Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểuluận tn bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam và vận dụng thực hiện quy chế dân chủ ở đơn vị cơ sở quân đội nhân dân việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.44 KB, 27 trang )

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trường

Khóa: 11
Ngày nộp: 24/8/2022
Người chấm

Số phách

(Ký ghi rõ họ tên)

Số phách

Điểm
Bằng số

Bằng chữ

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Khoa: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Lớp: Hồn chỉnh chương trình CCLLCT/

Họ và tên: VŨ NGỌC
THẠCH Ngày sinh: 26/9/1973
Lớp: Hoàn chỉnh chương trình CCLLCT/ Trường QS
Khóa: 11
Ngày nộp: 24/8/2022

Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa


ở Việt Nam và vận dụng thực hiện quy chế
dân chủ ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay


MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

I.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ

1

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.

Quan điểm về dân chủ và chế độ dân chủ

1

2.

Quan niệm về chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa

5


II.

BẢN CHẤT NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở

10

VIỆT NAM

1.

Bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

10

2.

Nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

12

III

VẬN DỤNG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở

13

ĐƠN VỊ CƠ SỞ TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT
NAM HIỆN NAY
KẾT LUẬN


21

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

22


MỞ ĐẦU

Dân chủ là một phạm trù đa nghĩa với nhiều tầng bản chất và các hình
thức khác nhau. Trong các thời đại lịch sử khác nhau, thì bản chất, trình độ
phát triển của dân chủ cũng có những biến đổi khác nhau. Trình độ dân chủ bị
chi phối bởi trình độ phát triển kinh tế, văn hố, dân trí và các nhân tố xã hội
khác. Dân chủ là một thước đo, tiêu chí đánh giá trình độ văn minh của xã hội,
trình độ giải phóng xã hội, giải phóng con người, phản ánh điều kiện, năng lực
làm chủ xã hội của con người. Trải qua, quá trình phát triển các chế độ dân
chủ trong lịch sử, đến chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, các quyền làm chủ của
nhân dân ngày càng được mở rộng và phát huy trên thực tế; các thể chế cơ chế
dân chủ không ngừng được hoàn thiện, nhân dân ngày càng tham gia sâu rộng
vào quản lý nhà nước. Và thực tế lịch sử đã chứng minh tính ưu việt của dân
chủ xã hội chủ nghĩa so với nền dân chủ tư sản.
Ở nước ta “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực thật sự phát triển đất nước.”1. Trong những năm
qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng hoàn thiện chế độ dân chủ
xã hội chủ nghĩa nhằm hướng tới xây dựng một nền dân chủ thực sự. Tuy
nhiên, trong đời sống dân chủ hiện nay, hiện tượng vi phạm dân chủ, dân chủ
hình thức diễn ra phổ biến ở nhiều nơi, do đó thực hiện dân chủ ở cơ sở vẫn
cịn hình thức, hiệu quả thấp, là điều kiện để các thế lực thù địch lợi dụng dân
chủ, nhân quyền để xuyên tạc, chống phá chế độ ta, ảnh hưởng trực tiếp đến

cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
Hơn nữa, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế
thị trường, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa hiện nay, đã và đang đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện chế độ dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm cho cơng
dân được thực hành hình thức dân chủ trên thực tế. Vì vậy, nghiên cứu “Bản
chất của nền dân chủ XHCN ở Việt nam và vận dụng thực hiện quy chế dân
chủ ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” là đặc biệt cần
thiết.


1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,, Nxb CTQG, H.2011. tr.84


1

NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA

1. Quan điểm về dân chủ và chế độ dân chủ
* Quan điểm về dân chủ:
Thuật ngữ “dân chủ” có nguồn gốc từ với cụm từ “demokratia” có
nghĩa là “quyền lực của nhân dân” được ghép từ chữ demos là “nhân dân” và
kratos là “quyền lực” vào khoảng giữa thế kỷ thứ V đến thứ IV trước Cơng
ngun để chỉ hệ thống chính trị tồn tại ở một số thành bang Hy Lạp. Như
vậy, theo nghĩa khởi thủy, dân chủ là khái niệm dùng để chỉ một hình thức tổ

chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận n h â n d â n là
nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của văn minh nhân loại, qua mỗi thời
đại, mỗi chế độ xã hội, khái niệm dân chủ được hiểu và diễn đạt với nhiều
nghĩa khác nhau, từ chiều rộng, chiều sâu đến quy mô, liên quan đến nhận
thức, hành vi con người, các cộng đồng xã hội và hoạt động của nhà nước.
Trong đó nổi lên các cách tiếp cận chủ yếu là:
Thứ nhất, dân chủ là một chế độ chính trị, một hình thức nhà nước. Ở
nghĩa này, dân chủ là khái niệm dùng để chỉ tính chất của mối quan hệ giữa
cộng đồng dân cư với nhà nước, theo đó cộng đồng là chủ thể gốc của quyền
lực và có quyền năng áp đặt ý chí lên nhà nước. Khác với các hình thức khác
của thiết chế nhà nước, trong thiết chế dân chủ, quyền của đa số, quyền bình
đẳng của mọi cơng dân, tính tối cao của pháp luật được chính thức thừa nhận;
những cơ quan quyền lực của Nhà nước do dân bầu cử mà ra. Dân chủ được
thực hiện thông qua hai hình thức cơ bản: Dân chủ đại diện (gián tiếp) vàdân
chủ trực tiếp.
Thứ hai, dân chủ là một hệ giá trị xã hội mang tính nhân văn cao cả.
Với nghĩa này, dân chủ được xác định như một lý tưởng nhân đạo, một giá trị
nhân văn, nó gắn liền với sự bình đẳng, cơng bằng xã hội và tự do. Chúng hợp
thành một hệ giá trị xã hội của văn minh và văn hóa mà con người và cộng


2

đồng người phải không ngừng sáng tạo ra thông qua lao động, đấu tranh và
tự giải


phóng mình ra khỏi áp bức, bóc lột để trở thành người tự do trong một xã hội
mà sự bình đẳng giữa người với người được thực sự tôn trọng và có khả năng

phát triển tối đa các năng lực làm chủ xã hội của họ.
Thứ ba, dân chủ là một kiểu tổ chức sinh hoạt của các tổ chức chính trị
- xã hội, cộng đồng dân cư dựa trên sự tham gia bình quyền của các thành
viên theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và tôn trọng ý kiến của thiểu số.
Với nghĩa này, dân chủ được hiểu theo nghĩa rất rộng, nó có thể tồn tại ở khắp
mọi nơi có tổ chức, có quyền lực và quản lý.
Thứ tư, dân chủ còn được xét với ý nghĩa là điều kiện để hình thành và
phát triển một nhân cách tồn diện của các chủ thể chính trị. Ðó là sự hình
thành thái độ, tính tích cực chính trị, sự chủ động, nhu cầu và sự tự giác tham
gia vào các q trình chính trị thực tiễn. Ðó là tinh thần trách nhiệm của cá
nhân công dân trong cuộc đấu tranh nhằm loại bỏ những gì phản dân chủ đang
tồn tại trong đời sống cộng đồng. Do vậy, dân chủ khơng chỉ là phạm trù
chính trị mà cịn là phạm trù đạo đức.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ là một phạm trù
chính trị - lịch sử, khi nhà nước xuất hiện, vấn đề dân chủ - quyền lực của dân
được xây dựng thành một chế độ dân chủ, hay một nền dân chủ, biểu hiện tập
trung ở chế độ nhà nước, thông qua chế độ nhà nước. Dân chủ là sự bình đẳng
về quyền lực giữa những cá nhân và cộng đồng. Sự bình đẳng quyền lực đó
được thể hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội… Dân chủ là một quan hệ xã hội, phản ánh khát vọng, nhu cầu
bình đẳng của con người trong hệ thống các quan hệ quyền lực. Là một quan
hệ quyền lực xã hội, dân chủ chịu sự qui định của phương thức sản xuất xã
hội, chế độ xã hội, giai cấp thống trị xã hội. Bởi vậy, trong chế độ xã hội dựa
trên chế độ tư hữu, giai cấp thốngtrị xã hội là giai cấp bóc lột, thì dân chủ thực
chất chỉ là dân chủ của thiểu số bóc lột, là “thiên đường của bọn giàu có”, và
là “hạn chế, cắt xén, giả hiệu, giả dối đối với các giai cấp bị áp bức bóc lột,
đối với người nghèo”. Khơng thể có bình đẳng giữa người giàu và người
nghèo” như V.I.Lênin khẳng định.



Sự hiện diện của dân chủ trong đời sống và quan hệ xã hội của con
người trong lịch sử gắn liền với sự phát triển xã hội. Cuộc đấu tranh cho dân
chủ là một nội dung, một mục tiêu của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc.
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, dân chủ từng bước được thực hiện, từ chỗ
các giai cấp bóc lột thống trị chà đạp, phủ nhận các quyền dân chủ của nhân
dân đến chỗ phải thừa nhận các quyền dân chủ của nhân dân về mặt pháp lý
và thực thi dân chủ một cách hạn chế.
* Quan điểm về chế độ dân chủ:
Về khái niệm “chế độ dân chủ”, trong tác phẩm “Góp phần phê phán
triết học pháp quyền của Hêghen”, C.Mác cho rằng: “Chế độ dân chủ là chế
độ nhà nước”; “chế độ dân chủ là sự tự quy định của nhân dân. ..”. “Chế độ
dân chủ ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện thực,
nhân dân hiện thực và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân”.
Kế thừa tư tưởng của C.Mác về chế độ dân chủ, V.I.Lênin đã phân tích
sâu sắc thực chất của chế độ dân chủ với tính cách là hình thức chính trị của
nhà nước, phân biệt sự khác nhau giữa chế độ dân chủ với các hình thức chính
trị khác của nhà nước. Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, V.I.Lênin
viết: “Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái
của nhà nước, cho nên cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi
hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng chế đối với người ta; một mặt là như
thế. Nhưng mặt khác, chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền
bình đẳng giữa những cơng dân, thừa nhận cho mọi người có quyền ngang
nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước”2.
“Chế độ dân chủ” là toàn bộ những thể chế, thiết chế cơ chế chính trị
thể hiện và bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, các quyền tự do bình đẳng
của nhân dân trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
Từ quan niệm trên ta thấy, chế độ dân chủ là một hình thức tổ chức xã
hội, là phương thức quản lý và điều hành xã hội được xây dựng thành các
2


V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ, M. 1976, Tr. 123.


thiết chế, cơ chế, quy chế, chế độ mang tính pháp lý để các chủ thể chính trị
thực hiện quyền lực của mình đối với xã hội.
Dưới góc độ chính trị - xã hội, thì dân chủ là “quyền lực thuộc về nhân
dân”, là quyền tự do và bình đẳng về quyền lực của nhân dân trong đời sống
xã hội và quan hệ xã hội. Dân chủ phản ánh mối quan hệ giai cấp, quan hệ
công dân theo nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật,
mang giá trị xã hội sâu sắc. Dân chủ là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, là
thành quả đấu tranh của nhân dân. Do đó, dân chủ là một phạm trù lịch sử.
Dân chủ mang tính giai cấp. Các giai cấp có quan điểm, quan niệm
khác nhau về dân chủ và mục tiêu, phương thức thực thi dân chủ; khơng có
dân chủ chung chung phi giai cấp, dân chủ gắn với chuyên chính, gắn với
quyền lực giai cấp, gắn với sự lãnh đạo của một chính đảng, sự quản lý của
một nhà nước nhất định. Các thời đại khác nhau, các chế độ xã hội khác nhau,
có sự khác nhau về bản chất, trình độ dân chủ. Trong nền chuyên chính tư sản,
giai cấp tư sản thường rêu rao về tự do, dân chủ một cách chung chung, trừu
tượng, siêu giai cấp, phi giai cấp, hoặc ban hành hay thực thi những cải cách
dân chủ hạn chế cũng không nằm ngồi lập trường, lợi ích kinh tế và quyền
lực thống trị của giai cấp tư sản; đều nhằm mị dân, xoa dịu sự bất bình, phản
kháng của quần chúng nhân dân hoặc lừa bịp quần chúng bảo vệ trật tự tư sản.
Dân chủ cũng mang tính dân tộc sâu sắc, phản ánh đặc điểm dân tộc,
truyền thống lịch sử, bản sắc văn hố dân tộc, do đó dân chủ chịu sự quy định
của tính chất, trình độ phát triển kinh tế, văn hố, xã hội, dân trí, thơng tin,
đặc điểm dân tộc... Đồng thời, xét dưới góc độ và phạm vi nào đó, dân chủ
cịn mang tính nhân loại - tính chung của con người, lồi người. Các thuộc
tính của dân chủ có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ, trong đó tính giai cấp
của dân chủ là thuộc tính cơ bản nhất, thẩm thấu và chi phối sâu sắc tới các
thuộc tính khác của dân chủ, quy định bản chất dân chủ.

Thực tế lịch sử đã thừa nhận, trong mỗi chế độ dân chủ, chủ thể trực
tiếp của quyền lực nhà nước luôn thuộc về một giai cấp hoặc lực lượng xã hội


nào nắm quyền điều khiển, chi phối nhà nước và thông qua nhà nước mà điều
khiển và chi phối xã hội. Và do vậy, khi xã hội có giai cấp đối kháng và nhà
nước, dân chủ là sản phẩm của đấu tranh giai cấp giữa một số ít nắm quyền
thống trị và số đông nhân dân bị mất hết quyền và bị thống trị. Số ít cầm
quyền, nhân danh cộng đồng, nhân danh lợi ích chung đặt ra luật pháp, thao
túng mọi quyền hành, tước quyền làm chủ của nhân dân.
Khi nghiên cứu về Nhà nước Phổ, C.Mác đã nói, dân chủ theo tiếng
Đức là chính quyền của nhân dân. Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”,
Lênin cho rằng: “Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những
hình thái của nhà nước”3, nghĩa là có nhà nước dân chủ và cũng có nhà nước
khơng dân chủ.
Cơ sở kinh tế của chế độ dân chủ thể hiện trực tiếp ở chế độ sở hữu các
tư liệu sản xuất của xã hội. Cơ sở xã hội của một chế độ dân chủ không chỉ là
giai cấp cầm quyền mà còn là các giai cấp và tầng lớp khác cấu thành dân tộc,
các cộng đồng dân cư trong xã hội. Do vậy, tính dân tộc và tính xã hội là đặc
tính khách quan của bất cứ một chế độ dân chủ nào. Các thời đại khác nhau,
các chế độ xã hội khác nhau, có sự khác nhau về bản chất, trình độ dân chủ.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã từng xuất hiện ba chế
độ dân chủ là: Dân chủ chủ nô; dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Chế độ dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản về thực chất là dân chủ cho một số ít
người nắm quyền lực thống trị xã hội, còn tuyệt đại đa số nhân dân mất
quyền, trở thành người bị trị, bị áp bức, bóc lột. Cịn dân chủ xã hội chủ nghĩa
là chế độ dân chủ mà mọi quyền lực thực tế thuộc về nhân dân - dân chủ của
nhân dân lao động dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nền dân chủ
này giành được do kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh lâu dài vì tiến bộ xã
hội của nhân dân lao động.

2. Quan niệm về chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) là toàn bộ những thể chế,
thiết chế chính trị - xã hội XHCN, thể hiện và bảo đảm quyền lực xã hội thuộc
3

V.I.Lênin (1917), Nhà nước và cách mạng, Toàn tập, t33, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 1980


về giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, thơng
qua hệ thống chính trị XHCN và làm chủ trực tiếp của nhân dân theo những
qui định của pháp luật XHCN.
Chế độ dân chủ XHCN là hình thức chính trị của nhà nước chun
chính vơ sản - nhà nước XHCN, trong đó tồn bộ những thể chế, thiết chế, cơ
chế, quy chế được thể chế hóa thành luật pháp, thể hiện và bảo đảm quyền lực
thực sự thuộc về nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chế độ
dân chủ XHCN là chế độ do nhân dân lao động làm chủ. Cơ sở khách quan
quy định bản chất chế độ dân chủ XHCN là chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất và bản chất chính trị - xã hội của giai cấp công nhân. Chế độ dân chủ
XHCN là nền dân chủ thực sự chứ không phải là dân chủ hình thức, nó hồn
tồn đối lập với dân chủ cực đoan, vơ chính phủ, với chun quyền độc đoán.
Dân chủ XHCN là thành quả đấu tranh cách mạng của giai cấp cơng
nhân và tồn thể những người lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
chống ách bóc lột, áp bức và nơ dịch của chủ nghĩa tư bản. Dân chủ XHCN
được ra đời từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) nhưng
so với nền dân chủ tư sản, nó vẫn cịn rất mới mẻ, non trẻ và đang trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện.
Dân chủ XHCN là nền dân chủ khác biệt về bản chất và nguyên tắc so
với dân chủ tư sản - đó là nền dân chủ của đơng đảo nhân dân trong xã hội,
quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân tự tổ chức và thực hiện, trước hết và
chủ yếu là thơng qua nhà nước của mình. Sự khác biệt này được thể hiện ở

những đặc trưng chủ yếu sau:
Thứ nhất, dân chủ tư sản chỉ phục vụ lợi ích của một thiểu số giai cấp
tư sản nắm quyền lực về kinh tế và chính trị trong xã hội tư sản. Nền dân chủ
tư sản, xét về mặt bản chất, không phục vụ cho công nhân và nhân dân lao
động; trái lại, các thiết chế dân chủ tư sản lập ra chủ yếu nhằm phục vụ lợi ích
và quyền lực cho giai cấp tư sản, bóc lột và áp bức số đông trong xã hội.
Những thành quả dân chủ và tiến bộ xã hội đạt được chủ yếu phải thông qua
cuộc đấu


tranh của quần chúng nhân dân lao động, của phong trào công nhân chứ
không phải do giai cấp tư sản cầm quyền tự nguyện thực hiện. Dân chủ
XHCN hướng mục tiêu vào việc khẳng định và thực hiện quyền lực của đa số.
Giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể của quyền lực đó. Thể chế
nhà nước và các thiết chế dân chủ khác đều hướng đích vào việc thực hiện lợi
ích, quyền lực của nhân dân. Quyền lực nhân dân, đó là cơ sở và là mụctiêu
của việc xây dựng thể chế, phát triển và hoàn thiện nền dân chủ XHCN.
Thứ hai, xét về mặt chính trị, thể chế nhà nước tư sản tuy là một bước
tiến lớn so với nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến, song nhà nước đó
vẫn dựa trên nền tảng kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
sở hữu thuộc về giai cấp tư sản nên nhà nước ấy trước sau vẫn chỉ là cơng cụ
nhằm bảo vệ lợi ích và duy trì quyền lực của giai cấp tư sản. Quyền lực nhân
dân uỷ quyền vào nhà nước tư sản bị giai cấp tư sản cầm quyền thao túng. Nó
đã bị tha hố, chỉ cịn mang tính hình thức mà căn ngun sâu xa của nó là ở
chế độ tư hữu.
Khác với thể chế chính trị của nền dân chủ tư sản, dân chủ XHCN là
một hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân trong xã hội, thông qua nhà
nước XHCN và biểu hiện trực tiếp ở nhà nước XHCN. Lực lượng chủ đạo của
tồn bộ q trình phát triển nền dân chủ XHCN là Đảng Cộng sản. Nghị
quyết, đường lối, chính sách của Đảng phản ánh những lợi ích của nhândân.

Nhà nước XHCN là một thể chế quyền lực để thực hiện chức năng quản
lý, điều hành toàn diện các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và để thực
thi quyền lực nhân dân. Mục tiêu của thể chế nhà nước và thể chế chính trị
XHCN nói chung là xây dựng và phát triển dân chủ, đảm bảo cho nhà nước
trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và thực quyền, thực sự là của dân, do dân
và vì dân, thể hiện được sự uỷ quyền của nhân dân.
Cơ sở chính trị đồng thời là đối tượng phục vụ của nhà nước là khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức. Nhà nước phục vụ nhân dân bằng cách
tạo ra


những điều kiện để dân thực hiện được lợi ích, được quyền và nghĩa vụ của
mình, để dân tham gia vào đời sống chính trị của xã hội với các hoạt động
quản lý, kiểm tra, giám sát và tự quản một cách tích cực, tự giác, chủ động.
Dưới chế độ XHCN, những hình thức dân chủ là dân chủ đại diện và
dân chủ trực tiếp được phát triển rộng rãi, biểu hiện trong những hoạt động
của công dân và các tổ chức xã hội để xây dựng nhà nước, xã hội và nền dân
chủ, đồng thời nhà nước thực hiện vai trị, chức năng quản lý của mình theo
ngun tắc tập trung dân chủ. Sự phối hợp những phương thức đó giữa nhà
nước - nhân dân và xã hội đảm bảo cho tập trung dân chủ không bị biến dạng
bởi quan liêu và tự do vơ chính phủ.
Thứ ba, về kinh tế, cùng với việc thiết lập chế độ chính trị và thể chế
nhà nước của xã hội mới, nền dân chủ XHCN được xây dựng trên cơ sở kinh
tế mới với chế độ sở hữu xã hội thay thế cho chế độ tư hữu. Sở hữu xã hội mà
nhà nước là đại diện đem lại quyền làm chủ tư liệu sản xuất của xã hội thuộc
về giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Những quan hệ lợi ích mới được
hình thành từ quan hệ sở hữu đó, lợi ích giữa giai cấp với dân tộc, giữa cá
nhân với tập thể và xã hội thống nhất hài hoà. Chính quan hệ sản xuất mới
XHCN mà hạt nhân của nó là chế độ sở hữu xã hội hình thành, đem lại quyền

làm chủ kinh tế của nhândân.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và dân chủ
XHCN, nhất là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn cịn những khác biệt
về nhu cầu, trình độ và lợi ích, những chênh lệch trong hưởng thụ lợi ích và
cũng cịn cả những mâu thuẫn lợi ích giữa các chủ thể khác nhau về sở hữu,
nhưng trong xã hội khơng cịn cơ sở cho sự tồn tại những đối kháng và xung
đột về kinh tế cũng như các quan hệ xã hội, giai cấp. Những khác biệt đ

×