Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

BÁO CÁO TỔNG KẾT 6 NĂM THỰC HIỆN LUẬT HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG VIỆT NAM NĂM 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.09 KB, 37 trang )

BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
CỤC HÀNG KHÔNG VIỆT NAM



CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc



BÁO CÁO TỔNG KẾT 6 NĂM THỰC HIỆN
LUẬT HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG VIỆT NAM NĂM 2006

Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 (Luật HKDDVN năm
2006) được Quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 9 ngày 29/6/2006 và Chủ
Tịch nước công bố theo Lệnh số 08/2006/L-CTN ngày 12/7/2006 có ý nghĩa rất
quan trọng đối với tiến trình phát triển, hội nhập của nền kinh tế quốc dân và
Ngành Hàng không nói riêng.
Luật HKDDVN năm 2006 là văn bản pháp lý quan trọng điều tiết một
cách toàn diện hoạt động hàng không dân dụng tại Việt Nam, đã thể chế hoá kịp
thời các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển ngành hàng không Việt
Nam, đảm bảo vai trò của ngành hàng không đối với sự phát triển kinh tế-xã hội
của đất nước. Luật HKDDVN năm 2006 cũng thể hiện được tư duy mới trong
hoạt động quản lý Nhà nước đối với ngành HKDD, tách hoàn toàn công tác quản
lý nhà nước và hoạt động kinh doanh; kế thừa, phát triển những quy định còn
phù hợp của Luật Hàng không dân dụng năm 1991 và 1995, luật hoá một số quy
định liên quan đến hoạt động hàng không dân dụng trong các văn bản dưới Luật
phù hợp đã được thực tiễn chứng minh; bãi bỏ những quy định không còn phù
hợp với thực tế và xu hướng phát triển, hội nhập của ngành; đảm bảo tuân thủ
nghiêm ngặt các tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt về an ninh, an toàn hàng không;
thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế về hàng không của Việt Nam; đảm bảo sự


tham gia bình đẳng của các thành phần kinh tế, sự cạnh tranh lành mạnh trong
lĩnh vực hàng không dân dụng; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu
dùng, nâng cao chất lượng dịch vụ.
Có thể khẳng định, sau hơn 5 năm áp dụng Luật HKDDVN năm 2006 và
các văn bản hướng dẫn thi hành đã góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển, hội
nhập của nền kinh tế quốc dân và ngành Hàng không nói riêng; đồng thời giữ vai
trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hàng
không ở nước ta. Luật HKDDVN 2006 đã hoàn thiện cơ bản công tác quản lý
nhà nước về hàng không dân dụng, công tác phối hợp giữa các bộ, ngành liên
quan, tách hoàn toàn chức năng quản lý nhà nước ra khỏi hoạt động sản xuất
kinh doanh, tạo điều kiện cho sự phát triển của các hãng hàng không, doanh
nghiệp khai thác cảng hàng không, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt
động bay.



Ký bởi: Website
Bo GTVT
Email:

n
Cơ quan:

1
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH THI HÀNH
LUẬT HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG VIỆT NAM 2006
I. NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT HKDDVN NĂM 2006
Luật HKDDVN được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua năm 1991 và được sửa đổi, bổ sung năm 1995. Trong 15 năm

qua, Luật HKDDVN năm 1991 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã góp phần
vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý để thúc đẩy
sự phát triển của ngành hàng không dân dụng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hàng không dân dụng; tạo điều
kiện thuận lợi cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của ngành Hàng không dân
dụng, góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống pháp luật Việt Nam, sự
phát triển của ngành Hàng không dân dụng Việt Nam và thế giới, trong xu thể
hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được,
Luật HKDDVN năm 2006 đã giải quyết được các hạn chế của Luật HKDDVN
năm 1991 và 1995 như sau:
Thứ nhất, những nội dung không còn phù hợp với thực tế Việt Nam và
thông lệ quốc tế cần sửa đổi như hợp đồng lao động thuê nhân viên bay chuyên
nghiệp, thanh tra an toàn hàng không và bảo đảm an ninh hàng không; tạm giữ
tàu bay dân dụng; giá cước; trách nhiệm dân sự; xử lý vi phạm và giải quyết
tranh chấp.
Thứ hai, những nội dung cần bổ sung đề phù hợp với hệ thống pháp luật
Việt Nam và các điều ước quốc tế về hàng không dân dụng mà Việt Nam là quốc
gia thành viên.
Thứ ba, những nội dung chưa rõ cần được quy định cụ thể như phạm vi
điều chỉnh; đối tượng áp dụng; nguyên tắc hoạt động hàng không dân dụng; điều
kiện đăng ký quốc tịch tàu bay dân dụng Việt Nam.
Thứ tư, những nội dung cần phân định rõ như trách nhiệm quản lý nhà
nước về hàng không dân dụng, quản lý hoạt động bay, cảng vụ hàng không.
II. LUẬT HKDDVN NĂM 2006 CƠ BẢN ĐÁP ỨNG TÍNH ĐẶC
THÙ VÀ NHU CẦU PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH HKDDVN
Hàng không Việt Nam được xác định là một ngành kinh tế - kỹ thuật, một
trong 5 ngành giao thông đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước, thể hiện ở các mặt:
1. Thuộc cơ sở hạ tầng giao thông quan trọng của đất nước

Hàng không dân dụng là một trong những ngành kinh tế lớn của đất nước,
quản lý, khai thác hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông quan trọng, với hệ thống
cảng hàng không-sân bay, cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay toàn
quốc; được xác định là các cơ sở hạ tầng trọng điểm quốc gia.

2
2. Ngành dịch vụ quan trọng
Hàng không dân dụng là ngành dịch vụ giao thông công cộng, có vị trí,
vai trò quan trọng đối với sự phát triển của các ngành kinh tế khác như đầu tư,
thương mại, du lịch; đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân và khách quốc tế; góp
phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế-xã hội vùng, địa phương. Việc khai
thác cảng hàng không, sân bay, các đường bay nội địa không thể hạch toán riêng
mà phải nằm trong hệ thống mạng cảng hàng không, mạng đường bay quốc tế,
nội địa.
3. Ngành kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại
Hàng không dân dụng là ngành kỹ thuật công nghệ tiên tiến hàng đầu của
thế giới. Hiện ngành đang quản lý, khai thác đội tàu bay, hệ thống kỹ thuật cung
cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay hiện đại, yêu cầu công nghệ và độ chính xác
cao.
4. Tính đồng bộ toàn ngành
Ngành hàng không mang tính đồng bộ cao, với 3 lĩnh vực hoạt động chính
là cảng hàng không-sân bay, quản lý hoạt động bay, vận tải hàng không, chịu sự
quản lý nhà nước chuyên ngành của Cục Hàng không Việt Nam. Các lĩnh vực
này nằm trong một dây chuyền chung, quan hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau, phụ
thuộc lẫn nhau để có sản phẩm chung cuối cùng là vận chuyển hàng không và
hoạt động hàng không chung. Một lĩnh vực trong dây chuyền chung bị suy yếu
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của lĩnh vực khác, kéo theo hậu quả là
không thể thực hiện được hoạt động vận chuyển hàng không và hoạt động hàng
không chung, hoặc trực tiếp gây nguy cơ xảy ra sự cố, tai nạn tàu bay.
5. Quản lý tập trung thống nhất, không phân cấp cho địa phương

Do đặc thù của ngành hàng không nên hoạt động quản lý nhà nước về
hàng không dân dụng trong tất cả các lĩnh vực được thực hiện thống nhất khép
kín từ trung ương, không phân cấp cho địa phương. Công tác quy hoạch phát
triển, quản lý quy hoạch và giám sát thực hiện đầu tư theo quy hoạch về cảng
hàng không, sân bay, cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay, hệ thống
hãng hàng không được xây dựng và triển khai thực hiện tập trung, đồng bộ,
thống nhất. Toàn bộ các chuyến bay dân dụng đi, đến và quá cảnh Việt Nam đều
phải được Cục HKVN cấp (trừ các chuyến bay chuyên cơ nước ngoài do Bộ
Ngoại giao Việt Nam cấp) và triển khai thực hiện đến tất cả các đơn vị liên quan
của ngành và các đơn vị quản lý vùng trời của Bộ Quốc phòng.
6. Sự điều hành, chỉ huy, quản lý trực tiếp của Nhà chức trách hàng
không.
Trong hoạt động quản lý nhà nước về hàng không dân dụng, nhiều nội
dung mang tính chỉ huy, điều hành, quản lý trực tiếp của Nhà chức trách hàng
không:
- Giám sát toàn bộ hoạt động hàng không dân dụng về lĩnh vực bảo đảm
an ninh, an toàn, chất lượng dịch vụ, thực hiện quy hoạch; các quyết định, chỉ
lệnh kỹ thuật, huấn lệnh an ninh, an toàn hàng không được Cục HKVN ban hành
có hiệu lực thi hành ngay;

3
- Cục HKV trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy xử lý các tình huống uy hiếp an
toàn, an ninh hàng không, sự cố, tai nạn hàng không, ứng phó ban đầu với các
hành vi khủng bố, can thiệp bất hợp pháp, các tình huống cấp thiết; thực hiện các
biện pháp khẩn cấp bao gồm cả việc đình chỉ chuyến bay và hoạt động của
phương tiện, thiết bị, nhân viên hàng không để bảo đảm an ninh, an toàn hàng
không; chỉ đạo các đơn vị hàng không thực hiện tình huống khẩn cấp phục vụ an
ninh quốc phòng, khẩn nguy quốc gia.
- Cục HKVN thực hiện hoặc chỉ đạo thực hiện việc giảng bình, điều tra sự
cố, tai nạn hàng không; mọi khuyến cáo khắc phục, phòng ngừa trong lĩnh vực

bảo đảm an ninh, an toàn hàng không của Cục HKVN phải được các đơn vị,
nhân viên hàng không tuân thủ thực hiện.
- Cục HKVN thực hiện chức năng tổ chức việc sử dụng vùng trời, thiết lập
đường hàng không, xây dựng phương thức bay, chịu trách nhiệm trước cộng
đồng quốc tế về bảo đảm việc cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay; chỉ đạo
trực tiếp hoạt động chuyên môn của Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam, gắn
liền với công tác quản lý và bảo vệ vùng trời quốc gia của Bộ Quốc phòng; cấp
thương quyền và phép bay cho tất cả các chuyến bay hàng không dân dụng;
tham gia quản lý giá cước vận chuyển và giá dịch vụ hàng không; nhiều nội
dung quản lý trực tiếp đối với hoạt động khai thác cảng hàng không, sân bay như
quản lý đất đai, đóng sân bay, kế hoạch cải tạo, sửa chữa, lắp đặt trang thiết bị
tại cảng hàng không, sân bay.
- Theo yêu cầu của ICAO, Nhà chức trách hàng không phải có chức năng
ban hành các quy chế, phương thức khai thác, tiêu chuẩn, chỉ lệnh kỹ thuật, các
khuyến cáo an ninh, an toàn, khẩn nguy có tính bắt buộc thực hiện trong toàn
ngành.
7. Bảo đảm an ninh HK, an toàn HK là nhiệm vụ sống còn
Hệ thống bảo đảm an ninh, an toàn hàng không, tìm kiếm cứu nạn, khẩn
nguy sân bay tuân thủ pháp luật Việt Nam và tiêu chuẩn ICAO là yếu tố sống
còn của ngành hàng không, được Cục HKVN chỉ đạo, thiết lập, điều hành thống
nhất mà không phụ thuộc vào quan hệ hành chính phụ thuộc của các đơn vị; chịu
sự thanh tra, giám sát của ICAO và sự đánh giá của các Nhà chức trách hàng
không nước ngoài. Theo yêu cầu của ICAO, Hệ thống Quản lý An toàn (SMS)
và Hệ thống Quản lý An ninh (ScMS) của tất cả người khai thác, bảo dưỡng tàu
bay, cảng hàng không, sân bay, cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay
phải được thiết lập và vận hành dưới sự chỉ đạo và giám sát của Cục HKVN. Với
đặc thù của ngành hàng không và theo yêu cầu của ICAO, công tác quản lý nhà
nước là một bộ phận cấu thành trực tiếp của dây chuyền hàng không. Nếu Cục
HKVN không có năng lực quản lý một chủng loại tàu bay nào đó thì loại tàu bay
đó sẽ không được khai thác tại Việt Nam. Công tác giám sát bảo đảm an ninh, an

toàn hàng không của Cục HKVN được ICAO thanh tra thường kỳ và giám sát
liên tục; nếu Cục HKVN không thực hiện tốt chức năng này thì toàn bộ hệ thống
an ninh, an toàn của Việt Nam bị đánh giá thấp kém, có thể dẫn đến hậu quả các
hãng hàng không của Việt Nam bị cấm thực hiện các chuyến bay quốc tế.

4
Tất cả tàu bay Việt Nam; hãng hàng không Việt Nam; cơ sở bảo dưỡng
tàu bay, cơ sở huấn luyện bay, buồng lái giả định trong và ngoài nước; cảng
hàng không, sân bay, cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay, cơ sở bảo
đảm an ninh hàng không và tất cả nhân viên hàng không đều phải được Cục
HKVN kiểm tra, cấp Giấy phép để hoạt động; thanh tra, giám sát hoạt động theo
tiêu chuẩn. Cục HKVN là đầu mối trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng và vận hành
lực lượng an ninh hàng không; phê duyệt Chương trình an ninh của cảng hàng
không, sân bay, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ không lưu, hãng hàng không
Việt Nam và nước ngoài khai thác đến Việt Nam, quy chế an ninh của các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ hàng không tại cảng hàng không, sân bay; ký Quy chế
phối hợp liên ngành bảo đảm an ninh với các cơ quan liên quan của Bộ Công an,
Bộ Quốc phòng; triển khai thực hiện công tác đối phó với hành vi can thiệp bất
hợp pháp vào hoạt động HKDD theo Quyết định 44/2009/QĐ-TTg của Thủ
tướng; đầu mối triển khai nhiệm vụ của Uỷ ban An ninh Hàng không dân dụng
Quốc gia.
8. Yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội gắn với an ninh quốc phòng; làm
nhiệm vụ chuyên cơ
Hoạt động HKDD luôn gắn chặt và là một bộ phận của công tác an ninh
quốc phòng của đất nước. Lực lượng hàng không được xác định là lực lượng dự
bị quan trọng của quốc phòng. Các công trình cơ sở hạ tầng hàng không được
Nhà nước xác định là các công trình trọng yếu cần được bảo vệ. Việc thiết lập,
vận hành đường hàng không gắn liền với công tác quản lý, bảo vệ vùng trời của
Bộ Quốc phòng, được hiệp đồng chặt chẽ giữa Cục Tác chiến, Quân chủng
Phòng không-Không quân và Cục HKVN. Hệ thống quản lý bay Việt Nam là

một bộ phận của cảnh giới vùng trời quốc gia. Toàn bộ hệ thống sân bay Việt
Nam là sân bay dùng chung dân dụng và quân sự. Phép bay do Cục HKVN cấp
được triển khai cho toàn bộ hệ thống phòng không, quản lý vùng trời liên quan.
Công tác bảo đảm an ninh hàng không được triển khai một cách đồng bộ dưới sự
chỉ đạo chung của Uỷ ban An ninh HKDDQG, bên cạnh các nhiệm vụ, chức
năng cụ thể của các cơ quan liên quan của Bộ Quốc phòng, Bộ Công An, Bộ
Giao thông vận tải, Bộ Tài chính và hệ thống các quy chế phối hợp liên ngành
được ký kết.
9. Quản lý tập trung đất đai cảng hàng không, sân bay, giá dịch vụ
hàng không, giá cước vận chuyển hàng không
Hệ thống đất đai tại cảng hàng không, sân bay được thiết lập và quản lý
chung theo quy định của hệ thống pháp luật về hàng không dân dụng. Sân bay
của Việt Nam luôn là sân bay dùng chung dân dụng và quân sự; các dịch vụ tại
cảng hàng không do nhiều chủ thể cung cấp nhưng lại phụ thuộc hữu cơ lẫn
nhau, một dịch vụ tại cảng hàng không, sân bay bị thiếu sẽ làm tê liệt cả dây
chuyền hoạt động, do vậy đất cảng hàng không, sân bay không được chia lẻ quản
lý và cấp sổ đỏ đến từng người khai thác, sử dụng đất. Mặt khác việc quản lý đất
đai phải đảm bảo tính cạnh tranh bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ trên địa bàn, kể cả doanh nghiệp cảng hàng không với tư cách là đơn

5
vị kinh doanh dịch vụ. Do vậy Luật HKDDVN năm 2006 quy định sổ đỏ toàn bộ
đất cảng hàng không, sân bay được giao cho cảng vụ hàng không thuộc Cục
HKVN; việc sử dụng đất đai phải nằm trong quy hoạch cảng hàng không, sân
bay và kế hoạch sử dụng đất được phê duyệt; đất cảng hàng không, sân bay
không thể được góp vốn hoặc thế chấp, cầm cố.
Hệ thống cảng hàng không, sân bay mang tính dịch vụ công ích cao nên
Nhà nước vẫn phải bảo đảm các hạng mục cơ bản của cơ sở hạ tầng cảng hàng
không, sân bay như đường hạ cất cánh, đường lăn, sân đỗ. Do tính độc quyền tự
nhiên của cảng hàng không, sân bay nên toàn bộ hoạt động cung cấp dịch vụ

hàng không tại cảng hàng không được cấp giấy phép và quản lý theo khung giá
do Nhà nước quy định. Ngay cả trong trường hợp có nhiều người cung cấp một
loại hình dịch vụ hàng không tại cảng hàng không, sân bay nhưng do tính chất
đồng bộ của dây chuyền hàng không nên tính cạnh tranh cũng chỉ mang tính chất
tương đối. Do vai trò phục vụ kinh tế-xã hội vùng địa phương của hệ thống cảng
hàng không, sân bay; ngoài ra theo tiêu chuẩn quốc tế, bất kỳ cảng hàng không,
sân bay nào, dù chỉ có 1-2 chuyến bay/ngày cũng đều phải duy trì đầy đủ dịch vụ
đồng bộ và tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn an ninh, an toàn chung nên không
thể hạch toán riêng hoạt động của cảng hàng không địa phương mà phải tổ chức
quản lý, khai thác mạng cảng hàng không như hiện nay.
Giá cước vận chuyển hàng không của các hãng hàng không cũng đang
được Nhà nước quản lý tập trung bằng hình thức khung giá do tính cạnh tranh
chưa cao, vai trò của vận tải hàng không đối với sự phát triển kinh tế-xã hội
vùng địa phương và sự nhạy cảm của giá với tư cách một ngành giao thông công
cộng, ngày càng phổ biến.
10. Tính hội nhập quốc tế cao
Hoạt động hàng không dân dụng ngay từ khi ra đời đã được quốc tế hoá
và ngày càng mang tính hội nhập quốc tế sâu sắc, với một số nét cơ bản sau:
- Hoạt động hàng không dân dụng, ngoài việc tuân thủ quy định của pháp
luật Việt Nam còn chịu sự điều tiết của Công ước Chicago về hàng không dân
dụng quốc tế, hệ thống điều ước quốc tế đa phương, song phương, hệ thống thoả
thuận song phương giữa các Nhà chức trách hàng không về khai thác vận tải
hàng không. Hệ thống Hiệp định song phương về vận tải hàng không của thế
giới hiện được toàn bộ các quốc gia ký kết theo các Phương án Mẫu do Tổ chức
Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO) ban hành. Cộng đồng vận tải hàng
không quốc tế đang thực hiện hội nhập quốc tế theo hướng tự do hoá. Cục
HKVN được giao nhiệm vụ trực tiếp tổ chức việc đàm phán các điều ước quốc
tế song phương, đa phương về HKD, trình Nhà nước phê duyệt, phê chuẩn theo
quy định và tổ chức thực hiện.
- Hoạt động hàng không dân dụng phải tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu

chuẩn và khuyến cáo thực hành của ICAO, đặc biệt trong lĩnh vực bảo đảm an
ninh, an toàn hàng không. Hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước chuyên
ngành HKDD (Nhà chức trách HK), của các đơn vị cung cấp dịch vụ hàng
không đều chịu sự thanh tra, giám sát, đánh giá, khuyến cáo trực tiếp của ICAO,

6
của Nhà chức trách hàng không nước ngoài về việc tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế
ICAO. Đồng thời Cục HKVN có trách nhiệm trong việc thanh tra, đánh giá,
khuyến cáo Nhà chức trách HK nước ngoài, cơ sở cung cấp dịch vụ hàng không
nước ngoài liên quan đến hoạt động của hãng hàng không Việt Nam, tàu bay
mang đăng ký quốc tịch Việt Nam.
- Hiện nay Việt Nam đang quản lý, điều hành hai vùng FIR Hà Nội và FIR
Hồ Chí Minh, bao gồm toàn bộ vùng trời lãnh thổ và vùng trời trên biển quốc tế
được ICAO giao. Mọi đường hàng không trên vùng biển quốc tế đều phải được
thiết lập và điều hành trong khuôn khổ Kế hoạch Không vận khu vực của ICAO;
các cảng hàng không quốc tế, các đường hàng không quốc tế được thiết lập theo
thoả thuận giữa Việt Nam và quốc gia láng giềng đều phải được đăng ký với
ICAO.
- Với tư cách là Nhà chức trách hàng không của Việt Nam, Cục HKVN
được thay mặt Nhà nước tham gia các hội nghị chính thức của ICAO và các cơ
cấu quốc tế khác như APEC, ASEAN.
Ngành HKDD được vinh dự giao nhiệm vụ thực hiện các chuyến bay
chuyên cơ phục vụ các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, các chuyến
bay đặc biệt phục vụ công tác khẩn nguy quốc gia, đối phó bạo loạn, lập cầu
hàng không để sơ tán nhân dân trong trường hợp khẩn thiết. Cục HKVN có trách
nhiệm triển khai kế hoạch, chỉ đạo và giám sát thực hiện trong toàn ngành.
11. Thanh tra chuyên ngành hàng không thống nhất
Thanh tra chuyên ngành hàng không là một trong những chức năng quan
trọng của cơ quan quản lý nhà nước về hàng không dân dụng, được pháp luật
của Việt Nam về hàng không dân dụng và ICAO quy định. Kế thừa Luật

HKDDVN năm 1991, Luật HKDDVN sửa đổi năm 1995, Luật HKDDVN năm
2006 (Điều 10) đã quy định cụ thể về Thanh tra hàng không thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành về hàng không dân dụng.
Theo Điều 37, 38 của Công ước Chicago, Việt Nam phải tuân theo các
tiêu chuẩn do ICAO ban hành, đặc biệt các tiêu chuẩn về bảo đảm an ninh, an
toàn hàng không (khai thác tàu bay; bảo dưỡng tàu bay; cảng hàng không, sân
bay; hoạt động bay và đào tạo, huấn luyện nhân viên hàng không). Các Phụ lục 6
(Khai thác tàu bay), Phụ lục 8 (Đủ điều kiện bay), Phụ lục 11 (Dịch vụ không
lưu), Phụ lục 14 (Sân bay), Phụ lục 17 (An ninh HK) của Công ước Chicago về
HKDD quốc tế, Tài liệu hướng dẫn thủ tục thanh tra, cấp chứng chỉ và giám sát
việc duy trì khai thác tàu bay của ICAO (Doc 8335) đều quy định Nhà chức
trách hàng không của mỗi Quốc gia phải thiết lập cơ chế thanh tra để bảo đảm
quản lý có hiệu quả các yếu tố cơ bản của chức năng giám sát an toàn, an ninh
hàng không, thành lập cơ quan thanh tra độc lập trực thuộc.
III. TRIỂN KHAI THỰC HIỆN LUẬT HKDDVN NĂM 2006
Được sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải và sự
phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương liên quan cũng như do có sự
chủ động, quyết liệt trong triển khai nên việc tổ chức thực hiện Luật HKDDVN

7
năm 2006 cơ bản là thuận lợi và bước đầu đã đạt được những kết quả quan
trọng.
1. Tình hình xây dựng văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Luật HKDDVN năm 2006
Nhằm triển khai Luật HKDD năm 2006, từ năm 2007 đến năm nay, thực
hiện chỉ đạo của Bộ Giao thông vận tải Cục Hàng không Việt Nam đã thực hiện
kế hoạch xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, Nghị định, Thông tư theo Chương
trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm và cơ bản đã hoàn thành
chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo kế hoạch. Đến nay, các
văn bản hướng dẫn thi hành Luật HKDDVN năm 2006 đã được ban hành gồm:

01 pháp lệnh, 18 nghị định, 38 Thông tư thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ
trưởng Bộ Giao thông vận tải, 05 Quyết định của Thủ tướng và 15 quyết định
thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.
Nhìn chung, Cục HKVN đã cơ bản hoàn thành chương trình xây dựng các
văn bản QPPL dưới luật, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện cho hoạt động hàng
không dân dụng đặc biệt là chuẩn hóa công tác quy định về an ninh, an toàn đáp
ứng các tiêu chuẩn của ICAO.
2. Đánh giá tình hình thực tế hoạt động trong lĩnh vực hàng không
dân dụng sau khi Luật HKDDVN năm 2006 được ban hành
Qua gần 5 năm thực hiện Luật HKDD 2006 đã cho thấy hầu hết các lĩnh
vực trong hoạt động hàng không dân dụng đã được luật hoá và tạo cơ sở pháp lý
và chuẩn mực hoạt động cho các doanh nghiệp, cơ quan đơn vị trong ngành hàng
không. Các quy định về xử lý các hành vi vi phạm, công tác phối hợp xử lý các
sự cố được tăng cường đã góp phần nâng cao ý thức chấp hành, tuân thủ pháp
luật của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động hàng không. Hệ thống cấp giấy
phép cho cơ sở cung cấp dịch vụ, nhân viên hàng không, thiết bị kỹ thuật được
hoàn thiện góp phần củng cố bảo đảm an toàn, an ninh hàng không.
Nguyên tắc bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích các
thành phần kinh tế tham gia hoạt động và đầu tư vào lĩnh vực hàng không dân
dụng được ghi nhận trong Luật đã được đưa vào cuộc sống. Trong những năm
qua, sau khi có Luật có hiệu lực đã có nhiều hãng hàng không thuộc thành phần
kinh tế tư nhân, một số hãng hàng không có vốn đầu tư nước ngoài được thành
lập đã tạo thị trường hàng không cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế, phát triển theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước. Tuy hoạt động của các hãng hàng không mới thành lập còn nhiều hạn chế
nhưng đã thúc đẩy sự cạnh tranh có lợi cho người tiêu dùng.
Như vậy, có thể khẳng định, Luật HKDDVN 2006 và các văn bản hướng
dẫn là một bước tiến mới trong quá trình hoàn thiện hệ thống luật pháp tại Việt
Nam và thực sự đi vào cuộc sống, khẳng định vai trò trung tâm của hệ thống văn
bản pháp luật Hàng không, là cơ sở pháp lý điều chỉnh hệ thống tổ chức của hoạt

động Hàng không dân dụng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà

8
nước, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình hội nhập kinh tế thế giới và
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh quốc gia.
3. Chính sách phát triển hàng không dân dụng
Nhằm tạo sự đồng bộ, thống nhất giữa chính sách hàng không dân dụng
với hệ thống pháp luật về hàng không dân dụng và để phát huy hiệu lực áp dụng
của Luật HKDDVN năm 2006, thời gian qua Cục Hàng không Việt Nam đã tập
trung xây dựng, trình Bộ Giao thông vận tải phê duyệt theo thẩm quyền hoặc
trình Thủ tướng phê duyệt các dự án, đề án dưới đây:
- Quy hoạch phát triển giao thông vận tải hàng không giai đoạn đến năm
2020 và định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số
21/QĐ-TTg ngày 08/01/2011;
- Các quyết định phê duyệt quy hoạch chi tiết các cảng hàng không, sân
bay;
- Đề án Thành lập Tổng Cục Hàng không Việt Nam (đang được trình Bộ
Giao thông vận tải) nhằm nâng cao vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của nhà chức trách hàng không Việt Nam theo yêu cầu của Tổ chức hàng
không dân dụng quốc tế ICAO;
- Chủ động xây dựng, trình cơ quan Nhà nước ban hành theo thẩm quyền
các cơ chế tài chính đặc thù của Cục Hàng không Việt Nam nhằm góp phần tháo
gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, vừa nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn
Ngành.
4. Ký kết, gia nhập điều ước, các hiệp định song phương và đa
phương về vận tải hàng không
Luật HKDDVN năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã cơ bản
thể hiện các quy định của Công ước Chicago và các điều ước quốc tế về HKDD
mà Việt Nam là thành viên, yếu tố góp phần thúc đẩy ngành Hàng không dân
dụng nước ta hội nhập với hàng không thế giới, đặc biệt là đáp ứng hệ thống tiêu

chuẩn và khuyến cáo thực hành của ICAO trong tất cả các lĩnh vực hoạt động
của ngành; đảm bảo vị thế và sức cạnh tranh của doanh nghiệp hàng không Việt
Nam trên thị trường quốc tế; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi về hội nhập quốc
tế đối với các ngành liên quan như thương mại, du lịch, lưu thông hàng hóa,
hành khách giữa nước ta với các nước.
5. Công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về hàng
không dân dụng
Cục HKVN đã chủ động thực hiện tốt và có hiệu quả các kế hoạch được
giao theo Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật hàng năm của Bộ Giao thông
vận tải và của Cục Hàng không bằng nhiều hình thức đa dạng (tuyên truyền
miệng, xây dựng tài liệu, tuyên truyền phổ biến pháp luật qua các phương tiện
thông tin đại chúng…) với số lượng lớn và đối tượng được mở rộng (từ các cán
bộ, nhân viên trong ngành hàng không đến hành khách đi tàu; người dân sinh

9
sống quanh khu vực các cảng hàng không, sân bay; học sinh các trường học khu
vực lân cận các cảng hàng không, sân bay…)
Trong quá trình thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, các đơn
vị thuộc Cục Hàng không Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan thông tin đại
chúng (Báo Bạn đường, Báo GTVT, VTV) và các cơ quan, đơn vị liên quan để
công tác tuyên truyền đạt hiệu quả cao nhất
Qua công tác tuyên truyền của các đơn vị thuộc Cục Hàng không, các cán
bộ, nhân viên, người lao động trong các đơn vị trong ngành hàng không và
người dân được tiếp cận với các quy định của pháp luật về hàng không, giúp họ
hiểu và chấp hành tốt pháp luật của Nhà nước, hạn chế các vi phạm pháp luật về
giao thông hàng không, góp phần bảo đảm an toàn, an ninh hàng không.
6. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định của
pháp luật về hàng không dân dụng
Luật Hàng không dân dụng Việt Nam và các văn bản pháp luật có liên
quan là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động thanh tra chuyên ngành và xử lý

vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm xảy ra trong lĩnh vực hàng
không dân dụng. Các cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành và việc điều tra, xác
minh các vụ vi phạm nghiêm trọng được thực hiện theo đúng trình tự, thủ và đã
phát hiện nhiều thiếu sót, khuyết điểm trong hệ thống văn bản, trong hoạt động
của các tổ chức trong ngành hàng không. Cục Hàng không Việt Nam đã yêu cầu
các tổ chức có liên quan khắc phục kịp thời các thiếu sót và xử lý vi phạm hành
chính đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính.
Cục HKVN đã chỉ đạo tăng cường công tác thanh tra về mọi mặt, thực
hiện đồng thời cả thanh tra Nhà nước và thanh tra chuyên ngành hàng không
theo chức năng, nhiệm vụ được giao; đặc biệt ưu tiên công tác thanh tra chuyên
ngành trong lĩnh vực đảm bảo an ninh, an toàn hàng không, công tác đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực. Công tác thanh tra được tiến hành toàn diện, thường
xuyên, ở mọi cấp, đối với mọi đối tượng quản lý, góp phần quan trọng vào công
tác nâng cao ý thức trách nhiệm tuân thủ pháp luật về hàng không, phát hiện sơ
hở, thiếu sót của hệ thống nhằm khắc phục và phòng ngừa kịp thời, đặc biệt
trong lĩnh vực an ninh, an toàn hàng không.
Trong giai đoạn từ năm 2006 đến 2012, Cục HKVN đã tiến hành triển
khai 896 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành hàng không, trong đó:
- Thanh tra, kiểm tra về tàu bay, khai thác tàu bay: 786 cuộc;
- Thanh tra, kiểm tra về hoạt động bay: 110 cuộc;
- Thanh tra về an ninh hàng không: 44 cuộc
- Thanh tra, kiểm tra hoạt động tại cảng hàng không, sân bay: 128 cuộc
- Thanh tra, kiểm tra các hoạt động hàng không dân dụng khác: 24 cuộc,
Từ 2008 đến tháng 6 năm 2013, Chánh Thanh tra Bộ Giao thông vận tải,
Chánh Thanh tra hàng không và các Giám đốc Cảng vụ hàng không đã kýquyết
định xử phạt đối với 701 tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính thu về
cho ngân sách nhà nước 2.466.055.000 đồng (Hai tỷ bốn trăm sáu mươi sáu
triệu năm mươi năm nghìn đồng) từ xử phạt vi phạm hành chính Việc xử phạt

10

vi phạm hành chính kịp thời, triệt để, công minh và đúng trình tự, thủ tục theo
quy định.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC QUA 05 NĂM TRIỂN KHAI THỰC
HIỆN LUẬT HKDDVN NĂM 2006
1. Hiệu lực quản lý nhà nước về hàng không dân dụng được tăng
cường
Luật HKDD 2006 phân tách chức năng quản lý nhà nước và hoạt động sản
xuất kinh doanh trong hoạt động hàng không dân dụng. Quyết định số
94/2009/QĐ-TTg ngày 16/7/2009 của Thủ tướng Chính phủ đã chính thức xác
lập tư cách Nhà chức trách hàng không của Cục Hàng không Việt Nam đã đáp
ứng một phần tiêu chuẩn quốc tế và góp phần nâng cao năng lực quản lý Nhà
nước chuyên ngành Hàng không dân dụng. Tổng công ty Cảng hàng không sân
bay và Tổng công ty Bảo đảm hoạt động bay Việt Nam được thành lập và hoạt
động theo Luật doanh nghiệp đã tạo cơ sở cho việc phát triển toàn diện các
doanh nghiệp theo hướng thương mại hóa bên cạnh các dịch vụ công ích. Các
cảng vụ hàng không được tách ra và trực thuộc Cục Hàng không Việt Nam đã
nâng cao năng lực quản lý Nhà nước chuyên ngành hàng không dân dụng tại các
Cảng hàng không sân bay đặc biệt trong lĩnh vực an ninh – an toàn hàng không
và quản lý quy hoạch. Các vấn đề về quản lý, khai thác cảng hàng không, sân
bay, bảo đảm an ninh – an toàn hàng không, quản lý hoạt động bay đều có văn
bản quy phạm pháp luật và hệ thống các văn bản hướng dẫn chi tiết của Cục
Hàng không Việt Nam tạo điều kiện và hành lang pháp lý ổn định.
Nhằm triển khai thực hiện Luật và tạo sự quản lý chuyên ngành sâu, ngày
16/7/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 94/2009/QĐ-TTg
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Hàng
không Việt Nam với chức năng là cơ quan tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ GTVT
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hàng không trên phạm vi cả nước; là
Nhà chức trách hàng không theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Bộ GTVT đã
uỷ quyền cho Cục HKVN thực hiện một số công việc thuộc chức năng quản lý
của Bộ nhưng chưa được cụ thể hoá như: chỉ đạo trực tiếp hoạt động chuyên

môn, công tác lập kế hoạch và quyết toán tài chính đối với Tổng công ty Quản lý
bay Việt Nam; điều tra sự cố, tai nạn hàng không; công bố quy hoạch cảng hàng
không, sân bay, giám sát việc thực hiện quy hoạch, đầu tư xây dựng cơ bản theo
quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Bộ GTVT đã thành lập 3 Cảng
vụ hàng không miền Bắc, miền Trung, miền Nam trực thuộc Cục HKVN thực
hiện chức năng quản lý nhà nước tại 20 cảng hàng không, sân bay trên toàn
quốc. Việc thành lập và hoạt động của Cảng vụ hàng không đã hoàn thiện, nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước tại cảng hàng không, sân bay, đặc biệt trong lĩnh
vực giám sát, bảo đảm an ninh, an toàn hàng không.
2. Thành tựu về phát triển kinh tế ngành
Trong hơn 5 năm qua, hiệu lực áp dụng của Luật HKDDVN năm 2006 đã
tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế hàng không dân dụng nói riêng và nền kinh tế thị
trường của Việt Nam nói chung phát triển nhanh, toàn diện và đạt được mức

11
tăng trưởng rất cao so với các thời kỳ trước đây. Điều này được thể hiện qua
những thành tựu cơ bản dưới đây:
2.1 Vận tải hàng không
2.1.1 Thị trường vận chuyển hàng không giai đoạn 2007-2012
Năm 2012, tổng thị trường vận chuyển hàng không Việt Nam ước đạt trên
25,4 triệu khách, 527 nghìn tấn hàng hoá, tăng trung bình 12%/năm về hành
khách và 11,4% về hàng hoá trong giai đoạn 5 năm 2007-2012. Sản lượng hành
khách, hàng hoá thông qua các cảng hàng không của Việt Nam năm 2012 đạt
37,5 triệu lượt hành khách, 649 nghìn tấn hàng hoá, tăng trung bình 13,2%/năm
về hành khách và 10,6% về hàng hoá trong giai đoạn 5 năm 2007-2012. Tổng
sản lượng vận chuyển của các hãng HKVN năm 2012 đạt 17,5 triệu hành khách,
199 nghìn tấn hàng hoá tăng trung bình 13,2%/năm về hành khách và 10% về
hàng hóa trong giai đoạn 5 năm 2007-2012.

14.352.226

16.165.208
17.492.276
21.074.092
23.739.062
25.357.139
0
5.000.000
10.000.000
15.000.000
20.000.000
25.000.000
30.000.000
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
Bảng 1. Tổng vận chuyển hành khách giai đoạn 2007-2012


12
307.682
341.618
346.780
460.008
475.049
527.400
0
100.000
200.000
300.000
400.000
500.000
600.000

Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
Bảng 2. Tổng vận chuyển hàng hoá giai đoạn 2007-2012
Từ các số liệu cụ thể trên cho thấy, trong giai đoạn 2007-2012, mức tăng
trưởng của thị trường vận chuyển hàng không dân dụng luôn phát triển ổn định,
song hành cùng với sự phát triển của chỉ số tăng trưởng quốc gia (GDP).
2.1.2 Mạng đường bay
Tính đến Lịch bay mùa Hè 2012, có 51 hãng hàng không nước ngoài
thuộc 25 quốc gia và vùng lãnh thổ khai thác đi/đến Việt Nam với 69 đường bay
từ 40 điểm đến Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. So với năm 2007, thị
trường hàng không quốc tế đi/đến Việt Nam chỉ gồm 27 hãng hàng không quốc
tế với 38 đường bay. Thị trường hàng không Việt Nam có sự tham gia của hầu
hết các hãng hàng không lớn trong khu vực và trên thế giới như Singapore
Airlines, Thai Airways, China Southern Airlines, Japan Airlines, Cathay Pacific,
Korean Air, United Airlines, Air France, Lufthansa Bên cạnh các hãng hàng
không truyền thống, thị trường hàng không Việt Nam đã có sự tham gia của
hàng loạt các hãng hàng không chi phí thấp (LCC) như AirAsia Berhad, Jetstar
Asia, Tiger Airways, Thai AirAsia, Cebu Pacific, Lion Air, Indonesia AirAsia
Đối với Việt Nam, có 4 hãng hàng không Việt Nam đang khai thác thị
trường là Vietnam Airlines (VN), Jetstar Pacific Airlines (BL), VASCO và
Vietjet Air (VJ), trong đó BL, VJ khai thác theo định hướng chi phí thấp và VJ
là hãng hàng không tư nhân, sở hữu hoàn toàn thuộc về tổ chức, cá nhân Việt
Nam. Các hãng hàng không Việt Nam, chủ yếu là Vietnam Airlines, hiện đang
khai thác 52 đường bay quốc tế đến 30 thành phố của 17 quốc gia và vùng lãnh
thổ (năm 2007 là 35 đường bay quốc tế đến 23 thành phố của 14 quốc gia/vùng
lãnh thổ).
Tại một số thị trường trọng điểm như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Lào, Campuchia, Vietnam Airlines không chỉ khai thác đến thủ đô mà còn mở
rộng đến các thành phố lớn khác. Đối với thị trường nội địa, 4 hãng hàng không

13

Việt Nam hiện đang khai thác 38 đường bay nội địa nối Hà Nội, Đà Nẵng và Tp
Hồ Chí Minh với 18 sân bay địa phương theo hệ thống mạng đường bay trục-nan
rộng khắp toàn quốc (năm 2007 là 23 đường bay nội địa).
Ngoài 3 cảng hàng không quốc tế chính, Việt Nam đã nâng cấp và chính
thức công bố thêm 5 cảng hàng không quốc tế mới tại các thành phố, địa phương
lớn của Việt Nam là Huế (CHK Phú Bài), Nha Trang (CHK Cam Ranh), Cần
Thơ (CHK Cần Thơ), Đà Lạt (CHK Liên Khương) và Phú Quốc (CHK Phú
Quốc).
2.2. Các doanh nghiệp vận chuyển hàng không
Sau 6 năm triển khai, thực hiện Luật HKDDVN 2006 và Nghị định
76/2007/NĐ-CP từ tháng 6/2013 được thay thế bằng Nghị định 30/2013/NĐ-
CPvề kinh doanh, vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung đã có
07 doanh nghiệp được cấp Giấy phép kinh doanh vận chuyển hàng không (cấp
mới 02), 04 doanh nghiệp được cấp Giấy phép kinh doanh hàng không chung và
05 doanh nghiệp, cá nhân được cấp Giấy chứng nhận hoạt động hàng không
chung. Trong số các hãng hàng không được cấp giấy phép có 04 hãng đang hoạt
động kinh doanh vận chuyển hàng không, kinh doanh hàng không chung, 01
hãng (Công ty cổ phần hàng không Air Mekong) đã dừng hoạt động kinh doanh
vận chuyển hàng không từ 01/3/2013.
2.3. Đội tàu bay của các hãng hàng không Việt Nam
Tính đến thời điểm hiện tại, đội tàu bay của các hãng hàng không Việt
Nam đạt 97 chiếc với độ tuổi trung bình 6 tuổi; số lượng tàu bay sở hữu là 43
chiếc, chiếm tỷ lệ 44,3% với độ tuổi trung bình là 5 tuổi (năm 2007 là 53 chiếc
với số lượng sở hữu là 26 tàu bay chiếm tỷ lệ 49,1%).
53
26
60
29
65
31

82
34
94
42
97
43
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
Năm
2011
Năm
2012
Đội tàu bay

Sở hữu
Bảng 3 – Đội tàu bay giai đoạn 2007-2012

14

Với xu hướng hội nhập sâu rộng vào hoạt động hàng không quốc tế, các
hãng hàng không Việt Nam đã đưa vào đội tàu bay khai thác các chủng loại tàu
bay mới, hiện đại và thông dụng trên thế giới như B777, A330, A321, B737,
ATR72-500.
2.4. Công tác quy hoạch, phát triển kết cấu hạ tầng cảng hàng không,
sân bay
Cục HKVN đã thực hiện tốt công tác xây dựng quy hoạch trình cấp có
thẩm quyền phê duyệt; quản lý đầu tư theo quy hoạch; quản lý, sử dụng các
nguồn vốn Nhà nước đầu tư cho các dự án đúng Luật, đúng mục đích, không thất
thoát, lãng phí, mang lại hiệu quả kinh tế cao trong đầu tư; hoàn thành trình Bộ
GTVT trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển giao thông
vận tải hàng không Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
Ngành hàng không đang khai thác 20 Cảng hàng không và 01 sân bay (Nội Bài,
Cát Bi, Điện Biên Phủ, Vinh, Đồng Hới, Đà Nẵng, Cam Ranh, Phú Bài, Chu
Lai, Phù Cát, Pleiku, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ, Phú Quốc, Buôn Ma Thuột, Liên
Phương, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Sơn, Tuy Hoà và sân bay Thọ Xuân). Hai cảng
hàng không đang tạm dừng khai thác là Nà Sản và Gia Lâm. 21 cảng hàng
không, sân bay đang khai thác chiếm tổng cộng 11.042,8 ha đất (bao gồm cả đất
do hàng không quản lý, đất dùng chung và đất do quân sự quản lý), đang khai
thác hiệu quả, không lãng phí.
Theo phân cấp, uỷ quyền của Bộ GTVT đối với việc quản lý đầu tư xây
dựng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, Cục Hàng không Việt Nam thực hiện
chức năng làm cấp quyết định đầu tư đối với các dự án nhóm C và một số dự án
nhóm B, làm chủ đầu tư các dự án nhóm A, B, thẩm định thiết kế cơ sở, thẩm tra
thiết kế (sau TKCS) các dự án chuyên ngành hàng không. Các Tổng công ty

cảng đã tăng cường huy động, khai thác các nguồn vốn khác nhau cho đầu tư
trong điều kiện nguồn ngân sách Nhà nước hạn chế. Tập trung đầu tư mới, cải
tạo, nâng cấp, sửa chữa có trọng điểm, đồng bộ nhằm nâng cao năng lực phục vụ
cho các cảng hàng không có nhu cầu thị trường tăng trưởng cao, ưu tiên các
công trình cấp bách có nguy cơ gây mất an toàn hàng không và các công trình có
hiệu quả khai thác đột biến. Trong giai đoạn 2006-2013 hoàn thành đưa vào khai
thác sử dụng các công trình trọng điểm: Nhà ga hành khách quốc tế SB Tân Sơn
Nhất, nhà ga hành khách CHKQT Cam Ranh, CHK Vinh, CHK Liên Khương,
CHK Đồng Hới, CHKQT Cần Thơ, Đài kiểm soát không lưu CHKQT Cam
Ranh, Liên Khương, Trung tâm kiểm soát đường dài (ACC) Hồ Chí Minh, Đài
kiểm soát không lưu NBA, TSN, Nhà ga HK quốc tế Đà Nẵng, Đường cất hạ
cánh 35R-17L Đà Nẵng, CHKQT Phú Quốc Các công trình hoàn thành đã phát
huy hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu phát triển dài hạn và phát triển kinh tế – xã
hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng. Quy trình đầu tư thực hiện đúng pháp luật,

15
không xảy ra thất thoát, các doanh nghiệp đã tận dụng, chủ động, bố trí nguồn
vốn chủ sở hữu thực hiện đầu tư các công trình trọng điểm. Như công trình cảng
hàng không quốc tế Phú Quốc tổng mức đầu tư gần 4.000 tỷ đồng, công trình
nhà ga hành khách Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ- tổng mức đầu tư 1.500 tỷ
đồng; công trình nhà ga hành khách Cảng hàng không quốc tế Cam Ranh với
tổng mức đầu tư gần 300 tỷ đồng Giai đoạn 2009-2012 kể từ khi thực hiện
Quy hoạch phát triển ngành, tổng vốn đầu tư đạt 58.079 tỷ đ. Trong đó, cho đội
tàu bay 24.772 tỷ đ; cho hạ tầng CHK 26.002 tỷ đ; cho hạ tầng bảo đảm hoạt
động bay 4.800 tỷ đ; cho công nghiệp hàng không 748 tỷ đ; đầu tư khác 1.757 tỷ
đ. Đầu tư từ nguồn vốn doanh nghiệp chiếm 40%, nguồn vốn NSNN và TPCP
chiếm 8%, nguồn vốn ODA chiếm 10%, nguồn vốn vay chiếm 42%.
2.5. Công tác bảo đảm An ninh hàng không
Do tính chất quan trọng của công tác bảo đảm an ninh hàng không, đáp
ứng yêu cầu của ICAO, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định thành lập

Uỷ ban An ninh hàng không dân dụng Quốc gia do Phó Thủ tướng Hoàng Trung
Hải làm chủ tịch nhằm điều phối chung hoạt động bảo đảm an ninh hàng không
giữa các bộ, ngành, UBND các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương và các
huyện đảo nơi có cảng hàng không, sân bay.
Về chuyên ngành hàng không, Cục HKVN đã tổ chức thiết lập Hệ thống
bảo đảm an ninh hàng không thống nhất trong Ngành từ Cục HKVN đến các
Cảng vụ hàng không, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam, Tổng công ty
Quản lý bay Việt Nam, các Hãng hàng không Việt Nam. Lực lượng an ninh
hàng không bao gồm các cán bộ tham mưu của các đơn vị và gần 1700 cán bộ,
nhân viên an ninh hàng không, trực tiếp thực hiện các biện pháp đảm bảo an
ninh hàng không tại cảng hàng không, sân bay, duy trì trật tự tại cảng hàng
không, sân bay và xử lý các vụ việc vi phạm an ninh, đối phó ban đầu khi xảy ra
can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng trên cơ sở quy định
của Luật Hàng không, Nghị định số 81/2010/NĐ-CP ngày ngày 14 tháng 7 năm
2010 của Chính phủ , Thông tư số 30/2012/TT-BGTVT của Bộ trưởng Bộ Giao
thông vận tải quy định chi tiết Chương trình an ninh hàng không dân dụng và
kiểm soát chất lượng an ninh hàng không, các quy định của ICAO. Qua Công
tác kiểm tra, thanh tra, thử nghiệm, giám sát về an ninh hàng không đã phát hiện,
xử lý và chấn chỉnh kịp thời các sơ hở thiếu sót. tạo ra kỷ cương, kỷ luật trong
công tác bảo đảm an ninh hàng không, nâng cao ý thức chấp hành các quy định
về an ninh hàng không của cán bộ, nhân viên trong Ngành và hành khách. Từ
2006 đến nay đã tiến hành 45 cuộc kiểm tra, thử nghiệm về an ninh, trong đó có
7 cuộc kiểm tra liên ngành, cộng với các cuộc kiểm tra trực tiếp của hệ thống
cảng vụ; phê duyệt Chương trình an ninh của 21 Cảng hàng không, sân bay, 04
hãng hàng không Việt Nam; ký kết các Quy chế phối hợp liên ngành bảo đảm an
ninh với các cơ quan liên quan của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, đã có 20 cảng
hàng không ký Quy chế phối hợp với Công an tỉnh/thành phố trong công tác
đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội tại các cảng hàng khôngNhững vụ việc
tung tin có bom, vi phạm quy định về an ninh hàng không tại cảng hàng không,


16
sân bay và trên tàu bay được xử lý nhanh chóng, không để xảy ra hậu quả đáng
tiếc nào.
ICAO đã tiến hành thanh tra về an ninh hàng không của của Việt Nam 3
đợt (2005, 2007, 2010). Kết quả đánh giá của ICAO: Việt Nam đạt mức độ tuân
thủ các tiêu chuẩn về an ninh của ICAO là 75,09%, cao hơn mức bình quân
chung 64,66% của tại 95 quốc gia thành viên ICAO đã được thanh tra. 8 tiêu chí
đánh giá của ICAO đều đạt cao hơn so với mức bình quân của toàn cầu.
2.6. Công tác bảo đảm An toàn hàng không
Là nhà chức trách hàng không, Cục HKVN đã thiết lập hệ thống quản lý
và giám sát an toàn trong lĩnh vực tàu bay và khai thác tàu bay phù hợp với tiêu
chuẩn của Tổ chức HKDD Quốc tế (ICAO), chịu sự thanh tra, kiểm tra của
ICAO, sự kiểm tra, đánh giá của Nhà chức trách hàng không nước ngoài, với các
nội dung cụ thể bao gồm:
- Xây dựng, trình Bộ GTVT ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn đối với
người khai thác tàu bay, tổ chức bảo dưỡng tàu bay, tổ chức huấn luyện và nhân
viên hàng không thuộc lĩnh vực tàu bay và khai thác tàu bay;
- Thực hiện việc đăng ký, đăng kiểm, giám sát tình trạng đủ điều kiện bay
của tàu bay và các trang thiết bị tàu bay mang quốc tịch Việt Nam; giám sát an
toàn khai thác đối với các hãng hàng không nước ngoài, tàu bay nước ngoài bay
đến Việt Nam; phê chuẩn đủ điều kiện Người khai thác tàu bay, tổ chức bảo
dưỡng, tổ chức huấn luyện, buồng lái giả định của Việt Nam và nước ngoài liên
quan đến tàu bay đăng ký quốc tịch Việt Nam; cấp giấy phép cho toàn bộ người
lái tàu bay, nhân viên kỹ thuật tàu bay.
- Trực tiếp thực hiện, chỉ đạo công tác xử lý tình huống khi có sự cố, tai
nạn tàu bay xảy ra; thực hiện chức năng điều tra sự cố tai nạn tàu bay với nguyên
tắc tất cả các sự cố phải được giảng bình, điều tra tìm nguyên nhân, khuyến cáo
khắc phục và phòng ngừa sự cố.
Trong 6 năm 2006-2012 ICAO đã tiến hành 1 đợt thanh tra (năm 2008)
theo Chương trình Thanh tra Giám sát An toàn Hàng không Toàn cầu tại Việt

Nam; Cục HKVN đã tiến hành 786 đợt thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy
định về an toàn trong lĩnh vực tàu bay và khai thác tàu bay đối với người khai
thác tàu bay, tổ chức bảo dưỡng, tổ chức huấn luyện, buồng lái giả định của Việt
Nam và nước ngoài liên quan đến tàu bay đăng ký quốc tịch Việt Nam. Đồng
thời đã tiến hành kiểm tra và cấp giấy phép cho 2427 người lái tàu bay và 3168
nhân viên bảo dưỡng tàu bay phù hợp với phần 7, bộ Quy chế An toàn hàng
không được ban hành theo Thông tư 01/2012/TT-BGTVT của Bộ trưởng Bộ
GTVT và phù hợp với quy định tại Phụ ước 1 Công ước Chi-ca-gô.
2.7. Công tác quản lý, khai thác cảng hàng không, sân bay
Tổng năng lực thông qua tại các CHK Việt Nam từ mức 6 triệu hành
khách năm 2000 đã nâng lên mức 52 triệu HK vào năm 2012; trong đó 29% các
cảng hàng không đạt cấp 4E có khả năng tiếp thu tàu bay thân rộng như B777,
B747; 43% các cảng hàng không đạt cấp 4C, 4D có khả năng tiếp thu tàu bay
A320/A321; còn lại 28% các cảng hàng không đạt cấp 3C là cảng hàng không
nội địa có khả năng tiếp thu tàu bay CRJ900/ATR72/F70.

17
Hệ thống mạng cảng hàng không, sân bay hiện đang khai thác cơ bản đã
đáp ứng được nhu cầu giao thông hàng không, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội
chung của đất nước, phục vụ lợi ích an ninh quốc phòng; hệ thống mạng
CHKSB còn tạo điều kiện hoàn thiện mạng đường bay nội địa, tăng lợi thế cạnh
tranh cho mạng đường bay quốc tế cho các hãng hàng không Việt Nam. Đây là
những lợi ích chính yếu của ngành hàng không, bên cạnh lợi nhuận kinh doanh
cụ thể của các doanh nghiệp. Đối với hoạt động hàng không dân dụng, dù là
cảng hàng không nhỏ nhưng vẫn phải hội tụ đầy đủ các yếu tố của dây chuyền
vận tải hàng không, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn khai thác quốc tế, đặc biệt về
bảo đảm an ninh, an toàn hàng không. Vì thế, Tổng công ty Cảng hàng không
Việt Nam ra đời trên cơ sở hợp nhất 3 Tổng công ty cảng hàng không miền Bắc,
miền Trung và miền Nam với tiêu chí tổng hợp mọi nguồn nhân lực để phát triển
kết cấu hạ tầng và hệ thống cung cấp dịch vụ dưới sự chỉ đạo thống nhất về

chính sách và phương án kinh doanh.
Cục HKVN thực hiện tốt chức năng quản lý đầu tư phát triển cảng hàng
không, sân bay, phối hợp với Uỷ ban nhân dân các cấp và cơ quan có thẩm
quyền thực hiện quản lý tốt việc sử dụng, khai thác đất đai theo quy hoạch; giám
sát việc cung cấp dịch vụ hàng không và các hoạt động khác tại cảng hàng
không, sân bay theo quy định của pháp luật. Tổ chức kiểm tra kỹ thuật và cấp,
công nhận hiệu lực, gia hạn, thu hồi, hủy bỏ hoặc đình chỉ sử dụng các loại giấy
phép liên quan lĩnh vực quản lý, khai thác cảng hàng không, sân bay; kiểm tra,
giám sát việc xây dựng, cải tạo, nâng cấp, bảo dưỡng, sửa chữa công trình, lắp
đặt hệ thống kỹ thuật, thiết bị tại cảng hàng không, sân bay.
2.8. Công tác bảo đảm hoạt động bay
Trong giai đoạn 2006-2012 điều hành an toàn tuyệt đối đạt trên 2,4 triệu
chuyến bay trong nước và quốc tế với chất lượng cao với tăng trưởng trung bình
9%/năm.
Công tác phối hợp, hiệp đồng với cơ quan quản lý bay quân sự được thực
hiện thường xuyên, chặt chẽ. thực hiện tốt công tác quản lý hoạt động bay bảo
đảm an toàn tuyệt đối 100 % chuyến bay đi, đến, bay qua đảm bảo “An toàn,
điều hoà, hiệu quả”; xử lý kịp thời các tình huống, sự cố xảy ra đúng Luật và
thông lệ quốc tế, được bạn bè quốc tế đánh giá cao; phối hợp tổ chức vùng trời,
xây dựng quy chế bay, thiết lập, bổ sung, điều chỉnh, tối ưu hoá hệ thống đường
hàng không, vùng trách nhiệm cung cấp dịch vụ, phương thức bay tại các sân
bay, nhằm nâng cao hiệu quả khai thác, đáp ứng mọi yêu cầu của các hãng HK
trong nước và quốc tế, trong đó riêng Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam
(Vietnam Airlines) đã tiết kiệm được hàng chục tỷ VND hàng năm, góp phần
nâng cao an toàn hàng không, bảo đảm an ninh, quốc phòng. Huy động 3.200 tỷ
đồng vốn của doanh nghiệp để đầu tư, đổi mới cơ bản các cơ sở điều hành bay,
hạ tầng kỹ thuật theo công nghệ tiên tiến, hiện đại. Hoàn thành đưa vào sử dụng
hiệu quả: Hoàn thành đưa vào sử dụng hiệu quả: Trung tâm kiểm soát đường dài
– tiếp cận AACC Hồ Chí Minh; Đài kiểm soát không lưu Cảng HKQT Tân Sơn
Nhất, Nội bài, Cảng hàng không Phú Bài, Cam Ranh, Điện Biên, Đồng Hới,


18
Buôn Mê Thuột, cơ bản hoàn thành mạng thông tin VHF, mạng ra đa giám sát
hệ thống, đài dẫn đường DVOR/DME trên toàn quốc.
Cục HKVN hoàn thành tốt chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực quản
lý hoạt động bay tại hai vùng thông báo bay (FIR Hồ Chí Minh và FIR Hà Nội)
gồm toàn bộ vùng trời lãnh thổ Việt Nam và phần vùng trời trên biển quốc tế do
ICAO giao Việt Nam điều hành, với 25 đường hàng không nội địa, 35 đường
hàng không quốc tế; hơn 300 hệ thống trang thiết bị với 4 hệ thống ra đa sơ cấp
và 7 hệ thống ra đa thứ cấp, 70 cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay
cùng với 2 Trung tâm kiểm soát đường dài (ACC) Hà Nội và Hồ Chí Minh cùng
các đài kiểm soát không lưu tại tất các các CHK.
Hệ thống CNS/ATM hiện nay đã triển khai thực hiện một số nội dung
công việc theo Quyết định số 2339/QĐ-BGTVT ngày 19/10/2011 của Bộ GTVT
phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển Hệ thống thông tin, dẫn đường, giám sát
và quản lý không lưu (CNS/ATM) HKDDVN đến năm 2020 và định hướng đến
năm 2030: Triển khai các trạm ADS-B mặt đất và VHF tại Côn Sơn, Trường Sa,
Song Tử Tây thuộc chương trình đầu tư hệ thống ADS-B trên toàn quốc; thành
lập đội bay hiệu chuẩn hệ thống thiết bị dẫn đường, giám sát để tự bay kiểm tra
hiệu chuẩn hàng năm mà không cần phải thuê các chuyên gia nước ngoài. Tiếp
tục triển khai các hạng mục của chương trình CNS/ATM mới thuộc dự án nâng
cao năng lực hệ thống của Nhật Bản theo lộ trình của ICAO.
2.9. Công tác hợp tác và hội nhập quốc tế
Ngoài pháp luật quốc gia, hệ thống các điều ước quốc tế và các hiệp định
song phương, đa phương mà Việt Nam đã tham gia ký kết hoặc gia nhập có ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động hàng không dân dụng. Việc ký kết, gia nhập các
điều ước, các hiệp định quốc tế về vận tải hàng không cũng như vận dụng một
cách hợp lý các tập quán, thông lệ hàng không quốc tế giữ vai trò quan trọng
trong hoàn thiện pháp luật hàng không dân dụng của mỗi quốc gia.
Là đầu mối liên lạc với ICAO, Cục HKVN chủ động tăng cường hợp tác

chặt chẽ với ICAO và thể hiện được vị thế, vai trò của Việt Nam trong các
chương trình do ICAO khởi xướng; thực hiện tốt các nhiệm vụ trong khuôn khổ
hợp tác về an ninh, an toàn, quản lý cảng hàng không và đào tạo. Thực hiện tốt
vai trò Chủ tịch Chương trình hợp tác an toàn khai thác và duy trì đủ điều kiện
bay tại khu vực Đông Nam Á (COSCAP SEA), Chương trình hợp tác an ninh
HKDD khu vực CA-TBD (CASP AP). Phối hợp với các cơ quan hữu quan thực
hiện các cam kết của Việt Nam trong chương trình hợp tác HKDD Á-Âu. Duy trì
tốt chương trình hợp tác song phương, trao đổi với các nước trong khu vực như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Inđônêsia, Malaysia, Singapore, Pháp, Hoa Kỳ về kinh
nghiệm quản lý và khai thác trong ngành HKDD. Hoàn thiện công tác đối ngoại
các cấp trong điều kiện hoạt động giao lưu, hợp tác ngày càng phát triển.
Xây dựng và báo cáo Bộ để trình Chính phủ các văn bản hợp tác quốc tế
về HKDD, tính đến nay, ngành HKVN đã tiến hành ký kết được 64 Hiệp định
hàng không song phương; làm thủ tục xin phê duyệt và ký chính thức 04 Hiệp

19
định; đang triển khai đàm phán hiệp định với 04 quốc gia; ký chính thức 05 Hiệp
định vận tải hàng không đa phương. Cục HKVN được chỉ định là đầu mối trực
tiếp tổ chức đàm phán và thực hiện hiệp định hàng không; tổ chức thực hiện 926
đoàn ra, 379 đoàn vào.
2.10. Lĩnh vực khoa học công nghệ và môi trường
Hiện nay ngành Hàng không dân dụng Việt Nam đã xây dựng được đội
ngũ cán bộ khoa học, nhân viên kỹ thuật hàng không đáp ứng được yêu cầu phát
triển theo hướng hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, nhanh chóng thích nghi với
công nghệ mới, thực hiện tốt việc chuyển giao và làm chủ hệ thống trang thiết bị
và phương tiện hàng không kỹ thuật, công nghệ mới như việc khai thác các loại
máy bay, trang thiết bị hiện đại; hệ thống thông tin - dẫn đường - giám sát hàng
không (SNS), hệ thống không lưu (ATS), hệ thống thông báo tin tức hàng không
(AIS) tự động; hệ thống khí tượng (MET), sử dụng công nghệ vệ tinh, các thiết
bị thông tin, các dây chuyền tự động và các trang thiết bị khác. Nâng cấp hệ

thống cơ sở kỹ thuật theo hướng chuyển mạnh sang tự động hoá, nâng cao chất
lượng nâng cấp dịch vụ, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ trong phạm vi quốc gia
và kết nối quốc tế. Từng bước triển khai thực hiện tốt ứng dụng công nghệ
CNS/ATM mới phù hợp lộ trình quốc tế và đảm bảo lợi ích quốc gia.
Đã triển khai thực hiện 18 Đề tài cấp Bộ và trọng điểm cấp Bộ, thực hiện
nhiệm vụ biên soạn 21 Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật và 15 đề án, nhiệm vụ
bảo vệ môi trường với tổng kinh phí gần 12 tỷ đồng.
2.11. Lĩnh vực tài chính
Tài chính là vấn đề hết sức quan trọng để đảm bảo duy trì và phát triển các
hoạt động và thực hiện chức năng của nhà chức trách hàng không. Cục HKVN
đã thực hiện nghiêm túc các quy định của Nhà nước về công tác tài chính, thanh
quyết toán, kiểm toán và nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước hàng năm, thẩm định
và giao kế hoạch thu-chi tài chính, kế hoạch quản lý tỷ suất lợi nhuận, thẩm tra
phê duyệt quyết toán tài chính hàng năm, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế
độ thu-chi tài chính của các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp theo uỷ quyền
của Bộ, quyết toán các công trình, hạng mục công trình xây dựng cơ bản mà Cục
làm chủ đầu tư và các công trình do Bộ uỷ quyền. Quản lý và sử dụng có hiệu
quả cơ sở vật chất, tài sản và các nguồn vốn được giao.
3. Công tác cải cách hành chính
Luật HKDDVN năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật
thực sự góp phần thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính về hàng không trên cả
05 mặt theo chủ trương của Chính phủ. Điều này đã góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về hàng không dân dụng, vừa tạo điều kiện thuận lợi đối với
hoạt động của doanh nghiệp và nhân dân.
Riêng cải cách thủ tục hành chính, Luật HKDDVN năm 2006 và các văn
bản hướng dẫn thi hành đã được xây dựng theo hướng quy định loại bỏ các thủ
tục không cần thiết và đơn giản hóa về trình tự, cách thức, hồ sơ khai báo, rút
ngắn thời gian giải quyết thủ tục.

20

Sau khi hoàn tất Đề án 30 và triển khai Nghị quyết 45/NQ-CP về cải cách
thủ tục hành chính thì hiện tại, Bộ Thủ tục hành chính về lĩnh vực hàng không
dân dụng có 152 thủ tục hành chính. Mặc dù đã hoàn tất đề án và việc triển khai
Nghị quyết tuy nhiên trong quá trình xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp
luật có chứa đựng các thủ tục hành chính, cơ quan chủ trì soạn thảo là Cục
HKVN đều tiến hành đánh giá đầy đủ tác động của việc ban hành thủ tục hành
chính, về sự cần thiết, tín hợp hiến, hợp pháp và chi phí thực hiện thủ tục.
Phần thứ hai
NHỮNG VƯỚNG MẮC PHÁT SINH TRONG QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI
THI HÀNH LUẬT HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG VIỆT NĂM NĂM 2006
Sau gần 7 năm tổ chức thực hiện, hiệu lực áp dụng của Luật HKDDVN
năm 2006 đã đạt được những kết quả quan trọng cần tiếp tục phát huy nhưng
cũng phát sinh một số bất cập, đang đòi hỏi cần có giải pháp khắc phục trong
thời gian tới và điều này được thể hiện qua nội dung tổng quan dưới đây.
I. VỀ VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA NHÀ CHỨC
TRÁCH HÀNG KHÔNG
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan quản lý
nhà nước chuyên ngành hàng không đã được quy định cụ thể tại Quyết định số
94/2009/QĐ-TTg ngày 16/07/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Tuy vậy, qua các
đợt thanh tra, đánh giá về vấn đề thực hiện trách nhiệm của quốc gia thành viên
theo các cam kết quốc tế, ICAO đã đánh giá Việt Nam chưa đáp ứng được các
quy định của Công ước HKDD quốc tế năm 1944 (Annex 6 Chương 2.1 và Doc
9734 Chương 3.2.5 của ICAO) về địa vị pháp lý của Nhà chức trách Hàng
không và khuyến nghị Việt Nam cần luật hoá vai trò của Nhà chức trách Hàng
không trong Luật HKDD Việt Nam 2006.
Như vậy, việc thiết lập và quy định cụ thể trách nhiệm của Nhà chức trách
hàng không ngay trong Luật, luật hóa các nhiệm vụ và trách nhiệm của từng chủ
thể quản lý Nhà nước, phân định rõ ràng nghĩa vụ của từng cơ quan quản lý
chuyên ngành hàng không theo luật và trách nhiệm của cơ quan đó trước Bộ
trưởng trong vấn đề phân cấp, uỷ quyền quản lý là sự thể chế hóa chủ trương,

đường lối của Đảng, phù hợp với thông lệ quốc tế. Các quy định này cũng đáp
ứng được mục tiêu về tính ổn định, độc lập tương đối về tổ chức và nhiệm vụ
của thiết chế quản lý về an toàn hàng không quốc gia (Nhà chức trách hàng
không).
Thực tế hiện nay ở Việt Nam, việc nêu tên hay thiết lập một cơ quan trực
thuộc Bộ có chức năng thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước chuyên ngành
cụ thể bằng các điều luật tuy không phổ biến nhưng đã có ít nhất 4 luật đã áp
dụng phương pháp này như Luật điện lực 2004; Luật cạnh tranh 2004; Luật Tần
số Vô tuyến điện 2009; Luật Viễn thông 2009.

II. THỰC HIỆN CHỨC NĂNG ĐIỀU TIẾT, KIỂM SOÁT THỊ
TRƯỜNG BẰNG VIỆC QUẢN LÝ GIÁ, PHÍ CÁC DỊCH VỤ HÀNG
KHÔNG

21
Điều 11 và Điều 116 Luật HKDDVN 2006 quy định nguyên tắc quản lý
giá, đó là: Bộ Tài chính quản lý tất cả các loại giá hàng không (bao gồm giá dịch
vụ hàng không và giá cước vận chuyển) theo hình thức Nhà nước định giá hoặc
doanh nghiệp quy định giá trong khung giá. Điều này dẫn đến những bất cập
sau:
- Có rất nhiều giá nên việc giao nhiệm vụ cho Bộ Tài chính quản lý từng
loại giá cụ thể dẫn đến khó khăn cho Bộ Tài chính với tư cách là cơ quan quản lý
chung về vấn đề tài chính của toàn bộ nền kinh tế; thực tiễn trong hệ thống pháp
luật Việt Nam cũng quy định nhiều cơ quan nhà nước khác, ngoài Bộ Tài chính,
quy định giá, khung giá;
- Mất tính chủ động linh hoạt trong hoạt động quản lý Nhà nước về hàng
không dân dụng của Bộ Giao thông vận tải;
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật dưới luật về giá hiện nay chưa
thực sự phù hợp với tính chất độc quyền đương nhiên của hệ thống cảng hàng
không, sân bay (đòi hỏi Nhà nước phải quản lý tất cả các giá bằng khung giá);

- Tính chất kinh tế - xã hội của mạng đường bay, tính mùa vụ của dịch vụ
vận chuyển (yêu cầu Nhà nước quản lý giá bằng khung giá đối với tất cả mạng
đường bay, chống sự đẩy giá lên quá cao vào mùa cao điểm).
Cơ chế khung giá do Bộ Tài chính quy định làm cơ sở cho doanh nghiệp
định giá bán không còn phù hợp với điều kiện hiện nay và trên thực tế đã không
được triển khai. Luật Giá thay thế Pháp lệnh giá năm 2002 hiện đã được Quốc
hội thông qua, sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2013. Các quy định mới của Luật
giá sẽ phân cấp quản lý, điều hành giá và giao nhiệm vụ cụ thể hơn cho cho các
Bộ, ngành trong việc thực hiện các biện pháp bình ổn giá. Hiện nay, nhiều Bộ,
ngành khác cũng đã được giao nhiệm vụ tham gia vào công tác bình ổn giá và
điều hành giá cả theo quy định tại các luật chuyên ngành như: Luật đất đai
(UBND cấp tỉnh quy định về giá đất), Luật Điện lực (Cơ quan điều tiết điện lực,
Bộ Công thương quy định giá điện), Luật Dược (Bộ Y tế quy định giá thuốc);
Luật kinh doanh Bất động sản (Bộ Xây dựng thẩm định giá BĐS).
III. KINH DOANH, VẬN CHUYỂN HÀNG KHÔNG
Sau một thời gian triển khai thực hiện Luật HKDD năm 2006, đã phát
sinh một số vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh vận chuyển hàng không
và quản lý nhà nước về vận chuyển hàng không, gây những khó khăn cho công
tác quản lý cũng như hoạt động của các hãng hàng không mà một trong số
những vấn đề đó là việc thiếu quy phạm điều chỉnh việc sử dụng thương hiệu,
biểu tượng của hãng hàng không Việt Nam khi kinh doanh vận chuyển hàng
không và hàng không chung và qui phạm về nhượng quyền thương mại trong
hoạt động kinh doanh vận chuyển hàng không và hàng không chung. Thực tiễn
thời gian qua cho thấy, các hãng hàng không nước ngoài thông qua việc sử dụng
biểu tượng của mình trên quảng cáo, tiếp thị của các hãng hàng không Việt Nam
để quảng bá cho hãng nước ngoài khiến người tiêu dùng bị nhầm lẫn về phạm vi
kinh doanh cũng như quyền vận chuyển hàng không của hãng hàng không nước
ngoài đó (trường hợp của Jetstar Pacific). Do chưa có qui định cụ thể trong pháp
luật hàng không nên đã phát sinh các tranh chấp, không thống nhất về việc sử


22
dụng biểu tượng thương hiệu của các hãng hàng không giữa các cơ quan quản lý
nhà nước. Do vậy cần thiết phải luật hóa các qui định này, phù hợp với thông lệ
quốc tế.
IV. AN NINH HÀNG KHÔNG
Luật HKDDVN 2006 và các văn bản hướng dẫn đã góp phần cơ bản cho
việc phát triển hệ thống bảo đảm an ninh hàng không và nâng cao hiệu lực quản
lý nhà nước về an ninh hàng không. Tuy vậy, nhiều quy định quan trọng mang
tính nguyên tắc thiết lập hệ thống bảo đảm an ninh hàng không, xây dựng lực
lượng an ninh hàng không, địa vị pháp lý của nhân viên và hoạt động của nhân
viên an ninh hàng không, vai trò, nhiệm vụ của các Bộ, ngành liên quan đối với
công tác bảo đảm an ninh hàng không cần phải được luật hoá nhằm tiếp tục hoàn
thiện hệ thống bảo đảm an ninh hàng không theo tiêu chuẩn quốc tế.
V. QUẢN LÝ TĨNH KHÔNG
Điều 92 khoản 2 Luật HKDDVN 2006 quy định Bộ Giao thông vận tải có
trách nhiệm công bố công khai các bề mặt giới hạn chướng ngại vật trong khu
vực sân bay; khu vực giới hạn bảo đảm hoạt động bình thường của các đài, trạm
vô tuyến điện Hàng không; giới hạn chướng ngại vật của khu vực lân cận cảng
Hàng không, sân bay và danh mục chướng ngại vật tự nhiên, nhân tạo có thể ảnh
hưởng đến an toàn của hoạt động bay. Tuy nhiên Luật HKDD chưa quy định rõ
ràng trách nhiệm, quyền hạn của Bộ GTVT và các cơ quan liên quan (Bộ Quốc
phòng, UBND các cấp) trong việc quản lý chướng ngại vật (thống kê, đánh dấu,
công bố, quản lý, cấp phép sử dụng khoảng không, xử lý các chướng ngại vật).
Trong khi đó tại Việt Nam các sân bay đều là sân bay dùng chung giữa quân sự
và dân dụng, nên tồn tại hai hệ thống tiêu chuẩn tĩnh không sân bay. Hiện nay
Bộ GTVT chưa thực hiện được việc công bố công khai các bề mặt giới hạn
chướng ngại vật theo quy định của Điều 92 vì Điều 92 không quy định cơ quan
có trách nhiệm thiết lập bề mặt giới hạn chướng ngại vật để công bố. Do vậy cần
tiếp tục bổ sung vào Luật HKDDVN các quy định để thiết lập rõ ràng hệ thống
quản lý chướng ngại vật, một trong những công tác quan trọng trong lĩnh vực

bảo đảm an toàn hàng không; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Bộ GTVT và các cơ quan liên quan (Bộ Quốc phòng, UBND các cấp) trong việc
quản lý chướng ngại vật.
VI. VẤN ĐỀ THANH TRA HÀNG KHÔNG
Theo quy định của Công ước Chicago và tiêu chuẩn của ICAO (Phụ lục
1, 6, 8, 11, 14 và Phụ lục 17 của Công ước Chicago và các tài liệu hướng dẫn –
Doc 8335, Doc 9760), “Quốc gia phải thành lập cơ chế để bảo đảm quản lý có
hiệu quả các yếu tố chính về giám sát an toàn hàng không …. Cơ chế kiểm soát
bao gồm hoạt động Thanh tra”; Tổ chức Thanh tra độc lập trực thuộc Nhà chức
trách hàng không, chịu trách nhiệm trước người đứng đầu nhà chức trách hàng
không, thực hiện chức năng thanh tra về hàng không dân dụng.
Khoản 2 Điều 46 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 cũng quy định
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chánh Thanh tra Cơ quan quản lý
nhà nước chuyên ngành hàng không.

23
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng
khẳng định Thanh tra hàng không thuộc hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước,
trực thuộc nhà chức trách hàng không, thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành hàng không trong phạm vi quản lý nhà nước của nhà chức trách hàng
không và quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức thanh tra hàng không
trong Luật là hết sức cần thiết. Điều này đáp ứng sự đòi hỏi về sự phù hợp với hệ
thống các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia và đáp ứng nhu cầu thực tiễn
bảo đảm an ninh, an toàn hàng không; đồng thời cũng để cụ thể hóa quy định
của khoản 2 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010 về hoạt động thanh tra chuyên
ngành, bảo đảm tính đồng bộ với Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và
phù hợp với thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành hàng không dân dụng.
Ngành hàng không dân dụng Việt Nam đã thực sự phát triển lớn mạnh và
có vị trí, vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất
nước. Việc xem xét sửa đổi, bổ sung Luật HKDDVN năm 2006 là một vấn đề

quan trọng hiện nay của ngành nhằm tiếp tục tạo điều kiện cho hoạt động hàng
không dân dụng tại Việt Nam, hoàn thiện công tác quản lý, giám sát của Nhà
nước đối với hoạt động HKDD, đặc biệt là củng cố vững chắc hệ thống bảo đảm
an ninh, an toàn hàng không.
Phầ̀n thứ ba
KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI BỔ SUNG NHỮNG VẤN ĐỀ CỤ THỂ
A. KIẾN NGHỊ CỦA CÁC BỘ, NGÀNH LIÊN QUAN
I. Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Trên cơ sở nhất trí với việc sửa đổi, bổ sung Luật Hàng không dân dụng
Việt Nam năm 2006, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đề nghị hoàn thiện các quy
định sau:
- Tiêu chí quy hoạch phát triển ngành Hàng không dân dụng;
- Thẩm quyền của Thanh tra chuyên ngành hàng không và vấn đề xử lý vi
phạm hành chính;
- Phân cấp cụ thể về tổ chức quản lý nhà nước về Hàng không dân dụng.
II. Bộ Công an
Luật Hàng không dân dụng Việt Nam qua 5 năm thực hiện đã đạt được
nhiều thành tựu nhưng bên cạnh đó cũng có một số vấn đề phát sinh. Vì vậy, Bộ
Công an đề nghị sửa đổi, hoàn thiện một số nội dung cụ thể như sau:
- Cơ sở pháp lý của việc quản lý nhà nước về kinh tế trong lĩnh vực Hàng
không dân dụng;
- Bảo vệ mục tiêu kinh tế về quốc phòng an ninh;
- Cần quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của lực lượng an ninh hàng
không;
- Đề nghị Luật quy định chi tiết các vấn đề thực hiện để Hạn chế các văn
bản hướng dẫn Luật.

24
III. Bộ Tổng tham mưu – Bộ Quốc phòng
Đề nghị làm rõ và bổ sung các nội dung sau:

- Nguyên tắc phối hợp dùng chung giữa sân bay quân sự và dân dụng;
- Vai trò của Bộ Quốc phòng trong Uỷ ban An ninh Hàng không dân
dụng;
- Cơ chế phối hợp giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Giao thông vận tải trong
việc cấp phép bay, quy định các vùng cấm bay và việc mở đường bay mới
- Theo quy định của Nghị định 20/2009/NĐ-CP thì vấn đề quản lý bề mặt
chướng ngại vật tại cảng hàng không, sân bay thì thẩm quyền thuộc về Bộ Quốc
phòng, nên vấn đề này không cần phải xem xét sửa đổi Luật Hàng không dân
dụng mà cần sự phối hợp giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Giao thông vận tải;
B. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG
LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG
I. Tổng công ty cảng hàng không Việt Nam
1. Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trên địa bàn cảng HK, SB:
Khoản 3, Điều 61: quy định về việc quyết định các vấn đề phát sinh
trong công tác phối hợp tại địa bàn các cảng HK, sân bay được ưu tiên cho đại
diện ngành hàng không, cụ thể:
Trong trường hợp các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan tại cảng
hàng không, sân bay không thống nhất cách giải quyết vấn đề phát sinh, Giám
đốc Cảng vụ hàng không có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định
đó.
Trong thực tế vẫn phát sinh những trường hợp không tìm được sự ủng hộ,
chấp hành của các cơ quan khác đối với quyết định của đại diện ngành hàng
không tại các cảng HK, sân bay. Ví dụ: vấn đề kiểm tra soi chiếu hàng hoá, hành
lý chung giữa lực lượng an ninh hàng không và lực lượng hải quan Tân Sơn
Nhất. Việc kiểm tra soi chiếu chung sẽ tạo thuận lợi, rút ngắn thời gian làm thủ
tục cho hành khách, đồng thời tiết giảm được chi phí đầu tư trang thiết bị, mặt
bằng tại nhà ga hàng không. Tuy nhiên, Chi cục Hải quan TSN không chấp nhận
đề nghị này từ phía hàng không mà vẫn yêu cầu bố trí trang thiết bị, mặt bằng để
thực hiện riêng quy trình soi chiếu hàng hóa.
2. Vấn đề về quản lý, sử dụng đất cảng hàng không, sân bay

Theo quy định của Luật HKDD, đất của cảng hàng không, sân bay được
giao cho Cảng Vụ quản lý. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Cảng hàng
không, sân bay được cấp cho Cảng vụ hàng không (Điều 57), trong khi doanh
nghiệp Cảng hàng không lại là đơn vị trực tiếp thực hiện việc đầu tư phát triển,
cải tạo, mở rộng cảng hàng không, sân bay (gồm cả việc trả tiền bồi thường giải
tỏa đất và thực hiện các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng tại các triểnHK, sân
bay…). Đây là vướng mắc rất lớn trong phân định vốn, tài sản chủ sở hữu của
các doanh nghiệp cũng như vướng thủ tục hành chính khi triển khai các công

×