Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Chương I: Những vấn đề cơ bản về kế hoạch hóa theo vùng lãnh thổ potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.04 KB, 92 trang )

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾ HOẠCH HÓA
THEO VÙNG LÃNH THỔ
I. Cơ sở khoa học hình thành quá trình kế hoạch hóa theo vùng lãnh thổ :
Quá trình kế hoạch hóa theo vùng lãnh thổ dựa trên các cơ sở khoa học sau
* Quá trình phân công lao động xã hội đòi hỏi phải có quá trình tổ chức và kế
hoạch hóa theo vùng lãnh thổ. Bởi vì kết quả phân công lao động xã hội sẽ làm
xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới mà các ngành sản xuất mới xuất hiện đó đòi
hỏi phải được phân bố vào các vùng lãnh thổ cụ thể, phải được tổ chức, quản lý
theo lãnh thổ mới có điều kiện phát triển được.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng, tạo điều kiện
để con người nghiên cứu sản xuất ra được nhiều sản phẩm mới góp phần thỏa mãn
được mọi nhu cầu của con người. Từ đó nó đã thúc đẩy các ngành sản xuất mới
hình thành và phát triển và thúc đẩy quá trình quản lý kế hoạch hóa theo vùng lãnh
thổ phát triển nhanh hơn
* Do yêu cầu của các quy luật kinh tế đòi hỏi phải có quá trình tổ chức kế hoạch
hóa theo vùng lãnh thổ. Các quy luật kinh tế có yêu cầu chung là : nâng cao hiệu
quả của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Để đạt được yêu cầu đó đòi hỏi phải
vừa kế hoạch hóa theo ngành, vừa phải tổ chức tốt lãnh thổ cho các ngành hoạt
động.
Yêu cầu của các quy luật phát triển cân đối có kế hoạch nền kinh tế quốc dân
đòi hỏi phải duy trì, bảo đảm cân đối theo ngành, đồng thời duy trì đảm bảo cân đối
theo lãnh thổ. Trên cơ sở đó mới đảm bảo được các cân đối trên phạm vi nền kinh
tế quốc dân.
Trong thực tế chỉ thực hiện được các yêu cầu trên của các quy luật kinh tế
mới tạo ra được khả năng giảm được sự chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội
giữa các vùng, nâng cao được hiệu quả kinh tế
1
Mặt khác trong 3 yếu tố của sản xuất ( tư liệu lao động, đối tượng lao động
và sức lao động ) thì sức lao động là yếu tố cơ bản nhất, nó gắn liền với những điều
kiện bảo đảm đời sống, bảo đảm tiêu dùng trên vùng lãnh thổ.


Từ đó đòi hỏi cần phải coi trọng việc phân bố dân cư, lao động và việc bảo
đảm các điều kiện phục vụ tốt cho sản xuất, phát huy tính chủ động sáng tạo của
nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Mối liên hệ giữa các yếu tố sản xuất, giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa yêu
cầu của sản xuất, đời sống với tổ chức lãnh thổ được thể hiện như sau :
Kết luận :
- Yêu cầu của các quy luật kinh tế chỉ có thể thông qua hoạt động có kế hoạch trên
vùng lãnh thổ mới trở thành hiện thực
- Yêu cầu của các quy luật kinh tế nói chung và quy luật phát triển cân đối có kế
hoạch nền kinh tế quốc dân là cơ sở khoa học quan trọng của quá trình tổ chức và
kế hoạch hóa theo vùng lãnh thổ.
* Nhận thức của các nhà kinh điển và của Việt Nam về vai trò của lãnh thổ
trong phát triển kinh tế - xã hội :
C.Mác : xem lãnh thổ không gian là điều kiện tiên quyết đầu tiên của mọi
hoạt động của con người
LêNin : khi thông qua kế hoạch GÔELRÔ LêNin yêu cầu cần xác định địa
điểm phân bố các cơ sở công nghiệp, các cơ sở năng lượng sẽ được xây dựng
2
- Tư liệu lao động
- Đối tượng lao động
- Sức lao động
Mua bán sản phẩm tiêu
dùng;Nhà ở; Dịch vụ; Đi lại;
Giáo dục, y tế
Được phối
hợp thực
hiện trong
vùng lãnh
thổ bằng
các hoạt

động
- Tổ chức quá trình vận tải
- Tổ chức hợp tác sản xuất
- Phân bổ, sử dụng : vốn, vật tư, lao động
- Lựa chọn địa điểm
- Tổ chức các mối liên hệ kinh tế, dịch vụ
- Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội
Yêu cầu của sản xuất và tiêu dùng :
- Vừa liên quan đến ngành
- Vừa liên quan đến vùng lãnh thổ
Tổ chức có kế hoạch các hoạt động trên đây
theo vùng lãnh thổ
Việt Nam đã sớm nhận thức về vai trò của lãnh thổ, nhưng đến Đại hội Đảng
lần thứ IV mới có kết luận xác đáng về vai trò của tổ chức và kế hoạch hóa theo
vùng lãnh thổ ở nước ta.
II. Những nội dung chủ yếu của tổ chức và kế hoạch hóa theo vùng lãnh thổ
1. Nội dung của kế hoạch hóa theo ngành :
Do nền kinh tế quốc dân càng phát triển thì quy mô của ngành ngày càng
được mở rộng và cơ cấu ngành ngày càng phức tạp. Từ đó đòi hỏi phải có tổ chức,
quản lý và kế hoạch hóa theo ngành nhằm giải quyết những vấn đề : chuyên môn
hóa, hợp tác hóa, giải quyết trang bị kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, tổ chức
lại sản xuất trong mỗi ngành.
Nội dung của tổ chức và kế hoạch hóa theo ngành bao gồm :
* Quản lý toàn bộ quá trình tái sản xuất mở rộng của ngành : Trên cơ sở xác định
nhu cầu của nền kinh tế quốc dân về sản phẩm của ngành từ đó nghiên cứu và phát
triển khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ trong ngành
* Tổ chức điều hòa phối hợp hoạt động của các thành phần kinh tế trong phạm vi
ngành
* Thực hiện hợp tác hóa sản xuất giữa các xí nghiệp trong ngành hoặc giữa các
ngành khác nhau qua nhóm sản phẩm

Như vậy tổ chức và kế hoạch hóa theo ngành nhằm giải quyết những vấn đề như :
- Quy mô, tốc độ phát triển
- Cơ cấu sản phẩm
- Khoa học kỹ thuật công nghệ
- Chất lượng chủng loại sản phẩm
- Vấn đề tích lũy của ngành
Đồng thời cần lưu ý : quản lý kế hoạch hóa của ngành chỉ có giới hạn, ngành
không thể đi sâu vào quản lý toàn diện hoạt động sản xuất kinh doanh như trong cơ
chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp
2. Kế hoạch hóa theo vùng lãnh thổ :
3
Kế hoạch hóa theo vùng lãnh thổ là một quá trình mà trong đó sản xuất cũng
như các hoạt động khác của ngành luôn luôn tồn tại trên một địa điểm, gắn liền với
một không gian lãnh thổ nhất định
Trên giác độ đó Ăngghen đã viết : " Trái đất là phòng thí nghiệm lớn, nó
cung cấp tư liệu sản xuất, nguyên liệu cũng như dựa vào đó mà hoạt động và là cơ
sở của mọi khối cộng đồng "
Dựa trên quan điểm đó của Ăngghen có thể đưa ra những nhận xét sau :
- Muốn hoạt động có hiệu quả thì mọi quá trình kinh tế - xã hội đều không tách rời
một địa điểm có điều kiện phù hợp với quá trình đó
- Địa điểm sản xuất được hiểu là : một vị trí, một địa điểm mà ở đó diễn ra quá
trình kết hợp các yếu tố sản xuất : tư liệu lao động, đối tượng lao động, sức lao
động để tạo ra sản phẩm hàng hóa. Quá trình kết hợp này gọi là quá trình kết hợp
bộ phận của nền kinh tế quốc dân và muốn có hiệu quả cao cần có sự phối hợp giữa
ngành và lãnh thổ
Trên cơ sở đó có thể hiểu một cách đầy đủ hơn : kế hoạch hóa theo vùng
lãnh thổ đó là một quá trình mà trong đó diễn ra việc nghiên cứu, bố trí ngành vào
vùng, tạo ra khả năng hình thành các vùng kinh tế. Tổ chức các mối liên hệ kinh tế,
làm cho ngành và vùng liên hệ chặt chẽ với nhau, điều hòa các hoạt động kinh tế -
xã hội trên lãnh thổ. Thực hiện sự phát triển tổng hợp trên phạm vi lãnh thổ

Tuy nhiên điều đáng chú ý là : trong quá trình tổ chức, kế hoạch hóa theo
vùng lãnh thổ cần hướng vào tạo điều kiện cho ngành phát triển thuận lợi nhất, tận
dụng được mọi thế mạnh của vùng lãnh thổ, trên cơ sở đó mà thúc đẩy vùng,
ngành, nền kinh tế quốc dân cùng phát triển nhanh trong một cơ cấu kinh tế quốc
dân thống nhất, tức là tổ chức lãnh thổ, tạo điều kiện về mặt lãnh thổ, điều hòa phối
hợp hoạt động trên lãnh thổ
Còn kế hoạch hóa theo ngành chủ yếu là hướng dẫn quá trình tái sản xuất mở rộng
của ngành
3. Nội dung chủ yếu của kế hoạch hóa theo vùng lãnh thổ :
4
Kế hoạch hóa theo vùng lãnh thổ bao gồm những nội dung chủ yếu sau :
a) Bố trí các cơ sở sản xuất của ngành vào vùng lãnh thổ, góp phần hình thành
cơ cấu kinh tế lãnh thổ có lợi nhất
Mục đích :
- Tạo ra được sự ăn khớp giữa yêu cầu của ngành và điều kiện cho phép của vùng
lãnh thổ
- Đưa ngành vào vùng để góp phần hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
vùng lãnh thổ
- Thúc đẩy cơ cấu kinh tế trung ương và kinh tế địa phương cùng phát triển trong
một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất
Cách làm :
- Vùng lãnh thổ phải biết mình đang cần sản phẩm gì ?. Cần ngành nào? Và lãnh
thổ có khả năng về những mặt nào ?
- Dựa vào đó để lựa chọn và bố trí những ngành sản xuất chính : bảo đảm sản xuất
những sản phẩm chủ lực của vùng lãnh thổ, có tỷ trọng lớn, chi phối đời sống của
vùng
- Lựa chọn, bố trí các cơ sở sản xuất phụ, bổ trợ, các cơ sở dịch vụ phục vụ đời
sống dân cư
b) Điều hòa hoạt động của các ngành trên lãnh thổ.
Mục đích :

- Huy động hết năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế
- Nâng cao được hiệu quả hoạt động của các ngành trên lãnh thổ
Cách làm :
- Tổ chức các mối liên hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành, giữa các
thành phần kinh tế trên lãnh thổ. Sau đó sử dụng mối liên hệ đó để tác động vào các
ngành
- Bảo đảm các điều kiện hoạt động cho các ngành trên lãnh thổ như điện nước, lao
động, nguyên liệu
5
- Thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho các ngành trên
lãnh thổ chẳng hạn như tổ chức hợp lý mạng lưới vận tải, tổ chức tốt mạng lưới
dịch vụ đời sống, tối ưu hóa vốn đầu tư
- Thông qua các tổ chức đoàn thể xã hội để tác động vào hoạt động của các ngành
c) Cải tạo cơ cấu kinh tế của vùng lãnh thổ
Vì sao phải cải tạo :
Vì cơ cấu kinh tế của vùng lãnh thổ hiện nay còn nhiều nhược điểm ví dụ
như cơ cấu giữa công nghiệp và nông nghiệp
Có cải tạo cơ cấu kinh tế của vùng lãnh thổ mới tạo ra được nhiều sản phẩm
hàng hóa, nâng cao được tỷ suất hàng hóa của vùng
Định hướng cải tạo :
- Cải tạo cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp
- Tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề
- Tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ
d) Kế hoạch hóa quá trình tổ chức đời sống dân cư trên vùng lãnh thổ :
Mục đích :
- Bảo đảm tái sản xuất sức lao động về số lượng và chất lượng
- Nâng cao đời sống dân cư
Để đạt được mục đích đó cần xúc tiến việc xây dựng kết cấu hạ tầng như
điện, nước, giao thông vận tải, vui chơi giải trí, giáo dục đào tạo.
4. Để thực hiện được 4 nội dung trên đây trong kế hoạch hóa theo vùng lãnh thổ

cần thực hiện tốt quá trình phân bố lực lượng sản xuất
Phân bố lực lượng sản xuất là quá trình tổ chức lãnh thổ của sản xuất, là sắp
xếp, bố trí các đơn vị sản xuất, phục vụ sản xuất trên cơ sở nghiên cứu đầy đủ các
điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ và yêu cầu của nền kinh tế
quốc dân, yâu cầu của các quy luật kinh tế, quy luật tự nhiên
Đối với Việt nam hiện nay, trong phân bố lực lượng sản xuất cần chú ý đến
hai vấn đề :
6
- Chống tự phát chạy theo lợi nhuận đơn thuần. Vì điều đó sẽ gây ra tình trạng hoặc
bỏ sót nhu cầu của xã hội hoặc cung vượt cầu đưa đến lãng phí của cải vật chất
- Phải tăng cường quản lý Vĩ mô trong phân bố và phát triển lực lượng sản xuất
Nhiệm vụ của phân bố lực lượng sản xuất:
- Tạo ra sự nhất trí giữa yêu cầu của ngành và điều kiện cho phép của lãnh thổ
nhằm đảm bảo cho ngành phát triển
- Thông qua quá trình phân bố lực lượng sản xuất, phát hiện những khả năng mới,
tiềm lực mới của lãnh thổ, từ đó có biện pháp huy động để phục vụ cho quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ đời sống dân cư.
Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện tốt quá trình phân bố lực lượng sản xuất
cần giải quyết một số vấn đề như:
- Mỗi vùng phải đánh giá cho được trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình
độ tổ chức không gian của lãnh thổ. Chẳng hạn như vùng Đông Nam bộ và 3 tỉnh
Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận sản xuất ra 62% giá trị sản lượng công
nghiệp, bảo đảm 52% ngân sách nhà nước, Bảo đảm 70% kim ngạch xuất khẩu và
thu hút 53% dự án đầu tư nước ngoài
- Cần nghiên cứu để hiểu rõ những nguyên nhân nào đưa đến sự hình thành tổ chức
không gian lãnh thổ đó
- Từ đó đưa ra hướng tổ chức không gian đó cần được thay đổi như thế nào trong
tương lai
- Đánh giá đúng khả năng về tài nguyên thiên nhiên, điều kiện về kinh tế - xã hội
của vùng và cả nước, nắm được xu hướng phát triển kinh tế - xã hội của trong và

ngoài nước
Các bước tiến hành phân bố lực lượng sản xuất :
a) Phân vùng ngành: Dựa trên cơ sở xác định, tính toán các điều kiện cho phép
của mỗi vùng lãnh thổ, ngành vạch ra hướng phân bố ngành vào vùng lãnh thổ
b) Hình thành vùng kinh tế cơ bản :
Kinh tế vùng lãnh thổ và quá trình hình thành vùng kinh tế cơ bản ở nước ta :
7
- Lãnh thổ hành chính đó là địa giới không gian và nội dung quản lý của nhà nước
trên không gian xác định đó. Còn vùng kinh tế lại thể hiện giới hạn của một không
gian vận
- Quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của bất cứ một quốc gia nào cũng chính
là tổng hợp sự phát triển của các vùng kinh tế hợp thành. Vì mọi chủ thể kinh tế
đều được hoạt động và diễn ra trên một không gian lãnh thổ nhất định
- Quá trình hình thành và phát triển vùng kinh tế cơ bản ở nước ta :
Trong những năm đầu của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Việt Nam
được chia ra thành các liên khu để vừa phù hợp với quản lý hành chính, phát triển
kinh tế trong điều kiện có chiến tranh
Đến Đại hội Đảng lần thứ III: Miền Bắc được xác định kinh tế vùng theo
Trung du, miền núi, đồng bằng. Nghi quyết đại hội III nêu rõ : " Phải phân bố hợp
lý sức sản xuất ở đồng bằng, trung du, miền núi, điều chỉnh sức người giữa các
vùng, quy hoạch từng bước vùng kinh tế, thực hiện sự phân công, phối hợp giữa
các vùng với nhau "
Đến Hội nghị Trung Ương V ( Khóa III tháng 7/1961 ) đã đặt ra vấn đề phân vùng
nông nghiệp. Dưạ vào chủ trương đó, Uy ban Kế hoạch nhà nước, Bộ Nông nghiệp
đã phân chia miền Bắc thành 4 vùng kinh tế nông nghiệp lớn với 46 tiểu vùng.
Tổng cục lâm nghiệp lúc đó cũng xây dựng các tài liệu để phân vùng lâm nghiệp.
Uy ban Kiến thiết cơ bản nhà nước cũng triển khai nghiên cứu quy hoạch địa điểm
xây dựng miền Bắc. Song do điều kiện chiến tranh, các dự án trên chưa được phê
chuẩn và triển khai
Đến Đại hội Đảng lần thứ IV: coi trọng phát triển vùng, đã phân chia lãnh

thổ Việt Nam thành 4 vùng kinh tế cơ bản. Nghị quyết Đại hội IV xác định " Tiến
hành phân vùng quy hoạch sản xuất để phát triển tất cả các vùng: Đồng bằng, trung
du, miền núi và miền biển, sắp xếp hình thành những khu vực lớn, sản xuất tập
trung chuyên môn hóa"
Đại hội IV: Phân định Việt Nam thành 7 vùng kinh tế lớn :
8
- Đồng bằng Sông Hồng
- Đồng bằng Sông cửu Long
- Miền Đông Nam bộ
- Duyên hải Trung bộ
- Khu 4 cũ
- Miền núi, trung dự án phía Bắc
- Tây Nguyên
+ Tháng 3/1984 : Uy ban phân vùng kinh tế Trung ương ( thành lập năm 1977) đã
có dự án phân chia lãnh thổ Việt Nam thành 4 vùng kinh tế lớn tổng hợp là : Bắc
bộ, Trung bộ, Tây nguyên, Nam bộ
+ Đến Đại hội Đảng VI : Dựa trên việc kế thừa cách phân vùng của Đại hội V đồng
thời yêu cầu các cơ quan chức năng tiếp tục nghiên cứu về phân vùng kinh tế ở
nước ta
+ Đến Đại hội VII: Tiếp tục nghiên cứu việc phân vùng kinh tế theo Đại hội V và
VI
+ Đến Đại hội Đảng lần thứ VIII: Đưa ra 4 vùng kinh tế lớn theo tính chất địa lý:
- Vùng kinh tế đô thị
- Vùng Đồng bằng
- Vùng miền núi
- Vùng kinh tế biển
Song cách phân vùng này gặp khó khăn trong việc xây dựng và thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Từ đó chính phủ lại đưa ra dự án xây dựng vùng kinh tế theo 8 vùng kinh tế
Đồng bằng Sông Hồng gồm các tỉnh: Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Bắc

Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam định, Thái Bình, Ninh Bình.
Đông Bắc gồm các tỉnh : Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn,
Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, quãng Ninh
Tây Bắc gồm các tỉnh: Lai Châu, Sơn la, Hòa Bình
9
Bắc Trung bộ gồm các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh, Quãng Bình, Quãng
Trị, Thừa Thiên Huế
Duyên hải Nam Trung bô gồm các tỉnh: Đà Nẵng, Quãng Nam, Quãng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa
Tây Nguyên gồm các tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, ĐắkLắk, Lâm Đồng
Đông Nam bộ gồm các tỉnh : Thành phố Hồ Chí Minh, Ninh Thuận, Bình Phước,
Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bình Thuận, Bà Rịa Vũng Tàu
Đồng bằng Sông Cửu Long gồm các tỉnh: Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền
Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Kiên Giang, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu,
Cà Mau
Đồng thời chủ trương xây dựng 3 vùng trọng điểm kinh tế của đất nước nhằm tạo
đầu tư cho quá trình phát triển
Vùng trọng điểm phía Bắc: Hà Nội - Hải Phòng - Quãng Ninh
Vùng trọng điểm Miền Trung: Huế - Đà Nẵng - Quãng Ngãi
Vùng trọng điểm phía Nam: Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa Đồng Nai - Bà
Rịa Vũng Tàu
III. Kết hợp kế hoạch hóa theo ngành và theo vùng lãnh thổ :
1. Vì sao phải kết hợp :
Quá trình kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân được thực hiện theo hai hướng :
- Theo ngành : nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến tái sản xuất mở rộng
của ngành
- Theo vùng lãnh thổ : nhằm giải quyết những vấn đề về tổ chức không gian lãnh
thổ, giải quyết những yêu cầu của ngành có liên quan đến lãnh thổ
Do đó phải kết hợp với nhau để bảo đảm ngành và vùng phát triển theo định
hướng thống nhất. (Chẳng hạn như về sản xuất lương thực mục tiêu đặt ra là đến

năm 2005 sản xuất nông nghiệp đạt được 35 triệu tấn. Mục tiêu này phải được
thống nhất trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn và đó cũng là mục tiêu
của 61 tỉnh thành phố trong cả nước.) đồng thời có kết hợp mới nâng cao được hiệu
10
quả của nền kinh tế quốc dân, các yêu cầu của các quy luật kinh tế mới được đảm
bảo
2. Yêu cầu đặt ra trong quá trình kết hợp :
- Nhằm tạo ra khả năng kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa
phương, tạo điều kiện cho 2 bộ phận kinh tế này trở thành một cơ cấu kinh tế quốc
dân thống nhất
- Quá trình kết hợp đó phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh của
các ngành và kinh tế vùng lãnh thổ, tức là pahỉ tạo ra 1 lực tác động cùng chiều vào
kinh tế ngành và kinh tế vùng, từ đó nhịp độ phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân được đảm bảo
- Phải phát huy được vai trò của ngành đối với vùng nhằm giúp các vùng khai thác
tận dụng những tiềm năng, lợi thế của vùng để phát triển kinh tế - xã hội
Từ đó chống được cục bộ địa phương, chia cắt trong quá trình phát triển
3. Nội dung chủ yếu cần được thực hiện trong quá trình kết hợp giữa ngành và
lãnh thổ
a. Kết hợp trong phân công tổ chức sản xuất: Đây là nội dung cơ bản nhất cần
được thực hiện trong quá trình kết hợp. Trong quá trình phân công tổ chức sản xuất
nếu gặp những trở ngại khó khăn thì ngành và vùng lãnh thổ cùng nhau bàn bạc để
giải quyết. Chẳng hạn như những khó khăn về nguồn cung cấp nguyên liệu, nguồn
nhân lực
b Kết hợp trong bố trí địa điểm: Trong quá trình bố trí địa điểm doanh nghiệp thì
ngành và vùng phải kết hợp với nhau để xác định : điều kiện cho phép, sự bố trí đó
có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến địa phương, hướng giải quyết.
c. Kết hợp trong quy hoạch và bố trí vốn đầu tư trên vùng lãnh thổ: Kết hợp
trong quy hoạch và bố trí vốn đầu tư trên vùng lãnh thổ : bố trí các ngành trên lãnh
thổ, bố trí vốn đầu tư phải được cả ngành và vùng thống nhất với nhau.

11
d. Kết hợp trong các cân đối lãnh thổ : Cân đối lãnh thổ là những cân đối nhằm
đáp ứng yêu cầu của ngành nhưng có liên quan chặt chẽ đến điều kiện cho phép của
lãnh thổ. Chẳng hạn như cân đối lương thực, cân đối tiền hàng
Bản thân từng ngành định kỳ thông báo những yêu cầu có liên quan đến lãnh
thổ cho lãnh thổ biết. Lãnh thổ sẽ xem xét và đưa vào trong kế hoạch của lãnh thổ.
Trên cơ sở đó tiến hành cân đối lãnh thổ, nếu gặp khó khăn thì ngành và lãnh thổ
cùng nhau giải quyết.
e. Kết hợp trong tổ chức đời sống cho dân cư
Mục đích là nhằm giúp cho ngành phát triển một cách tốt nhất, giúp cho
ngành và lãnh thổ thực hiện quá trình tái sản xuất sức lao động nhằm tạo điều kiện
đảm bảo đời sống cho dân cư trên lãnh thổ.
12
CHƯƠNG II
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG KẾ HOẠCH HÓA
Ở CẤP VÙNG LÃNH THỔ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ LOẠI VỪA TỈNH,
THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
I. Tỉnh là một cấp vùng lãnh thổ hành chính - kinh tế loại vừa :
1. Lãnh thổ theo nghĩa rộng :
- Đó là một vùng đất đai của một quốc gia trọn vẹn
- Có thể đó là một vùng đất đai của nhiều nước
- Đó là một vùng đất đai bên trong một quốc gia
2. Lãnh thổ được phân chia như thế nào :
+ Nếu lãnh thổ được phân chia theo phạm vi thì có :
- Lãnh thổ toàn vẹn
- Lãnh thổ đơn vị ( nằm bên trong một quốc gia )
+ Nếu chia theo tính chất thì có các loại :
- Lãnh thổ hành chính
- Lãnh thổ kinh tế
3. Lãnh thổ hành chính được hình thành trên cơ sở các điều kiện :

- Quy mô dân cư, Dân tộc, Điều kiện để phát triển giao thông vận tải, Vấn đề
phòng thủ. Dựa trên những điều kiện đó, ở nước ta đã phân chia đơn vị lãnh thổ
hành chính như sau :
4. Lãnh thổ kinh tế được hình thành dựa trên các điều kiện :
Việt Nam
Tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương
Quận, huyện, thị xã trực thuộc tỉnh, thành phố
Xã, phường, thị trấn
13
- Tận dụng những điều kiện hình thành ra đơn vị lãnh thổ hành chính
- Đặc biệt là các điều kiện :
- Điều kiện tài nguyên khí hậu, vị trí địa lý
- Quy mô dân cư, cơ cấu dân cư
- Quy mô lao động, cơ cấu và chất lượng lao động
5. Vùng kinh tế : Đơn vị lãnh thổ kinh tế có tên chung là vùng kinh tế. Vùng kinh
tế có nhiều loại, song các nhà kinh tế quan tâm đến 2 loại vùng chủ yếu là :
- Vùng kinh tế chuyên môn hóa ( vùng kinh tế mỏ, vùng công nghiệp )
- Vùng kinh tế tổng hợp. Vùng kinh tế tổng hợp lại được chia ra thành các cấp vùng
khác nhau tùy thuộc vào quy mô của nó :
+ Vùng kinh tế cơ bản ( vùng kinh tế lớn )
+ Vùng kinh tế loại vừa. Ở Việt Nam vùng kinh tế loại vừa là vùng
lãnh thổ hành chính kinh tế cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
+ Vùng kinh tế loại nhỏ : đó là các tiểu vùng, kinh tế thường trùng hợp
với cấp huyện
Từ những phân tích trên đây, ở nước ta, tỉnh và huyện, quận và thành phố
không chỉ có ý nghĩa, chức năng về hành chính mà còn có ý nghĩa về kinh tế của
một cấp vùng lãnh thổ kinh tế
II. Ý nghĩa và nhiệm vụ về mặt quản lý kinh tế, kế hoạch hóa của cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam.

1. Với tư cách là một cấp chính quyền địa phương ( lãnh thổ hành chính ) tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ
- Thực hiện quá trình quản lý nhà nước một cách toàn diện các hoạt động kinh tế -
xã hội trên lãnh thổ
- Triển khai thực hiện các chính sách, chủ trương của Đảng và nhà nước, giáo dục,
theo dõi nhân dân chấp hành luật pháp
- Chăm lo đời sống của dân cư trên lãnh thổ
14
2. Nếu tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với tư cách là một cấp vùng lãnh
thổ kinh tế thì có nhiệm vụ :
- Xây dựng và thực hiện các cân đối lãnh thổ. Đó là những cân đối có liên quan đến
sản xuất và tiêu dùng trên lãnh thổ.
- Điều hòa các hoạt động kinh tế trong vùng
- Tổ chức tổng thể kinh tế trong vùng. Việc xây dựng tổ chức các tổng thể trong
vùng chỉ có vùng lãnh thổ mới làm được
3. Qua phân tích nhiệm vụ của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với hai tư
cách trên, có thể rút ra nhiệm vụ của kế hoạch hóa cấp tỉnh, thành phố như
sau :
- Khai thác sử dụng có hiệu quả mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên trên lãnh thổ đáp
ứng nhu cầu của địa phương, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế cả nước. Để
thực hiện được nhiệm vụ này, đòi hỏi, tỉnh thành phố phải hiểu, nắm đầy đủ những
tiềm năng của mình
- Thúc đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội bằng cách :
Phát triển kinh tế trên lãnh thổ địa phương
Coi trọng phát triển kinh tế nông thôn, kinh tế đô thị, kinh tế vùng ven biển,
kinh tế vùng núi
Thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung trong kinh tế
Thực hiện chuyên môn hóa theo ngành
- Tạo điều kiện về mặt lãnh thổ cho hoạt động sản xuất của các ngành bằng cách :
Quy hoạch ngành trong vùng

Thực hiện tốt các cân đối lãnh thổ
Bảo đảm đời sống của dân cư nhằm bảo đảm tái sản xuất sức lao động trên
lãnh thổ
- Ap dụng một số biện pháp nhằm thực hiện hợp lý hóa lãnh thổ để tăng năng suất
lao động, giảm chi phí lao động xã hội trong sản xuất.
15
4. Về phương diện nghiệp vụ, cơ quan kế hoạch cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương có những nhiệm vụ :
- Chuyển hóa chiến lược kinh tế - xã hội, các phương án phân vùng, phân bố lực
lượng sản xuất của cả nước thành các chiến lược, các phương án của địa phương
phù hợp với điều kiện của địa phương, đồng thời tham gia nghiên cứu các chuyên
đề về kinh tế - xã hội chung của cả nước ( xây dựng chiến lược, quy hoạch )
- Tổ chức xây dựng kế hoạch 5 năm, hàng năm phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn tỉnh, thành phố, xây dựng các cân đối hiện vật và giá trị trên địa bàn địa
phương, làm tham mưu giúp ủy ban nhân dân tỉnh điều hành quản lý nhà nước về
kinh tế trên địa bàn
- Nghiên cứu nhằm cụ thể hóa các chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước cho phù
hợp với điều kiện địa phương
- Cơ quan kế hoạch đầu tư cấp tỉnh, thành phố còn chủ trì trong việc tổ chức xét
duyệt dự án đầu tư các công trình kinh tế của địa phương, tham gia xét duyệt các
công trình của trung ương và của các địa phương khác trên lãnh thổ, xây dựng hệ
thống định mức kinh tế kỹ thuật để chính quyền địa phương ban hành trên lãnh thổ
Như vậy : Cơ quan kế hoạch đầu tư cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương phải giải quyết những công việc nhằm xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
của một cấp vùng lãnh thổ hành chính kinh tế loại vừa
5. Ý nghĩa chiến lược của quá trình xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
* Nếu xét về phương diện lý luận và thực tiễn thì Việt Nam chưa trải qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa nên :
Cùng một lúc phải giải quyết hai loại vấn đề : Một loại vấn đề của cách mạng xã

hội chủ nghĩa đặt ra khi xây dựng quan hệ sản xuất mới, cải tạo xã hội theo định
hướng chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới. Loại vấn đề
thứ hai mà lẻ ra chủ nghĩa tư bản đã làm như : phát triển lực lượng sản xuất, công
nghiệp hóa hiện đại hóa, tích lũy vốn
16
Cùng một lúc phải kết hợp hai quá trình : Quá trình phát triển phân tán ở bên
dưới (kinh tế địa phương) và phát triển tập trung quy mô lớn (kinh tế trung ương)
Từ đó đặt ra cho nước ta phải :
- Kết hợp phát triển tập trung và phân tán
- Kết hợp phát triển tuần tự và nhảy vọt
- Kết hợp quy mô vừa, nhỏ với quy mô lớn
* Ý nghĩa cụ thể của quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương
- Nếu kinh tế địa phương được phát triển nhanh chóng thì sẽ góp phần thu hút tận
dụng hết lao động phân tán tại địa phương, Tận dụng hết tài nguyên đa dạng của
địa phương, huy động được vốn trong nhân dân để phát triển kinh tế - xã hội
- Phát triển kinh tế địa phương sẽ tạo điều kiện gắn sản xuất với đời sống, sản xuất
với tiêu dùng ngay trên mỗi vùng lãnh thổ. Vì khi sản xuất phát triển thì nhu cầu
tiêu dùng tăng và đa dạng hơn. Kinh tế trung ương chỉ lo những nhu cầu lớn, còn
địa phương lo những nhu cầu đa dạng đó, lo những nhu cầu có tính chất bộ phận
tùy theo đặc điểm của địa phương
- Phát triển kinh tế địa phương là một cách làm tốt để kết hợp công nghiệp với nông
nghiệp, bảo đảm hậu cần tại chổ cho nền quốc phòng toàn dân
- Phát triển kinh tế địa phương sẽ thúc đẩy quá trình hình thành các đô thị nhỏ, vừa.
Thúc đẩy quá trình phát triển nông thôn mới, gắn thành thị với nông thôn
III. Nội dung của kế hoạch hóa cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với
tư cách là một cấp vùng lãnh thổ hành chính kinh tế loại vừa :
1. Xác lập căn cứ để xây dựng phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương : Muốn vậy phải:
Tiến hành công tác điều tra cơ bản để nắm được tài nguyên thiên nhiên của địa

phương. Thực trạng về dân cư và lao động trên địa bàn. Cơ sở vật chất kỹ thuật
hiện có của địa phương. Khả năng về vốn của các thành phần kinh tế
17
Nắm được yêu cầu và nội dung về kinh tế - xã hội mà trung ương phân cấp cho
tỉnh, thành phố.
Nắm yêu cầu liên doanh liên kết, nhận đầu tư từ bên ngoài
2. Xây dựng phương hướng phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, 5 năm cho địa
phương
Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội rất đa dạng do lợi thế so sánh, thực
trạng, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, khả năng về các nguồn lực như vốn, nhân
lực, tài nguyên, khoa học công nghệ, thị trường khác nhau. Từ đó phương hướng
phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương cũng khác nhau.
3. Tổ chức chỉ đạo thực hiện quá trình kết hợp công nghiệp với nông nghiệp
trên vùng lãnh thổ.
Vì sao phải kết hợp công nghiệp với nông nghiệp ? Vì thông qua quá trình
kết hợp đó sẽ tạo ra những tác động to lớn như :
- Công nghiệp sẽ tạo điều kiện vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp đi vào thâm canh
tăng vụ, tăng nhanh năng suất cây trồng vật nuôi.
Ví dụ Công nghiệp cung cấp máy móc thiết bị nông cụ bảo đảm các điều
kiện cải tạo đất
- Thúc đẩy quá trình phân công lao động ngay trong nông nghiệp : vì khi ngành
nghề được phát triển sẽ thu hút thêm lao động nông thôn, lao động sẽ di chuyển từ
trồng cây lương thực sang trồng cây công nghiệp, lao động dịch vụ tăng lên rõ rệt.
Qua kết hợp không chỉ làm cho nông thôn không chỉ đơn thuần là nông nghiệp mà
kinh tế nông thôn phát triển đa dạng, tổng hợp, gắn nông thôn với thành thị, tạo
điều kiện để xây dựng nông thôn mới
- Những hình thức để kết hợp nông nghiệp với công nghiệp :
+ Sử dụng hợp đồng kinh tế giữa công nghiệp với nông nghiệp để kết hợp
+ Kết hợp giữa sản xuất công nghiệp chế biến nông sản với sản xuất nông nghiệp
+ Hình thành các tổ hợp công nghiệp, nông nghiệp hay liên hiệp công nông nghiệp

18
4. Cải thiện điều kiện lao động, điều kiện đời sống của dân cư trên địa bàn tỉnh,
thành phố.
Điều kiện lao động đó là toàn bộ những điều kiện khách quan tác động hàng
ngày đến lao động sản xuất và đời sống dân cư
Điều kiện lao động, điều kiện sống của mỗi vùng lãnh thổ cao hay thấp lệ thuộc
vào các yếu tố :
- Mức độ phát triển của lực lượng sản xuất của mỗi vùng lãnh thổ
- Quan hệ sản xuất, đặc biệt là cơ chế quản lý kinh tế, chế độ phân phối thu nhập
- Trình độ phân bố lực lượng sản xuất trên lãnh thổ
- Khả năng về tài nguyên thiên nhiên trên lãnh thổ
- Cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế của địa phương
Song để cho các yếu tố trên phát huy tác dụng trong việc tạo ra điều kiện lao
động, điều kiện sống thì phải tổ chức, quản lý tốt quá trình tái sản xuất mở rộng
trên lãnh thổ
Điều kiện lao động bao gồm những yếu tố gì ?
- Trình độ tổ chức lao động sản xuất tren hai phạm vi :
Bố trí sản xuất trong vùng lãnh thổ
Tổ chức lao động bên trong mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh
- Mức độ bảo đảm an toàn lao động và điều kiện nghĩ ngơi trong lao động
sản xuất
- Điều kiện vệ sinh môi trường của vùng, mỗi doanh nghiệp
Điều kiện sống của dân cư đó là mức độ bảo đảm thỏa mãn nhu cầu vật chất
văn hóa tinh thần cho dân cư
Nội dung điều kiện sống có thể khác nhau ở các nước có trình độ phát triển
kinh tế - xã hội khác nhau.
Với điều kiện của Việt Nam thì những yếu tố chi phối điều kiện sống là :
- Mức độ bảo đảm lương thực thực phẩm
- Mức độ bảo đảm hàng tiêu dùng công nghiệp, dịch vụ
19

- Điều kiện về nhà ở, học tập, vui chơi giải trí, bảo vệ sức khỏe
Để cải thiện điều kiện lao động, điều kiện sống cần áp dụng một số
biện pháp như :
- Giảm lao động nặng nhọc bằng cách trang bị đầy đủ công cụ lao động, thực hiện
cơ giới hóa quá trình sản xuất
- Mở rộng sản xuất với sự tham gia của các thành phần kinh tế nhằm tăng thu nhập
và tăng mức cung cấp sản phẩm
- Thực hiện tốt những quy định về bảo hộ lao động, bảo vệ môi trường sống, môi
trường sản xuất
- Phát triển kết cấu hạ tầng
- Xây dựng nếp sống văn minh, lành mạnh, chống các tệ nạn xã hội trong dân cư
5. Tổ chức ra những tổng hợp thể kinh tế trên địa bàn tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương :
Tổng hợp thể kinh tế đó là mối liên hệ kinh tế nhiều ngành trong vùng, các
ngành, các đơn vị phát triển nhờ sự tác động tổng hợp, hổ trợ lẫn nhau, tạo ra khả
năng phát triển kinh tế - xã hội nhanh, hiệu quả cao
Vì sao phải tổ chức tổng hợp thể kinh tế :
- Để cho quá trình sản xuất diễn ra trên lãnh thổ thì phải có quá trình kết hợp giữa
các yếu tố sản xuất : tư liệu lao động, đối tượng lao động, và sức lao động.
Sự kết hợp đó càng tốt, càng chặt chẽ thì hiệu quả sản xuất càng cao. Điều đó đòi
hỏi phải tổ chức ra các tổng hợp thể kinh tế
- Sự phát triển chuyên môn hóa sản xuất luôn luôn gắn liền với sự phát triển tổng
hợp của vùng. Đây là một vấn đề có tính chất quy luật. Trong thực tế để cho tính
quy luật đó trở thành hiện thực cần có tác động của lãnh thổ tức là phải tổ chức cho
được tổng hợp thể kinh tế trên lãnh thổ
Để tổ chức tổng hợp thể kinh tế trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương cần giải quyết một số vấn đề sau :
20
- Vạch cho được chương trình phát triển của vùng. Chương trình này phải dựa trên
cơ sở kết quả phân vùng quy hoạch của cả nước. Khi vùng đã có chương trình phát

triển thì tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ động bố trí sản xuất, chủ động
phát triển vùng, tạo ra được sự ăn khớp giữa cái sau với cái trước, tránh được lãng
phí. Muốn vậy phải
- Điều tra cơ bản về vùng.
- Nắm được mặt mạnh mặt yếu của vùng.
- Nắm được nội dung phân công của trung ương cho vùng
- Cấp tỉnh phải trực tiếp điều hòa các hoạt động của vùng lãnh thổ
Muốn điều hòa các hoạt động kinh tế trên lãnh thổ thì vùng phải :
- Nắm được đặc điểm của từng loại xí nghiệp
- Nắm yêu cầu về các mặt của xí nghiệp
Từ đó vùng lãnh thổ mới có điều kiện tham gia vào việc dự báo quy mô, tốc
độ phát triển của xí nghiệp, của mỗi ngành trên địa phương, tham gia vòa việc chọn
địa điểm, vào việc thực hiện kế hoạch phân bố vốn, thực hiện vốn đầu tư
Từ đó tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có thêm điều kiện, tư liệu để xây
dựng tổng hợp thể kinh tế
- Xúc tiến quá trình tổ chức các khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc các trung tâm
kinh tế và các điểm dân cư
IV. Cơ cấu lãnh thổ trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội , trong kế hoạch
dài hạn cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
1. Cơ cấu lãnh thổ : đó là sự bố trí không gian của các yếu tố sản xuất, bố trí các
lĩnh vực, các ngành trên toàn bộ lãnh thổ hay trong từng đơn vị lãnh thổ, bảo đảm
mối liên hệ về chất lượng và tỷ lệ về mặt số lượng, tạo ra mối liên hệ hợp lý nhằm
phục vụ cho sản xuất và đời sống
* Mối liên hệ về chất lượng đó là sự tác động qua lại giữa các doanh nghiệp. Ơ đây
vừa xét về mặt bố trí hợp lý vị trí, phát triển hợp lý số lượng doanh nghiệp mỗi loại,
vừa xét đến yêu cầu các doanh nghiệp phát triển đến mức độ nào, hoạt động ra sao
21
Chẳng hạn như khi xây dựng một xí nghiệp cơ khí phải xác định :
- Vị trí địa lý
- Quy mô xí nghiệp

- Xí nghiệp cơ khí đó sản xuất loại sản phẩm cơ khí nào là phù hợp
- Trình độ của xí nghiệp cơ khí ( sửa chữa, chế tạo )
* Mối liên hệ tỷ lệ về số lượng đó là sự cân đối giữa các nhóm ngành
Chẳng hạn như trong một vùng lãnh thổ phải đảm bảo cân đối giữa các
ngành sản xuất vật chất, giữa các ngành sản xuất phục vụ, giữa sản xuất và đời
sống
Như vậy thực chất của mối liên hệ tỷ lệ về số lượng là muốn đề cập đến vấn
đề cân đối giữa yêu cầu của ngành với điều kiện cho phép của lãnh thổ
2. Cơ cấu lãnh thổ bao gồm những bộ phận nào :
1. Cơ cấu sản xuất của lãnh thổ :
Cơ cấu sản xuất của lãnh thổ đó là cơ cấu sản xuất đã được lựa chọn và việc
bố trí cơ cấu đó trong vùng lãnh thổ với mục đích hình thành cho được các tổng
hợp thể kinh tế
Trong điều kiện hiện nay bố trí cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp trên lãnh
thổ cần bảo đảm những yêu cầu sau :
- Chuyển mạnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo kiểu tự túc tự cấp sang cơ cấu sản
xuất với tỷ suất hàng hóa cao, tạo điều kiện cho ngành nông nghiệp hòa nhập với
nền kinh tế thị trường
- Khi bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế nông nghiệp của vùng phải theo nguyên
tắc kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp với công nghiệp chế
biến, với phát triển tiểu thủ công nghiệp
- Phải gắn vấn đề xã hội vào trong cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế nông nghiệp tức
là không tách rời việc giải quyết vấn đề sản xuất với vấn đề xã hội trong nông thôn.
- Gắn yêu cầu xuất khẩu vào trong quá trình xây dựng cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh
tế trong nông nghiệp trên lãnh thổ. Vì yêu cầu xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp
22
ngày càng tăng và có vị trí quan trọng. Hơn nữa có tham gia xuất khẩu thì nông
nghiệp mới có điều kiện tăng cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng yêu cầu nâng cao chất
lượng sản phẩm nông nghiệp, từ đó nông nghiệp có điều kiện đi nhanh vào sản xuất
hàng hóa, có điều kiện tiếp nhận quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông

nghiệp nông thôn
-Tổng hợp thể sản xuất đó chính là một khối liên kết trên phạm vi lãnh thổ nhờ vào
việc lựa chọn đúng vị trí địa lý, vị trí kinh tế của các xí nghiệp, các ngành
Ở nhiều địa phương hiện nay đang hình thành các cụm kinh tế kinh tế - xã
hội để đưa công nghiệp, thương mại, vận tải, xây dựng, đưa hệ thống các trường
học phổ thông về nông thôn.Khi hình thành đươc các cụm kinh tế kỹ thuật đó
cũng có thể xem là các tổng hợp thể sản xuất
Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu sản xuất của lãnh thổ :
- Sự phân công, phân bố lực lượng sản xuất của trung ương vào lãnh thổ. Chẳng
hạn như Bộ Công nghiệp dự kiến đưa một nhà máy sản xuất xi măng vào một địa
phương sẽ tác động đến cơ cấu lãnh thổ
- Tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, tập quán, truyền thống sản xuất của vùng trên
lãnh thổ
- Điều kiện vật chất kỹ thuật, vốn, lao động của vùng
Xu hướng biến động cơ cấu sản xuất của lãnh thổ : cơ cấu sản xuất luôn luôn biến
động do tác động của các yếu tố bên trong, bên ngoài nhất là yêu cầu của thị
trường. Chẳng hạn như cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp biến động theo hướng tỷ
trọng cây công nghiệp tăng, tỷ trọng chăn nuôi tăng, tỷ trọng ngành nghề dịch vụ
tăng.
Những cân đối cần chú ý khi xây dựng cơ cấu sản xuất lãnh thổ
- Cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp
- Cân đối giữa khoa học kỹ thuật với các ngành sản xuất
- Cân đối giữa công nghiệp, nông nghiệp và thương nghiệp
- Cân đối giữa sản xuất và vận tải
23
- Cân đối giữa công nghiệp chế biến với công nghiệp khai thác của lãnh thổ cần
nhằm thu hút thêm lao động vào sản xuất dịch vụ, tạo được những ngành mới có
điều kiện ứng dụng kỹ thuật hiện đại, xây dựng cơ cấu sản xuất theo kiểu hướng
ngoại, tăng nhanh tỷ suất hàng hóa
2. Cơ cấu dân cư, lao động trong cơ cấu lãnh thổ :

Ý nghĩa : nếu tạo ra được một cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động hợp lý mang tính
chất sản xuất sẽ là một điều kiện để cân đối được sản xuất với tiêu dùng. Tận dụng
được
tiềm năng của địa phương do kết hợp tốt giữa lao động và tài nguyên
Từ đó đặt ra yêu cầu cần phải kế hoạch hóa phát triển điểm dan cư và lao
động trên vùng lãnh thổ phù hợp với điều kiện của vùng.
Vấn đề dân số ở Việt Nam nói chung và trên các vùng lãnh thổ nói riêng :
- Tăng nhanh ( năm 1945 : 25 triệu người, năm 1976 : 49 triệu người, 1989 : 64
triệu người, năm 1999 : 76,5 triệu người )
- Năng suất lao động trong công nghiệp, nông nghiệp đều thấp
- Chưa thực sự tạo được khả năng thích ứng giữa gia tăng dân số và tăng trưởng
kinh tế
* Yêu cầu đặt ra trong xây dựng cơ cấu dân cư trên lãnh thổ là :
- Bảo đảm tỷ lệ hợp lý về độ tuổi, về trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật phù hợp
với cơ cấu sản xuất. Chẳng hạn như về độ tuổi phải đảm bảo 40-45% ở độ tuổi từ
15-55 (nữ) , 15-60 (nam). Về trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, chuyên môn
nghiệp vụ phải xuất phát từ cơ cấu sản xuất từ yêu cầu sản xuất mà đào tạo và tiếp
nhận cán bộ. Chẳng hạn như cơ cấu cán bộ khoa học kỹ thuật của thành phố khác
với nông thôn
- Bảo đảm tỷ lệ hợp lý về các loại nhân khẩu trên lãnh thổ :
Tỷ lệ nhân khẩu cơ bản : là bộ phận lao động chính, thuộc các ngành nghề chủ yếu
chiếm từ 25-35% và xu hướng là loại nhân khẩu này tăng
24
Tỷ lệ nhân khẩu phục vụ : quản lý, giáo dục, y tế , văn hóa . Loại nhân khẩu này
chiếm 15-20% và có xu hướng tăng
Tỷ lệ nhân khẩu phụ thuộc : từ 0 đến 14 tuổi và trên 60 ( nam ), 55 ( nữ ). Loại này
thường chiếm 45-60% và có xu hướng giảm
Chẳng hạn như tỷ lệ nhân khẩu từ 0 đến 14 tuổi ở một số nước như sau : Nga :
29,55. Việt Nam : 42,5%. Mỹ : 30,1%. Ba Lan : 27,5%. Anh : 23,7%. Nhật :
24,8%.

Yêu cầu phân bố hợp lý dân cư giữa các vùng trong cả nước, giữa các vùng trong
một địa phương.
Ở Việt Nam mỗi vùng lãnh thổ đều tồn tại những vấn đề sau :
- Ở đồng bằng : dân số chiếm 2/3 dân số cả nước, mật độ cao ( chẳng hạn
như tỉnh Thái Bình 1.028 người/km2 ) nhưng tài nguyên, nhất là đất đai thì bị hạn
chế, chỉ chiếm 1/3 tài nguyên cả nước
- Trung du miền núi thì ngược lại : dân số chỉ chiếm 1/3 dân số cả nước,
trong khi tài nguyên đất lại chiếm 2/3 của cả nước, mật độ dân cư thấp ( Tây
nguyên đạt 53 người /km2)
Từ thực tế đó, đặt ra yêu cầu điều chỉnh lại dân cư và lao động giữa
các vùng lãnh thổ của nước ta. Hướng điều chỉnh là tăng dân cư, lao động ở Tây
nguyên, tăng dân cư lao động ở các tỉnh biên giới phía Bắc, tăng dân cư lao động ở
đồng bằng sông Cửu Long
Quá trình điều chỉnh này phải gắn với việc xây dựng các khu vực kinh tế mới, gắn
với dự án định canh, định cư của đồng bào các dân tộc
Riêng đối với các tỉnh Duyên hải miền Trung hướng điều chỉnh trong các
vùng lãnh thổ như sau : tiếp tục di chuyển dân cư lao động lên phía Tây, Tăng mật
độ dân cư ở phía Đông vùng ven biển. Quá trình điều chỉnh này phải gắn với chủ
trương phát triển toàn diện kinh tế nông thôn, kinh tế vùng núi, kinh tế vùng ven
biển
25

×