì?
Việc EU mở rộng đã tác động đến không chỉ bản thân nền kinh tế của EU mà
còn đến nền kinh tế của từng nước thành viên cũng như đến các đối tác của EU.
Vậy sự mở rộng của EU có tác động gì đến quan hệ kinh tế giữa EU và ASEAN
hay không? Đó là những tác động tích cực hay tiêu cực ?
Bài viết này sẽ phần nào giải đáp những câu hỏi trên từ đó góp phần hiểu
thêm về quan hệ kinh tế EU- ASEAN, cũng như những thách thức đặt ra cho mối
quan hệ này trong một bối cảnh mới đó là sự phát triển của EU, ASEAN trong lĩnh
vực kinh tế.
Chủ trương hợp tác, phát triển kinh tế với ASEAN của EU đã được cụ thể
hoá qua Kế hoạch tăng cường phát triển quan hệ đối tác chiến lược EU- ASEAN
trong báo cáo của Uỷ ban Châu Âu tháng 9 năm 2001, trong Sáng kiến hợp tác
thương mại EU- ASEAN ( TREATI).
Với mỗi quan hệ, các bên đều toan tính cho mình những lợi ích riêng, những
lợi ích đó có thể trùng nhau hoặc không tuỳ vào rất nhiều yếu tố. Mỗi bên đều có
thế mạnh và hạn chế nhưng có thể yếu điểm của bên này lại tạo lợi thế cho bên kia
và ngược lại, điều này một phần giải thích cho quan hệ hợp tác EU- ASEAN mối
quan hệ giữa hai chủ thể có nhiều điểm khác biệt.
Vậy EU được gì từ quan hệ kinh tế với ASEAN, ASEAN tận dụng được gì
từ EU ? Tại sao lại có mối quan hệ này ?
2
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ HỢP TÁC EU - ASEAN
Mặc dù giữa hai bên có nhiều điểm khác biệt nhưng vẫn cùng đi đến hợp tác
với nhau, đó là vì hai bên tìm được lợi ích chung và cũng khai thác bên kia vì
những lợi ích riêng nhưng tất nhiên không cản trở lợi ích riêng của nhau. Đây cũng
là cơ sở để hình thành nên quan hệ kinh tế EU- ASEAN.
1. Lợi ích chung
Với mọi quốc gia, mọi tổ chức, mọi liên minh, phát triển kinh tế luôn là
nhiệm vụ quan trọng. Một thực tế là hiện nay, sức mạnh về kinh tế có vai trò chi
phối mọi hoạt động khác, kinh tế phát triển là nền tảng để phát triển nhiều lĩnh vực
khác của quốc gia, tổ chức. Có lẽ vì thế mà có thể nói rằng phát triển kinh tế là lợi
ích chung của bất kỳ đối tác nào của sự hợp tác về kinh tế. EU và ASEAN không
phải là ngoại lệ.
Với EU, mặc dù là một nền kinh tế hàng đầu của thế giới với hơn 450 triệu
dân, giá trị kinh tế ước 9,739 tỷ euro mỗi năm, chiếm gần 1/3 tổng giá trị buôn bán
toàn cầu, nhưng trong bối cảnh quốc tế và nội khối nhiều khó khăn và thánh thức
thì phát triển kinh tế vẫn là mối quan tâm hàng đầu. Hợp tác quốc tế là một trong
những phương thức hiệu quả để phát triển kinh tế, với EU đó không chỉ là sự hợp
tác nội khối, giữa khối với các nền kinh tế hàng đầu như Mỹ, Nhật bản, với các thị
trường lớn như Bắc Mỹ, Châu Á, mà còn phải mở rộng hơn rất nhiều.
Phát triển kinh tế đối với EU hiện nay không chỉ đơn thuầnlà để nâng cao các
chỉ số phát triển kinh tế mà quan trọng hơn là để duy trì được vai trò trong nền kinh
tế thế giới, từ đó nâng cao vị thế chính trị cũng như tạo nền tảng và điều kiện để
thực hiện được mục tiêu đưa EU trở thành một liên bang trong tương lai.
Trong bối cảnh quốc tế nhiều bất ổn như hiện nay, nhất là cùng với đó là sự
mở rộng về thành viên thì phát triển kinh tế càng trở nên quan trọng đối với EU,
giúp EU giải quyết được bất ổn chính trị, an ninh trong khu vực và đối với những
lợi ích liên quan, cũng như giảm khoảng cách phát triển kinh tế giữa thành viên cũ
và thành viên mới.
3
Phát triển kinh tế cũng có ý nghĩa đặc biệt đối với ASEAN- nhóm các nước
mới phát triển và đang phát triển ở Đông Nam Á. Một trong những mục tiêu hàng
đầu của ASEAN đó là giúp các nước thành viên phát triển kinh tế, từ đó tạo nên
một nền kinh tế khu vực phát triển mạnh. Nằm trong khu cực kinh tế tiềm năng của
thế giới, nhưng kinh tế lại chưa phát triển, hơn lúc nào ASEAN rất muốn hợp tác
để phát triển kinh tế khu vực.
Vị trí của các nước ASEAN trên bản đồ kinh tế thế giới là rất mờ nhạt, trong
khi đó tiềm năng tự nhiên và con người là rất lớn điều này khiến cho phát triển kinh
tế là mục tiêu được ASEAN rất ưu tiên.
Tận dụng lợi thế của nhau thông qua hợp tác để cùng phát triển kinh tế là
điều mà cả EU và ASEAN đều quan tâm. Với EU thì đó là những tiềm năng chưa
khai thác của ASEAN, còn với ASEAN đó là những kinh nghiệm trong quá trình
phát triển kinh tế của EU, là việc tận dụng nhưng hạn chế của đối tác để phục vụ
cho thế mạnh của mình .
Như đã nói, phát triển kinh tế không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế mà quan
trọng hơn nó còn ảnh hưởng đến vị thế chính trị của mỗi bên.Tuy ASEAN chưa có
tiếng nói quan trọng trên trường quốc tế nhưng trong tương lai sẽ khác, vì thế với
EU phát triển kinh tế với ASEAN không chỉ là phát triển quan hệ kinh tế với một
đối tác nhiều tiềm năng mà còn qua đó thiết lập quan hệ và ảnh hưởng của EU trên
nhiều lĩnh vực khác ở khu vực này.
Với ASEAN cũng vậy, phát triển kinh tế với một liên minh kinh tế lớn mạnh
nhất không chỉ là cơ hội tốt để nâng cao vị thế kinh tế mà quan đó còn góp phần
đưa ASEAN lên vị trí cao hơn trong các vấn đề quốc tế và khu vực trước hết là
trong lĩnh vực kinh tế.
Hợp tác kinh tế EU- ASEAN cũng có ý nghĩa với cả hai bên khi không phải
mọi nước thành viên của hai khối đều đã gia nhập WTO. Sư hợp tác giữa hai bên sẽ
tạo thêm thuận lợi trong quá trình đàm phán gia nhập WTO của các nước thành
viên.
4
Như vậy là cơ sở quan trọng giúp hình thành và phát triển quan hệ kinh tế
EU-ASEAN đó là lợi ích chung về kinh tế, mỗi quan hệ này giúp cả hai thực hiện
được mục tiêu phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế là lợi ích chung của cả hai bên
tuy nhiên với mỗi bên thì phát triển kinh tế lại có vai trò và ảnh hưởng khác nhau
đối với các vấn đề thuộc khối. Sự khác nhau này còn được biểu hiện ở những lợi
ích mà mối quan hệ này mang lại cho mỗi bên hay chính là lợi ích riêng của EU,
ASEAN trong hợp tác kinh tế giữa hai bên.
2. Với Liên minh Châu Âu EU
Là nền kinh tế lớn mạnh của Thế giới nhưng không vì thế mà kinh tế EU
không chứa đựng trong nó những hạn chế. Hợp tác với một đối tác mạnh hay yếu
trong kinh tế không quan trọng bằng việc đối tác đó đem lại lợi ích gì? Quan hệ đó
giúp giải quyết những hạn chế của nền kinh tế đến đâu. EU vẫn sẵn sàng hợp tác và
phát triển quan hệ đó với nền kinh tế yếu hơn là ASEAN là vì:
EU có những lợi thế, thế mạnh to lớn mà khi hợp tác với ASEAN sẽ giúp EU
tận dụng triệt để, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, đó là : có kinh nghiệm phát
triển kinh tế đặc biệt trong các lĩnh vực như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, khoa
học công nghệ, xây dựng cơ sở hạ tầng, Trong khi đó đây lại là những lĩnh vực
còn yếu của ASEAN, hợp tác với EU sẽ giúp cho ASEAN tăng cường được năng
lực kinh tế của mình.
ASEAN gồm nhiều quốc gia đang phát triển, có nhu cầu về phát triển công
nghệ sản xuất, vì thế EU coi ASEAN là thị trường tiềm năng về thiết bị sản xuất
công nghiệp.
Trong cơ cấu kinh tế của EU thì những ngành đòi hỏi nhiều nhân công như
may mặc, giày da, chế biến thuỷ hải sản, không chiếm vị trí quan trọng, trong khi
đó với dân số hơn 530 triệu dân, trình độ chưa cao thì ASEAN có thể trở thành thị
trường lao động tiềm năng cho EU, cũng như là nơi cung cấp các sản phẩm công
nghệ thấp cho EU. Ngược lại, ASEAN cũng là một thị trường lớn cho các sản
phẩm thế mạnh của EU như công nghiệp, điện tử, viễn thông, hàng không
5
Đầu tư là một trong những thế mạnh của EU nhất là khi EU cho lưu hành
đông tiền chung Euro. EU muốn thông qua sức mạnh tài chính thể hiện ở đầu tư
nước ngoài để tìm kiếm cơ hội mới cho phát triển kinh tế. Trong khi đó với
ASEAN dòng vỗn đầu tư quốc tế là một trong những nhân tố góp phần thúc đẩy
nền kinh tế khối phát triển.
Mặc dù kinh tế Châu Á, trong đó có ASEAN trong những năm qua trải qua
nhiêu đợt khủng hoảng, khó khăn, đặc biệt là khủng hoảng tài chính năm 1997, và
mới đây là do đại dịch SARS nhưng thông qua những nghiên cứu phát triển ngắn
hạn và dài hạn trong thương mại thế giới, EU dễ dàng để nhận thấy cho đến 2050
Châu Á- Thái Bình Dương vẫn là nơi hấp dẫn nhất của nền kinh tế thế giới, trong
đó ASEAN nổi lên như một nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới. Một ASEAN nhiều
tiềm năng và ảnh hưởng kinh tế trên bản đồ kinh tế Thế giới ngày càng tăng là lý
do để EU có sự hợp tác kinh tế với ASEAN.
Nói chung quan hệ giữa EU và ASEAN đó là quan hệ giữa một khối kinh tế
mạnh nhất thế giới với một nên kinh tế khu vực còn đang trên đà phát triển tuy vậy
EU vẫn coi trọng quan hệ này bởi nó đem lại lợi ích cho nền kinh tế EU.
3. Với ASEAN
ASEAN là nhóm các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có những quốc gia
phát triển như Singapore, Thái Lan, Indonesia, cũng có những nước kém phát triển
hơn hầu hết là các nước thành viên mới. Mức độ phát triển kinh tế của ASEAN
không chỉ không đồng đều mà còn ở mức thấp so với các khối kinh tế khác, chẳng
hạn như với EU, vì thế phát triển kinh tế là một trọng tâm trong hợp tác của
ASEAN. Hợp tác với EU là sự hợp tác “được” nhiều cho ASEAN.
Phát triển quan hệ kinh tế với EU sẽ tạo điều kiện cho ASEAN dễ dàng tiếp
cận thị trường EU, một thị trường có mức độ tiêu dùng cao, với dân số hiện nay
khoảng 450 triệu người. Điều này càng có ý nghĩa với ASEAN khi là một nhà xuất
khẩu lớn của thế giới trong tương lai và hiện đang duy trì nền kinh tế lấy xuất khẩu
là trọng tâm.
6
Nhiều lĩnh vực kinh tế ASEAN còn yếu thì hiện là thế mạnh của EU đặc biệt
là ngành tài chính, ngân hàng. Trong đợt khủng hoảng tài chính năm 1997, một
trong những yếu tố giúp các nước ASEAN khắc phục được hậu quả và phục hồi
nhanh hơn là do có sự hợp tác mạnh mẽ với các nền kinh tế của EU.
EU là một trong những nhà đầu tư quốc tế lớn nhất thế giới với khoảng 500
tỷ USD đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hàng năm sẽ là một hấp dẫn không thể bỏ
qua với khu vực đang cần vốn đầu tư như ASEAN. Hầu hết các nước ASEAN đều
coi FDI là một trong những động lực phát triển của nền kinh tế, là nguồn cung cấp
chủ yếu cho các kế hoạch phát triển kinh tế ở cả tầm vi mô hay vĩ mô.
Hợp tác với EU - một nền kinh tế có nhiều kinh nghiệm trong phát triển sẽ
giúp ASEAN học hỏi được nhiều cho quá trình đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế
của mình. Quan hệ này càng quan trọng hơn đối với ASEAN khi ASEAN muốn
học tập mô hình liên kết kinh tế của EU, mong muốn EU giúp thành lập cộng đồng
kinh tế ASEAN.
Tiềm năng lớn về nguồn lao động của ASEAN sẽ phục vụ tốt cho phát triển
kinh tế khi được sử dụng vào các ngành đòi hỏi nhiều nhân công, cung cấp những
mặt hàng thiết yếu cho thị trường EU.
Quan hệ với EU sẽ là thuận lợi cho ASEAN tận dụng những ưu điểm về lao
động, về tài nguyên thiên nhiên, về vị trí địa lý cho việc phát triển kinh tế khu vực
Đông Nam Á. Việc quan hệ kinh tế với một đối tác lớn mạnh như EU sẽ giúp cho
ASEAN nâng cao được vị trí của mình trên bản đồ kinh tế thế giới, giảm bớt sự
phụ thuộc vào một số nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ.
Quả đúng là có vẻ như ASEAN cần EU hơn vì ASEAN có được nhiều từ
quan hệ với EU nhưng thực tế cho thấy, ASEAN gặp phải không ít khó khăn khi
duy trì mối quan hệ với EU-một nền kinh tế phát triển cao và rất nhiều kinh
nghiệm. Vậy nên muốn cho quan hệ này có mang lại giá trị tích cực cho kinh tế
ASEAN thì ASEAN phải biết khắc phục những hạn chế này.
7
Tóm lại quan hệ kinh tế EU- ASEAN có ý nghĩa nhất định với cả hai bên,
tuy rằng mỗi bên tìm được những lợi ích riêng cho mình nhưng lợi ích chung lớn
nhất đối với cả hai bên là phát triển kinh tế, tận dụng triệt để những điểm mạnh và
hạn chế và khắc phục những mặt yếu. Đây cũng chính là cơ sở giúp hình thành
quan hệ hợp tác kinh tế EU- ASEAN.
II. QUAN HỆ KIN TẾ EU - ASEAN
Sáng kiến hợp tác thương mại khu vực EU-ASEAN (TREATI), đã góp phần
tích cực vào mở rộng thương mại, tăng dòng đầu tư vào ASEAN cũng như thiết lập
cơ chế đối thoại có hiệu quả về hợp tác trên lĩnh vực thương mại, thị trường, đầu tư
giữa hai khu vực. TREATI cũng là một trong những điều kiện quan trọng để hai
bên tiến đến hiệp định thương mại tự do song phương.
Về thương mại, năm 2002, thương mại hai chiều EU-ASEAN chiếm 5,1%
tổng thương mại thế giới. EU hiện là đối tác thương mại lớn thứ 3 của ASEAN
chiếm 14% thương mại của ASEAN. Đáng kể tới là 16% giá trị xuất khẩu của
ASEAN là nằm ở EU, chính EU đã góp phần đáng kể đưa ASEAN trở thành nhà
xuất khẩu lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ. Do trước khi EU mở rộng, phần nhiều
thương mại của EU với nước ngoài là của các nước sắp gia nhập, vậy nên khi EU
mở rộng ASEAN bớt một đổi thủ trên “danh nghĩa” và trở thành đối tác thương
mại lớn thứ 3 của EU, trước cả Mỹ.
Một trong những quan tâm của EU ở Châu Á đó là phát triển ngành ngân
hàng, một ngành cần cho nhu cầu đang phát triển của Châu Á nhưng các nước
Châu Á lại chưa có nhiều kinh nghiệm. Vì lẽ đó mà trong đợt khủng hoảng tài
chính năm 1997, EU là đối tác chịu nhiều tổn thất nhất, nhưng cũng chính nhờ sự
hợp tác với một đối tác nhiều tiềm lực như EU mà kinh tế Châu Á, các nước
ASEAN mới nhanh được phục hồi hơn.
Thương mại giữa EU và ASEAN đã có chiều hướng giảm vào năm 2003, do
những nguyên từ phía EU đang chuẩn bị kết nạp thành viên mới, đẩy mạnh thương
mại với các nước này thông qua hiệp định thương mại ặư do ký trước đó với một số
8
nước. ASEAN cũng gặp phải một số vấn đề về an ninh khu vực, chịu hệ quả lan
chuyền của vụ khủng bố 11 tháng 9. Năm 2003, thương mại hai chiều giảm 3,3%
so với năm 2002 trong khi so với năm 2000-năm thương mại hai chiều đạt mức cao
nhất thì vẫn sụt giảm đáng kể.
9
10
THƯƠNG MẠI EU- ASEAN 2002
Đối tác nhập khẩu chính của ASEAN
Các
nước còn
lại
49%
Trung
Quốc :7%
EU:
12%
Nhật
Bản:18%
Mỹ:
14%
Đối tác nhập khẩu chính của EU
Các
nướ
c
còn
lại:
50
%
ASEAN:6%
EFTA:11%
Các ứng
viên:15%
Mỹ:18%
Đối tác nhập khẩu chính của ASEAN
Mỹ: 19%
EU:18%
Nhật Bản:
14%
Trung Quốc
6%
Các
nước
còn lại
45%
Đối tác nhập khẩu chính của EU
Các
nướ
c
còn
lại
45
%
ASEAN
4%
EFTA:10%
Các ứng
viên:
17%
Mỹ: 24%
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, hầu hết các đối tác và đối thủ kinh tế chính
của EU đều tìm kiếm những con đường để phát triển kinh tế của cả khối hoặc riêng
từng nền kinh tế thành viên. Với ASEAN cũng vậy, để không bị phụ thuộc hoàn
toàn vào một đối tác, ASEAN cũng có những hợp tác đồng thời với nhiều đối tác
tiềm năng khác như Trung Quốc, Mỹ. ASEAN và Trung Quốc ký hiệp định thương
thương mại tự do đến 2010, Singapore ký với Mỹ hiệp định tự do thương mại năm
2002, điều này khiến EU phải có chiến lược mới trong quan hệ kinh tế với ASEAN
và với từng thành viên ASEAN để vừa nâng cao được vị trí của mình với đối tác
tiềm năng ASEAN, vừa bảo đảm được những lợi ích hiện có ở khu vực này.
Những chỉ số tăng trưởng gần đây của kinh tế ASEAN cũng như những nỗ
lực của các nền kinh tế thành viên trong việc cải thiện môi trường đầu tư đã khiến
ASEAN trở thành địa chỉ hấp dẫn không chỉ đối với các nhà đầu tư của EU.
11
THƯƠNG MẠI EU-ASEAN (1996-2002). Đơn vị tỷ euro
• EU xuất sang ASEAN
• EU nhập từ ASEAN
• Cán cân xuất nhập
khẩu
Nguồn: Eurostat
Tuy nhiên trong tổng lượng đầu tư gần 500 tỷ USD hàng năm của EU ra
nước ngoài, ASEAN chỉ giành được số ít và lại có xu hướng giảm từ sau khủng
hoảng tài chính. Nếu như FDI đạt đỉnh cao vào năm 2000 thì đã sụt giảm mạnh
trọng năm tiếp theo. Nảm 2003, lượng FDI vào ASEAN tăng trở lại, tăng gần 48%
so với 2002, đạt 16,8 tỷ euro, trong đó EU đóng góp 35% tương đương 5,9 tỷ euro
nhỉnh hơn một chút so với FDI vào ASEAN năm 2000. Một trong những nguyên
nhân dẫn đến lượng FDI vào ASEAN sụt giảm đó là mặc dù FDI vào Châu Á tăng
nhưng lại tập trung nhiều vào Trung Quốc, với cơ chế khuyến khích đầu tư hiệu
quả, Trung Quốc hiện chỉ đứng sau Mỹ về lĩnh vực thu hút vốn đầu tư. Trung Quốc
hiện là thách thức lớn đối cho ASEAN trong thu hút vốn đầu tư từ EU cũng như từ
các đối tác thương mại khác cũng có quan hệ với Trung Quốc. Để giải quyết được
khó khăn này, ASEAN đang nỗ lực tăng cường đối thoại với các đại diện kinh tế
của EU thông qua các diễn đàn đa phương, chính phủ các nước cũng đang tạo
những thuận lợi to lớn cho các nhà đầu tư EU thông qua cải cách luật, thủ tục hành
chính, các chín sách ưu tiên cụ thể với EU. Đặc biệt việc ASEAN thành lập được
khu vực thương mại tự do AFTA vào tháng 1 năm 2003 đã chứng tỏ cho nỗ lực của
ASEAN trong tăng cường mức độ hội nhập cảu các nền kinh tế thành viên, tạo môi
trường tự do kinh tế cho sự phát triển hợp tác quốc tế. Đến nay, mặc dù còn nhiều
khó khăn nhưng dòng FDI vào ASEAN đã tăng trở lại, thương mại của ASEAN
sang EU cũng tăng 3,3% trong quý I của 2004, cùng với đó là những chỉ số kinh tế
tăng trưởng khả quan của ASEAN khiến đây vẫn được EU coi là đối tác quan
trọng, chiến lược ở Châu Á. Tuy nhiên để cho ASEAN trở thành khu vực thương
mại tự do thực sự, theo đúng nghĩa của nó thì cần phải nỗ lực nhiều hơn, hiện EU
đang sẵn sàng trao đổi những kinh nghiệm của mình trong lĩnh vực này cho
ASEAN thông qua các hội nghị, diễn đàn khu vực và song phương, thông qua các
chương trình hợp tác về luật, kinh tế, giáo dục, các chương trình phát triển năng lực
làm việc của các ngân hàng ở khu vực ASEAN.
12
Từ 2003, TREATI được khởi động và được cả EU và ASEAN nỗ lực đưa
vào thực hiện. Có thể nói, TREAETI là mốc lớn trong quan hệ kinh tế EU-
ASEAN, tạo cơ sở để xây dựng một quan hệ bền chặt và hiệu quả hơn trong tương
lai, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại đầu tư. Đây cũng là bước đi cần thiết để
tiến đến việc xây dựng hiệp định thương mại tự do.
Ngoài những hợp tác cụ thể ở lĩnh vực thương mại, đầu tư giữa EU và
ASEAN còn có các chương trình hợp tác khác cũng rất có ý nghĩa, như : Chương
trình hợp tác EU-ASEAN về vấn đề tiêu chuẩn, chứng chỉ quản lý chất lượng bắt
đầu từ 2004 đến 2005, với vốn đầu tư khoảng 9 tỷ euro; hợp tác trong lĩnh vực phát
triển năng lượng sạch từ 2002 đến 2006, tổng giá trị 18 tỷ euro; hợp tác trong lĩnh
vực về quyền sở hữu trí tuệ từ 1999 đến 2005, tổng dự án là 8 tỷ euro
Với Việt Nam, quan hệ với EU đặc biệt có ý nghĩa. Những vụ tranh chấp về
hải sản chế biến giữa Việt Nam và Bộ thương mại Hoa Kỳ đã cho thấy không thể
chỉ dựa vào một thị trường mà phải luôn mở rộng và tìm kiếm thị trường mới. EU
13
Đơn vị:
Tỷ đôla
Dòng FDI chính vào ASEAN, 1991-2001
Mỹ
Nhật Bản
Các nước khác
tuy không phải là thị trường mới nhưng việc EU kết nạp thêm 10 thành viên đã
khiến EU trở thành một thị trường đầy tiềm năng mới đối với xuất khẩu của Việt
Nam.
Các nhà đầu tư uy tín của EU như: Pháp, Đức, Thuỵ Điển, Anh, Hà Lan, đã
trở nên quen thuộc với Việt Nam thông qua các hình thức hợp tác, đầu tư rất đa
dạng. Chính phủ Việt Nam cũng có những chính sách cụ thể để khuyến khích các
nhà đầu tư từ EU, tăng cường các cơ chế hợp tác thông qua các diễn đàn khu vực,
quốc tế như ASEAM, APEC, để giúp hai nền kinh tế hiểu nhau và hợp tác có hiệu
quả hơn. Sau những bất ổn an ninh ở khu vực Đông Nam Á, việc Việt Nam vẫn có
nền chính trị và an ninh ổn định đã tạo sức hấp dẫn không nhỏ đối với các nhà đầu
tư EU. Ngoài ra những nỗ lực ở tầm vĩ mô của chính phủ Việt Nam cùng những chỉ
số tăng trưởng kinh tế rất khả quan đã khiến cho không chỉ EU mà cácđốitáckhác
của Việt Nam cũng thấy yên tâm để tiếp tục hợp tác và phát triển hoạt động ở
ViệtNam.
Tóm lại quan hệ kinh tế EU- ASEAN trong thời gian qua đã trải qua nhiều
thăng trầm. Sau năm 2000 đỉnh cao về hợp tác, đầu tư và thương mại hai chiều EU-
ASEAN thì do nhiều yếu tố khách quan, chủ quan thực tế các chỉ số phát triển kinh
tế qua hợp tác song phương đã không phản ánh được tiềm năng và mong muốn của
hai bên. Tuy nhiên sau những năm sụt giảm (2001, 2002), quan hệ hai bên đã đạt
được nhiều thành tựu nhất định, hứa hẹn một hợp tác hiệu quả và chặt chẽ hơn
trong tương lai. Có được thành công này là do nỗ lực của cả hai bên cả ở tầm hoạch
định chính sách và hợp tác cụ thể, điều này cũng chứng tỏ sự hợp tác đã mang lại
những lợi ích nhất định cho cả hai bên không chỉ ở lĩnh vực kinh tế.
III. NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA CHO QUAN HỆ KINH TẾ EU -
ASEAN
Sáng kiến phát triển thương mại EU- ASEAN (TREATI) đã tạo ra sự hợp tác
chặt chẽ hơn giữa hai khối trong lĩnh vực thương mại, đầu tư, ngoài ra cùng với
những cuộc gặp gỡ ở cấp bộ trưởng tại các diễn đàn ASEM, APEC, những chiến
14
lược phát triển của mỗi bên, đều tạo ra nhiều thuận lợi cho quan hệ EU- ASEAN.
Tuy nhiên trong quá trình hợp tác, mối quan hệ này không phải là không gặp phải
những khó khăn, đó có thể là từ những nguyên nhân gián tiếp như hệ thống chính
trị, an ninh, hoặc những nguyên nhân trực tiếp như mức độ phát triển và hội nhập
của nền kinh tế, cơ chế tài chính, pháp luật, trình độ phát triển khoa học kỹ thuật
Dưói đây xin đề cập đến hai khó khăn, một là đối với các nước ASEAN, một là đối
với EU.
1. Vấn đề đối với ASEAN
ASEAN đang không ngừng nỗ lực để phát triển nền kinh tế của khu vực.
Hợp tác là một trong những giải pháp quan trọng, nhất là với một khối kinh tế
mạnh hơn và nhiều kinh nghiệm như EU, nhưng cũng chính vì thế mà để sự hợp
tác EU- ASEAN thực sự hiệu quả thì có nhiều vấn đề đặt ra cho ASEAN.
ASEAN với tiềm năng lớn về cung cấp các sản phẩm từ thực vật với lợi thế
về khí hậu và nguồn lao động dồi dào, giá rẻ. EU là thị trường lớn, nhu cầu phong
phú về các sản phẩm loại này vì thế EU muốn ASEAN sẽ là nhà cung cấp thực
phẩm cho EU. Tuy nhiên có những khó khăn mà ASEAN phải giải quyết được nếu
muốn phát triển thương mại thực phẩm với EU
Đảm bảo an toàn và vệ sinh trong trồng trọt và chế biến rau quả. Xuất khẩu
rau quả sang thị trường EU của các nước ASEAN đều có ý nghĩa quan trọng đối
với nền kinh tế của mỗi nước vậy nên nhất thiết phải đáp ứng được những tiêu
chuẩn về vệ sinh của EU cho dù EU nổi tiếng là thị trường khó tính về thực phẩm.
Để giải quyết được khó khăn này, các nước ASEAN phải hiểu rõ về hệ thống tiêu
chuẩn chất lượng của EU, phải nâng cao chất lượng quy trình sản xuất và tiêu thụ,
nâng cấp máy móc thiết bị. Những vấn đề này đều cần đến sự đầu tư không nhỏ về
chất xám và tài chính vì thế càng không đơn giản với nhiều nước ASEAN vốn chưa
quen với sự nghiêm ngặt trong quản lý chất lượng.
Nếu như EU là thị trường phát triển hoàn thiện về sự thống nhất trong tiền tệ,
thuế quan, thương mại thì ASEAN vẫn còn là một thị trường có mức độ hội nhập
15
chưa cao, ngay giữa các nước thành viên của ASEAN cũng còn nhiều vẫn đề chưa
thống nhất trong chiến lược phát triển kinh tế. Những hạn chế này về mức độ hội
nhập của ASEAN đã là cản trở đối với quan hệ với EU, đòi hỏi ASEAN phải sớm
khắc phục.
EU là một nhà đầu tư quốc tế hàng đầu, những kinh nghệm của EU và những
tiềm năng của ASEAN khiến cho EU rất muốn đầu tư vào ASEAN tuy nhiên với
ASEAN hiện nay ngoài các nguyên nhân cố hữu thì còn những nguyên nhân mới từ
an ninh, các nạn dịch, những bất ổn về chính trị khiến cho quan hệ của EU với
ASEAN gặp nhiều hạn chế. Ảnh hưởng tiêu cực từ những nguyên nhân này đã thể
hiện cụ thể thông qua lượng FDI của EU vào ASEAN giảm (năm 1999 là 7,8 tỷ
euro, 2000: 6,4 tỷ euro).
Trong xu thế hợp tác toàn cầu phát triển như hiện nay, mọi quốc gia mọi khu
vực đều cố gắng tận dụng ưu thế của mình để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài,
phát triển kinh tế. Một trong những nguyên nhân có thể ảnh hưởng đến quan hệ
với EU của ASEAN đó là sự nổi lên như một hiện tượng của kinh tế thế giới-Trung
quốc, hiện Trung Quốc chỉ đứng sau Mỹ về nguồn FDI, Trung Quốc hiện là địa chỉ
đầu tư hấp dẫn và an toàn cho các nhà đầu tư quốc tế kể cả từ EU. Ngoài ra các
khu vực khác như Nam Mỹ, vùng Caribê với nhiều thế mạnh về tài nguyên, tự
nhiên cũng đang có sức hút nhất định với không chỉ các nhà đầu tư EU. Một trong
những giải pháp cho vấn đề này là nâng cao năng lực cạnh tranh của các nền kinh
tế thành viên của ASEAN, điều này đòi hỏi chính phủ các nước phải cố gắng rất
nhiều trong các vấn đề liên quan đến thuế quan, thủ tục hành chính, mức độ bảo hộ
cho các ngành kinh tế trong nước, hay cả vấn đề an ninh và ổn định chính trị trong
nước.
Trình độ phát triển của các nền kinh tế cũng như kinh nghiệm trong các lĩnh
vực kinh tế cụ thể như tài chính, ngân hàng của ASEAN cũng là một vấn đề. Mức
độ phát triển khác nhau khiến cho kết quả hợp tác toàn khối sẽ không cao, không
tận dụng hết được tiềm năng của đối tác. Khủng hoảng tài chính năm 1997 là minh
16
chứng cho sự thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng của một số
nước ASEAN, những hiện tượng như vậy sẽ gây ấn tượng xấu cho những đối tác
tương lai cũng như mức độ hợp tác của các đối tác hiện có. Khi một nền kinh tế
không đủ mạnh để gánh vác những sự cố thì các đối tác sẽ phải chấp nhận việc
cùng chia sẻ và gánh vác các hậu quả của sự cố nếu có.
Nỗ lực xây dựng và hoàn thiện thị trường chung cho các nước trong khối
phản ánh nhu cầu phải nâng cao mức độ hội nhập của nền kinh tế ASEAN, làm
được như vậy không chỉ góp phần tích cực vào phát triển kinh tế thương mại với
EU mà sẽ thuận lợi hơn cho ASEAN trong quan hệ với các quốc gia và khối kinh tế
khác.
Vấn đề chính trị ở ASEAN không thể không ít nhiều ảnh hưởng đến quan hệ
kinh tế giữa EU và ASEAN. Đó không chỉ là những biểu hiện bất ổn định, ảnh
hưởng trực tiếp đến các hoạt động hợp tác mà đó còn là những khác biệt về quan
điểm chính trị khiến cho không phải tất cả các quốc gia của mỗi bên đều dễ dàng đi
đến thống nhất trong các vấn đề. Điều này giờ đây đã không còn ảnh hưởng nhiều
bởi xu thế hợp tác đa phương đa dạng trên mọi lĩnh vực không chỉ có kinh tế miễn
là sự hợp tác đó đem lại lợi ích quốc gia.
Những vấn đề trên đây đòi hỏi ASEAN sớm phải giải quyết để tạo điều kiện
thuận lợi hơn nữa cho quan hệ kinh tế EU – ASEAN. Tất nhiên đây không phải chỉ
là những cản trở đối với quan hệ giữa ASEAN và EU mà còn với nhiều đối tác
khác nhưng những vấn đề này quan trọng và cần ASEAN phải sớm khắc phục khi
quan hệ với EU một đối tác kinh tế lớn,một mô hình liên kết kinh tế mà ASEAN
đang học tập theo.
2 . EU mở rộng - một khó khăn mới cho hợp tác kinh tế EU- ASEAN
Ngày 1 tháng 5 năm 2004, EU15 chính thức kết nạp thêm 10 thành viên trở
thành EU25. Sự kiện có ý nghĩa này tiếp sau việc EU cho lưu hành đồng tiền chung
đã chứng tỏ EU đang trên đường tiến đến mục tiêu thống nhất EU, làm cho EU
không chỉ là một khối chặt chẽ về kinh tế mà còn trên nhiều lĩnh vực khác. EU mở
17
rộng vừa có tác động tiêu cực và tích cực đối với EU, những tác động đó sẽ khiến
cho EU phải có những thay đổi trong chiến lược phát triển của mình. Thực trạng
mới và những chính sách mới của EU tất nhiên sẽ có ảnh hưởng đến các đối tác của
EU.
Việc EU mở rộng có những tác động tích cực đối với hợp tác EU- ASEAN,
nhất là trong lĩnh vực thương mại. Một thị trường lớn hơn với nhu cầu tiêu dùng
nhiều hơn sẽ là điểm hấp dẫn với ASEAN một khu vực kinh tế hướng vào xuất
khẩu, có thế mạnh về các sản phẩm chế biến, lương thực thực phẩm. Một số thị
trường trước đây chưa có điều kiện tiếp cận thì nay khi là thành viên của EU,với
ASEAN sẽ dễ dàng thâm nhập hơn, thuận lợi hơn để hợp tác kinh tế với các quốc
gia này.
Mặc dù vậy EU mở rộng tạo ra những bất lợi không nhỏ tới quan hệ kinh tế
giữa EU và ASEAN. Có nhiều lý do
Thứ nhất, các quốc gia thành viên mới hầu hết là những nước có nền kinh tế
phát triển thấp ở Châu Âu, GDP của các nước này chỉ dưới GDP trung bình của EU
trước đây, mức độ tiêu thụ hàng hoá bằng một nửa mức trung bình của EU. Thực
tế này cho thấy, các nước thành viên mới sẽ là một vấn đề cần được EU cân nhắc
khi hợp tác với các nền kinh tế khác.
Thứ hai, vì đều là những nền kinh tế đang phát triển nên các nước mới đều
cần nguồn vốn đầu tư. FDI trở thành một trong những động lực quan trọng cho nền
kinh tế của các thành viên mới này. Trong khi đó với ASEAN, FDI cũng có v ai trò
không thể thiếu được. Tất nhiên đã là kinh tế thì đều tính đến cái có lợi nhưng khi
các nước thành viên mới và các nước ASEAN có những ưu thế ngang nhau thì các
nước EU sẽ được chọn bởi điều này cũng phù hợp với chiến lược rút ngắn khoảng
cách giữa các thành viên EU. Vì thế đây có thể là yêú tố gây ảnh hưởng đến dòng
FDI của EU vào ASEAN trong thời gian tới.
Thứ ba, nếu như thương mại và xuất khẩu hàng chế biến là thế mạnh của các
nước ASEAN thì đây cũng được coi là lĩnh vực mà một số thành viên mới của EU
18
quan tâm, ngoài ra những lĩnh vực về kỹ thuật, công nghệ có thể là tiềm năng cho
các nước ASEAN cũng đồng thời nằm trong khả năng của các nước này. Ngoài ra
trong thương mại, các nước thành viên được hưởng ưu thế hơn về thuế, thủ tục hải
quan so với ASEAN vì đã là thành viên của EU. Thực tế này khi n cho thương mại
của ASEAN với EU chịu nhiều cạnh tranh hơn, tất nhiên sẽ là khó khăn hơn với
ASEAN khi muốn tận dụng thị trường EU.
Không chỉ đối với các thành viên mới mà cả EU hiện đang phải đối mặt với
nạn thất nghiệp, việc các nước gia nhập sau có tỷ lệ thất nghiệp cao đã khiến cho
thất nghiệp trở thành vấn đề của cả EU. Với các nước cũ đây là hệ quả của quá
trình phát triển kinh tế chỉ chú trọng vào các ngành công nghệ cao, đòi hỏi ít nhân
công. Thưc tế này buộc EU phải có chiến lược phát triển kinh tế phù hợp, khắc
phục được vấn đề lớn này. Phát triển thương m ại và các ngành sản suất đòi hỏi
nhiều lao động là một giải pháp bên cạnh các nỗ lực cải cách về hệ thống bảo hiểm,
trợ cấp xã hội, hỗ trợ việc làm. Thị trường khổng lồ của EU25 làm yên tâm mọi nhà
xuất khẩu, một thị trườg như vậy đã tạo được niềm tin cho các nước thành viên
phát triển thương mại, xuất khẩu nội khối, nhất là khi có đựơc những ưu thế vượt
trội so với các nhà xuất khẩu khác do được hưởng những quy chế thành viên EU.
Tóm lại điều cơ bản khiến cho EU mở rộng có thể có tác động tiêu cưc đến
quan hệ kinh tế EU- ASEAN chính bởi sự tương đồng nhiều mặt giữa nền kinh tế
ASEAN và nền kinh tế của các nước thành viên mới. Những thế mạnh của
ASEAN có thể sẽ bị các nền kinh tế mới của EU tận dụng hiệu quả và trở nên ưu
thế hơn ASEAN với thuận lợi của thành viên EU.
Tuy nhiên không thể coi EU mở rộng là yếu tố cản trở quan hệ EU- ASEAN
bởi một điều hợp tác kinh tế chỉ tuân theo những lợi ích kinh tế. EU mở rộng chỉ
nên được xét tới trong chiến lược phát triển kinh tế giữa EU- ASEAN như một yếu
tố có thể gây tác động, có thể có nhứng tác động tích cực có thể là những tác động
tiêu cực. Điều quan trọng là phải hiểu rõ về yếu tố này, khắc phục được hạn chế, t
ận dụng tốt những thuận lợi mới mà cục diện mới đem lại.
19
Như vậy, hợp tác EU – ASEAN đem lại những lợi ích nhất định cho cả hai
nền kinh tế, tuy nhiên trong bối cảnh mới của các nước ASEAN cũng như với
những vấn đề mới đặt ra cho ASEAN và EU muốn cho sự hợp tác thực sự đem lại
hiệu quả thì hai bên cũng phải giải quyết nhiều khó khăn. Sự khó khăn đối với
ASEAN đó là mức độ phát triển và hội nhập của nền kinh tế chưa cao, còn với EU
là hệ quả của một nền kinh tế phát triển cao và thống nhất, ngoài ra một yếu tố mới
phải được đến trong quan hệ kinh tế EU- ASEAN đó là sự mở rộng của EU mang
theo cả những ảnh hưởng tốt và không tốt cho quan hệ giữa hai khối.
20
KẾT LUẬN
Quan hệ EU- ASEAN đã được tạo dựng từ cách đây hơn 30 năm. Cùng với
sự lớn mạnh của hai khối, quan hệ song phương cũng ngày càng phát triển, đa dạng
ở nhiều lĩnh vực, trong số đó hợp tác về kinh tế là ưu tiên lớn đối với cả hai khối.
EU là nền kinh tế phát triển cao, có nhiều lợi thế để hấp dẫn đối tác như thị
trường rộng lớn với khoảng 450 triệu dân, mức độ hội nhập và thống nhất của nền
kinh tế EU là khá lý tưởng, nhu cầu tiêu dùng nhiều và phong phú Tuy nhi ên
không vì thế mà phát triển kinh tế bị xem nhẹ ngược lại, EU muốn tận dụng những
lợi thế của mình để phát triển nền kinh tế chung nhiều hơn nữa. ASEAN tuy không
có được những thế mạnh như EU cũng vẫn hấp dẫn EU với tiềm năng về tự nhiên,
con người, có thể là đối tác kinh tế chiến lược trong tương lai không xa. EU-
ASEAN đã có những hợp tác rất hiệu qủa trong lĩnh vực thương mại, đầu tư, tài
chính, ngân hàng.
Ngoài những thuận lợi, EU và ASEAN còn phải nỗ lực để khắc phục những
khó khăn do yêú tố khách quan mang lại như bất ổn về an ninh, khủng hoảng tài
chính, nạn khủng bố quốc tế; và các yếu tố mang tính chủ quan như mức độ hội
nhập thấp của kinh tế ASEAN, trình độ phát triển chưa cao của các nền kinh tế của
cả hai bên, hay mới đây là việc EU mở rộng v à sự ra đời ch nh thức khu vực
thương m ại tự do AFTA.
TREATI là cơ chế hợp tác thương mại giữa hai khu vực được coi là sự kiện
quan trọng đánh dấu những cố gắng của hai bên nhằm đẩy mạnh hợp tác kinh tế
EU- ASEAN. Tuy nhiên để sáng kiến này thực sự đem lại hiệu quả thì EU và
ASEAN cần phải hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong việc hoạch định các chính sách
chứ không chỉ trong những hoạt động hợp tác kinh tế cụ thể.
21
Tăng cường hợp tác song phương là chiến lược phát triển không chỉ với
ASEAN mà với EU, ASEAN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ở khu vực Châu Á
nhất là trong lĩnh vực kinh tế, quan hệ với ASEAN cũng là một hướng đi mới, độc
lập với Mỹ của EU.
MỤC LỤC
Dòng FDI chính vào ASEAN, 1991-2001 13
22