Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Pháp Luật Về Ngân Hàng Liên Doanh Ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.4 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





ĐỒNG THỊ NHÂN






PHÁP LUẬT VỀ
NGÂN HÀNG LIÊN DOANH Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh Tế






TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn : TS Võ Đình Toàn








Hà Nội - 2013
MỤC LỤC

Trang

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU
1
Chương 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG LIÊN
DOANH
5
1.1. Quá trình ra đời, phát triển của Ngân hàng liên doanh và
mô hình ngân hàng liên doanh
5
1.2. Sơ lược về ngân hàng liên doanh ở một số nước 10
1.3. Sự hình thành của Ngân hàng liên doanh và vai trò của nó
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
12
1.4. Khái niệm quy chế pháp lý của Ngân hàng liên doanh 16
Chương 2.
QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG LIÊN DOANH Ở
VIỆT NAM
19

2.1. Mô hình ngân hàng liên doanh theo pháp luật Việt Nam 19
2.2. Một số nội dung cơ bản về Quy chế tổ chức và hoạt động
của Ngân hàng liên doanh ở Việt Nam
24
Chương 3.
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG LIÊN
DOANH Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆN QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ NGÂN HÀNG LIÊN DOANH
58
3.1. Thực tiễn hoạt động của ngân hàng liên doanh ở Việt Nam


58
3.2. Kinh nghiệm hoạt động của Ngân hàng liên doanh tại một
số nước
78
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các luật liên quan đến
hoạt động của ngân hàng liên doanh
81
KẾT LUẬN
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
96
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu và đang diễn ra ngày
càng sâu rộng về nội dung và qui mô trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được bắt đầu từ năm 1986, khi Đại hội Đảng
lần thứ VI đã mở đường cho công cuộc đổi mới một cách toàn diện theo hướng
chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định

hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN năm 1995,
tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996, gia nhập APEC
năm 1998, ký Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2000 và ký kết nhiều
hiệp định thương mại, đầu tư khác. Đáng chú ý là từ năm 2007, Việt Nam chính
thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), là mốc
son quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, bắt đầu
quá trình hội nhập sâu rộng với thị trường quốc tế nói chung và trong lĩnh vực ngân
hàng nói riêng. Thực tế cho thấy, ngành Ngân hàng đã có nhiều nỗ lực cải cách
đáng kể theo hướng thị trường và mở cửa khu vực dịch vụ tài chính – ngân hàng
trước yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc khuyến khích và thu
hút đầu tư nước ngoài, NHNN đã cấp giấy phép hoạt động cho các tổ chức tài chính
và ngân hàng của nhiều nước vào Việt Nam để hoạt động. Với việc mở cửa thị
trường tài chính, các ngân hàng trong nước được tiếp cận với thị trường tài chính
quốc tế, có điều kiện học hỏi, nâng cao trình độ quản trị, điều hành, phát triển các
sản phẩm dịch vụ mới và kỹ năng kinh doanh, nhất là về các hoạt động nghiệp vụ
mà các ngân hàng trong nước chưa có hoặc ít có kinh nghiệm như kinh doanh ngoại
hối, thanh toán quốc tế, tín dụng thương mại quốc tế, dịch vụ ngân hàng điện tử,
quản lý quỹ, môi giới tiền tệ, quản lý rủi ro. Bên cạnh đó, khi các ngân hàng nước
ngoài đầu tư mua cổ phần của ngân hàng trong nước, các ngân hàng trong nước sẽ
có điều kiện thuận lợi để tăng vốn, tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm quản lý và công
nghệ hiện đại trong hoạt động ngân hàng với sự tham gia của các đối tác chiến lược
là các ngân hàng có danh tiếng trên thế giới. Ngoài ra, việc mở cửa thị trường dịch
vụ ngân hàng sẽ thúc đẩy NHNN nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành, thực thi
chính sách tiền tệ, chia sẻ thông tin với các ngân hàng trung ương khác.
Dưới tác động của xu hướng “toàn cầu hoá” và nhu cầu phát triển nền kinh tế
trong điều kiện nền kinh tế thị trường, thực hiện nền kinh tế mở cửa tại Việt Nam;
các ngân hàng liên doanh đã từng bước được thiết lập và phát triển. Các ngân hàng
liên doanh với nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại,
đẩy nhanh quá trình mở cửa nền kinh tế. Đồng thời, các ngân hàng liên doanh cũng

tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh. Các ngân hàng thương mại trong nước sẽ
được tiếp cận, học hỏi công nghệ ngân hàng tiên tiến từ đó cải tiến, nâng cao kỹ
thuật nghiệp vụ ngân hàng đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn dịch vụ ngân hàng và
kinh doanh tiền tệ. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
về quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh để có giải pháp hoàn thiện là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu:
Pháp luật về Ngân hàng liên doanh là một đề tài mới và phức tạp ở nước ta,
chưa được các nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu nhiều, mà chủ yếu được
đề cập nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành về kinh tế và được thể hiện trong một
số giáo trình đại học chuyên ngành luật, chuyên ngành kinh tế, các bài viết, sách
tham khảo, một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này, như: 1) "Ngân
hàng liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài" của Đào Minh Phúc, Luận án Tiến
sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2009; 2) "Các giao dịch thương
mại chủ yếu của Ngân hàng thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt
Nam" của Nguyễn Văn Tuyến, Luận án Tiến sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, năm 2004; 3) "Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam" của Ngô Quốc Kỳ, Nxb. Tư pháp, năm
2005; 4) "Địa vị pháp lý của Ngân hàng liên doanh ở Việt Nam" của Nguyễn Thanh
Tú, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2000; 5) "Quy chế
pháp lý của Ngân hàng liên doanh tại Việt Nam" của Nguyễn Thị Hoa, Khóa luận
tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2010
Tuy nhiên, từ trước đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ và có
hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quy chế pháp lý của Ngân hàng liên
doanh ở Việt Nam dưới góc độ là một luận văn thạc sỹ luật học.
3. Mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận này, tôi xin phép nghiên cứu những
quy định cơ bản nhất về quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh với nước ngoài
tại Việt Nam. Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ vai trò của ngân hàng liên
doanh đối với sự phát triển kinh tế, quy định của pháp luật về hoạt động của ngân
hàng liên doanh…; trên cơ sở xem xét hệ thống pháp luật thực định về ngân hàng

liên doanh và thực tiễn hoạt động của nó từ đó chỉ ra các thiếu sót, hạn chế để có thể
khắc phục, đề xuất ý kiến hoàn thiện pháp luật về ngân hàng liên doanh tại Việt
Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khái niệm “liên doanh” hiện nay được hiểu ở hai góc độ: “liên doanh cũ” và
“liên doanh mới”. “Liên doanh cũ” đơn thuần là sự liên doanh giữa một (hoặc các
bên) Việt Nam với một (các bên) nước ngoài. “ Liên doanh mới” là sự hợp tác liên
doanh theo cách thức doanh nghiệp liên doanh - doanh nghiệp Việt Nam; doanh
nghiệp liên doanh - doanh nghiệp liên doanh…Đối tượng nghiên cứu của luận văn
là những quy định về ngân hàng liên doanh theo các quy định của Luật Ngân hàng
Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật đầu tư năm 2005 và các văn bản dưới
luật có liên quan.
Với mục đích như đã đặt ra ở trên, phạm vi nghiên cứu của luận văn được
giới hạn là những lý luận khái quát và quy chế pháp lý về ngân hàng liên doanh với
nước ngoài tại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin là
phép biện chứng duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp phân tích và tổng hợp…
Tác giả luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận gắn liền với thực
tiễn, lấy Luật đầu tư năm 2005, Luật doanh nghiệp 2005 và Luật các tổ chức tín
dụng đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010 làm cơ sở pháp lý cơ bản cho việc nghiên
cứu.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành ba chương:
Chương 1. Những vấn đề khái quát về ngân hàng liên doanh
Chương 2. Quy chế pháp lý về ngân hàng liên doanh ở Việt Nam
Chương 3. Thực tiễn hoạt động của ngân hàng liên doanh và một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ngân hàng liên doanh ở Việt Nam.
Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG LIÊN DOANH


Trong chương này, tác giả nghiên cứu 4 mục lớn:
1.1. Quá trình ra đời, phát triển của Ngân hàng liên doanh và mô hình ngân
hàng liên doanh;
1.2. Sơ lược về ngân hàng liên doanh ở một số nước;
1.3. Sự hình thành của Ngân hàng liên doanh và vai trò của nó trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam;
1.4. Khái niệm quy chế pháp lý của Ngân hàng liên doanh.
Qua nghiên cứu, tác giả đưa ra khái niệm quy chế pháp lý của ngân hàng liên
doanh, như sau:
- Ngân hàng liên doanh là TCTD có bản chất pháp lý thuộc loại hình Công ty
TNHH có từ hai thành viên trở lên.
- Quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh gồm các quy tắc xử sự được bảo
đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.Sự ra đời của các ngân hàng liên doanh
mang tính tất yếu khách quan, phù hợp với tình hình lịch sử và điều kiện kinh tế của
các nước đang phát triển. Ngân hàng liên doanh đã đóng góp những nhân tố tích cực
cho sự phát triển kinh tế tại các nước.
Chương 2
QUY CHẾ PHÁP LÝ
CỦA NGÂN HÀNG LIÊN DOANH Ở VIỆT NAM
Trong chương này tác giả nghiên cứu 2 mục lớn:
2.1. Mô hình ngân hàng liên doanh theo pháp luật Việt Nam
Tại mục 2.1.1 tác giả trình bày khái niệm về ngân hàng liên doanh. Ngân
hàng liên doanh tại Việt Nam hiện nay là liên doanh giữa ngân hàng thương mại
quốc doanh Việt Nam và ngân hàng nước ngoài trên cơ sở góp vốn để hình thành
nên một ngân hàng thương mại mới, có tư cách pháp nhân và hạch toán kinh tế độc
lập, hoạt động kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận, góp phần phát triển hệ thống
ngân hàng trong nước, thúc đẩy các quan hệ kinh tế - thương mại phát triển.

Tại mục 2.1.2 tác giả trình bày tính chất pháp lý đặc thù của ngân hàng liên
doanh tại Việt Nam.
Ngân hàng liên doanh là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực đặc thù: kinh doanh tiền tệ. Do vậy, ngân hàng liên doanh
ở Việt Nam chịu sự điều chỉnh đồng thời của hai hệ thống văn bản pháp luật: Các
văn bản pháp luật về đầu tư và các văn bản pháp luật về ngân hàng.
Trước hết, ngân hàng liên doanh là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
thành lập và hoạt động trên cơ sở Luật đầu tư. Vì vậy, ngân hàng liên doanh chịu sự
điều chỉnh của các văn bản pháp luật về đầu tư, đặc biệt là các văn bản pháp luật về
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
khác. Tuy vậy, xuất phát từ tính đặc thù trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân
hàng liên doanh có sự khác biệt với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
khác. Hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng đòi hỏi phải có sự quản lý
trực tiếp và tập trung của một cơ quan Nhà nước. Tại Việt Nam, tất cả các tổ chức
tín dụng trong đó có ngân hàng liên doanh chịu sự quản lý trực tiếp của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam.
Như vậy, ngân hàng liên doanh là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
nhưng không chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư - cơ quan quản lý
chuyên trách về hoạt động đầu tư tại Việt Nam mà ngân hàng liên doanh chịu sự
quản lý trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Tại mục 2.1.3. tác giả đã phân biệt ngân hàng liên doanh với một số loại hình
doanh nghiệp khác như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài.
2.2. Một số nội dung cơ bản về Quy chế tổ chức và hoạt động của Ngân hàng
liên doanh ở Việt Nam
Trong mục này tác giả trình bày 2 mục nhỏ:
2.2.1. Quy chế pháp lý về thành lập, quản trị điều hành, kiểm soát ngân hàng
liên doanh;
2.2.2. Quy chế pháp lý về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng liên doanh
Quy chế tổ chức và hoạt động của Ngân hàng liên doanh ở Việt Nam được

quy định rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Luật doanh nghiệp năm
2005, Luật đầu tư năm 2005; đặc biệt được quy định chi tiết cụ thể trong Luật các
TCTD năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2010, Nghị định số 22/2006/NĐ-CP
Hệ thống pháp luật Việt Nam đã điều chỉnh tương đối toàn diện về tổ chức
và hoạt động của ngân hàng liên doanh. Tuy nhiên, trong tình trạng chung của pháp
luật về ngân hàng, các quy định về tổ chức và hoạt động của ngân hàng liên doanh
còn rất tản mạn, có nhiều ở hình thức văn bản và do nhiều cơ quan ban hành. Do đó
cần nghiên cứu để có giải pháp khắc phục hướng tới mục tiêu là thống nhất, công
khai và minh bạch. Tổ chức và hoạt động của ngân hàng liên doanh được điều chỉnh
bởi các quy phạm pháp luật có ở nhiều văn bản, do đó, việc nghiên cứu, đánh giá và
đề xuất giải pháp hoàn thiện phải mang tính đồng bộ.
Chương 3
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG LIÊN DOANH
Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ NGÂN HÀNG LIÊN DOANH

3.1. Thực tiễn hoạt động của ngân hàng liên doanh ở Việt Nam
3.1.1. Thực tiễn hoạt động chung của ngân hàng liên doanh
Ngân hàng liên doanh có khá nhiều ưu thế so với chi nhánh ngân hàng nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam và ngân hàng thương mại trong nước nên ngay từ khi
mới được thành lập và đi vào hoạt động ngân hàng liên doanh đã thu được những
kết quả rất quan trọng. Trong hoạt động huy động vốn, các ngân hàng liên doanh đã
huy động được một số lượng tiền gửi đáng kể, so với các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, hoạt động tín dụng của các ngân hàng liên doanh rõ ràng được triển khai
nhanh hơn và mức độ khá ổn định, trong khi tỷ lệ vốn vay trên tổng nguồn vốn của
các ngân hàng cổ phần Việt Nam hầu như không thay đổi với các ngân hàng liên
doanh.
Các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam góp phần quan trọng
trong việc thúc đẩy thị trường dịch vụ ngân hàng phát triển, đưa công nghệ ngân
hàng mới vào Việt Nam và bảo đảm sự an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng,

đồng thời hỗ trợ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
3.1.2. Thực tiễn hoạt động của một số ngân hàng liên doanh
Trong mục này tác giả đi sâu tìm hiểu về thực tiễn hoạt động của một số
ngân hàng liên doanh tại Việt Nam:
- Ngân hàng Việt - Nga (VRB): Được thành lập vào cuối năm 2006, VRB là
ngân hàng liên doanh giữa hai ngân hàng hàng đầu của hai nước là Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) với 51% vốn điều lệ và Ngân hàng ngoại thương
Nga (VTB) với 49% vốn điều lệ. Được sự quan tâm của Chính phủ, Ngân hàng
trung ương hai nước và hai ngân hàng mẹ, VRB đã đạt được kết quả đáng khích lệ,
thể hiện qua sự phát triển ổn định, hiệu quả, kinh doanh có lãi liên tục trong gần 6
năm hoạt động.
Vốn điều lệ của VRB đã tăng từ 10 triệu USD khi mới thành lập lên 30 triệu
USD năm 2007, 62,5 triệu USD năm 2008, 168,5 triệu USD (tương đương 3 nghìn
tỷ đồng Việt Nam) vào đầu năm 2011, với tỷ lệ góp vốn ngang nhau giữa BIDV và
BankVTB.
Tổng tài sản của ngân hàng tại thời điểm 31/12/2010 đạt trên 590 triệu USD,
tăng 54% so với cùng kỳ năm 2009. Nguồn vốn luôn tăng trưởng với tốc độ cao, tỷ
lệ tăng trưởng trung bình trên 20%/năm. Đến 31/12/2010 tổng nguồn vốn huy động
của VRB đạt xấp xỉ 480 triệu USD. Dư nợ tín dụng tăng trưởng hợp lý, đạt trên 330
triệu USD vào cuối năm 2010, tăng 27% so với năm 2009. Cơ cấu và chất lượng dư
nợ phù hợp với chính sách và các qui định của NHNN.
VRB là một trong những đơn vị đi đầu về phát triển mạng lưới trong khối
các ngân hàng liên doanh tại Việt Nam. Hiện nay VRB có 6 Chi nhánh, Sở giao
dịch ở các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng,
Khánh Hòa, Vũng Tàu, Tp. Hồ Chí Minh, có Văn phòng đại diện và Ngân hàng
100% thuộc sở hữu vốn của VRB tại Liên bang Nga.
- Ngân hàng Inđôvina (IVB): Đây là Ngân hàng liên doanh đầu tiên của Việt
Nam được thành lập ngày 21 tháng 11 năm 1990 theo Giấy phép của Ủy Ban Nhà
Nước về hợp tác và đầu tư số 135/GP sau được thay bằng Giấy phép số 08/NH-GP
do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 29 tháng 10 năm 1992 với số vốn điều

lệ hiện nay là 100 triệu USD.
Các bên liên doanh là Ngân hàng Công thương Việt Nam (ICBV) và Ngân
hàng Cathay United (CUB) của Đài Loan. IVB với Hội Sở chính tại Thành phố Hồ
Chí Minh và Chi nhánh Tại Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Dương và
Đồng Nai đã và đang trở thành một trong những đầu mối tài chính đứng đầu của các
công ty nước ngoài đầu tư tại Việt Nam. IVB tham gia tích cực vào quá trình phát
triển kinh tế của Việt Nam bằng việc cung ứng các dịch vụ ngân hàng đa dạng với
chất lượng tốt cho tất cả các thành phần kinh tế trong cả nước. Sau nhiều năm hoạt
động, IVB đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, thu nhập tăng nhanh so với chi
phí, lợi nhuận tăng tạo điều kiện tăng các quỹ dự trữ pháp định, tăng nguồn bổ sinh
cho vốn tự có của ngân hàng.
3.2. Kinh nghiệm hoạt động của Ngân hàng liên doanh tại một số nước
Trong mục này tác giả đã nêu kinh nghiệm hoạt động của ngân hàng liên
doanh tại hai nước Trung Quốc và Inđônêxia. Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật
đối với các ngân hàng liên doanh ở một số nước như Inđônêxia, Trung Quốc có một
số vấn đề chủ yếu như: Cả hai nước Inđônêxia và Trung Quốc đều thấy rõ những
hạn chế của ngân hàng liên doanh nên đã có một số giải pháp cơ bản giống nhau.
Để giảm đi sự phức tạp trong các ngân hàng liên doanh và nhằm tạo ra những kênh
an toàn trong việc thu hút vốn từ nước ngoài, hầu hết các ngân hàng liên doanh tại
Inđônêxia và Trung Quốc đều là ngân hàng liên doanh giữa hai bên: một bên là các
ngân hàng thương mại trong nước có tiềm lực kinh tế với một bên là các ngân hàng
thương mại có tầm cỡ trên thế giới. Inđônêxia và Trung Quốc hướng hoạt động của
các ngân hàng liên doanh vào các lĩnh vực mà nền kinh tế quốc dân đang cần, trong
khi các ngân hàng thương mại trong nước chưa đủ sức thực hiện đặc biệt là các hoạt
động mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho nền kinh tế như hoạt động bằng ngoại tệ…
Tuy nhiên, chủ trương cho phép thành lập các ngân hàng liên doanh, biện
pháp quản lý và sự điều chỉnh các quy định trong quá trình quản lý ở hai nước khác
nhau: Inđônêxia với mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, chiến lược phát triển kinh tế
mở cửa hướng ngoại ngay sau khi giành độc lập nên đã khuyến khích tối đa sự có
mặt của các ngân hàng liên doanh. Vào giai đoạn sau, khi các ngân hàng thương

mại trong nước dần phát triển đáp ứng được các nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thì
nước này thu hẹp dần sự có mặt và hoạt động của các ngân hàng liên doanh. Khác
với Inđônêxia, Trung Quốc luôn đề cao vai trò ngân hàng thương mại nội địa nên
việc cho phép thành lập và quản lý chúng có nhiều vấn đề chặt chẽ hơn Inđônêxia.
Trung Quốc mở dần mạng lưới hoạt động của các ngân hàng liên doanh tương ứng
với sự lớn mạnh của các ngân hàng thương mại trong nước nên nền kinh tế không bị
xáo trộn, các luồng vốn đầu tư được hấp thụ dần dần.
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các luật liên quan đến hoạt động của
ngân hàng liên doanh
3.3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân hàng liên
doanh ở Việt Nam
Các quan hệ pháp luật tồn tại khách quan và luôn luôn có sự vận động và
chuyển dịch theo sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội. Vì vậy, việc hoàn thiện
pháp luật theo sự chuyển dịch của các quan hệ xã hội là một quá trình liên tục, là
một hiện tượng tất yếu.
Pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng bên cạnh những thành thành
tựu thì vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như: vẫn còn thiếu tính hệ thống, quy định ở
nhiều luật, văn bản khác nhau nên nhiều chỗ còn chồng chéo, mâu thuẫn không đảm
bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng; một số nội dung hoạt động của ngân hàng
liên doanh chưa được quy định cụ thể, rõ ràng, chưa phù hợp với các cam kết hội
nhập, thông lệ quốc tế.
Ngoài ra, hội nhập quốc tế về ngân hàng đang là xu thế khách quan do quá
trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và sự phát triển của hoạt động ngân hàng.
Muốn hội nhập quốc tế thành công cần phải xây dựng một môi trường pháp lý ngân
hàng trong nước hấp dẫn với các cơ chế, chính sách nhất quán có quy định quyền sở
hữu rõ ràng, công tác thanh tra giám sát an toàn với mức độ độc lập cao, chế độ báo
cáo và kiểm toán minh bạch, tạo lập một sân chơi bình đẳng và hỗ trợ cho các hoạt
động kinh doanh để tất cả các ngân hàng (trong nước và nước ngoài) phát triển.

3.3.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng

liên doanh ở Việt Nam

Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X đã xác định: “Đẩy mạnh việc
xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật phù hợp với kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành phù hợp với yêu
cầu thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế, quốc tế nhất là
các Luật Thương mại, Luật phá sản doanh nghiệp, Bộ luật Dân sự, Luật các Tổ
chức tín dụng, Luật ngân sách Nhà nước, Luật Đất đai…”. Nền kinh tế Việt Nam
đang từng ngày, từng giờ đổi mới với nhịp độ tăng trưởng ổn định. Vì vậy, để đáp
ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế, các quy định của pháp luật về tài chính -
ngân hàng, cụ thể là Luật Ngân hàng Nhà nước mới và Luật các TCTD mới cần
được điều chỉnh theo hướng hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ
hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ - dịch vụ ngân
hàng; tạo lập môi trường pháp lý minh bạch và công bằng trong lĩnh vực tiền tệ
ngân hàng nhằm thúc đẩy cạnh tranh và bảo đảm an toàn hệ thống, điều chỉnh mọi
hoạt động tiền tệ, ngân hàng không phân biệt đối tượng tiến hành hoạt động ngân
hàng .
3.3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các luật liên quan đến hoạt động
của ngân hàng liên doanh.
3.3.3.1. Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm 2005
Một trong những vấn đề của Bộ luật Dân sự năm 2005 liên quan đến hoạt
động ngân hàng là quy định về lãi suất. Bộ luật Dân sự quy định mức tối đa đối với
lãi suất vay: “Lãi suất cho vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá
150 % của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay
tương ứng” (khoản 1 Điều 476). Nói cách khác, thoả thuận về lãi suất cho vay cao
hơn 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định là trái pháp luật. Quy
định này còn chưa phù hợp với nhiều quy định pháp luật khác và hạn chế sự chủ
động của hoạt động ngân hàng. Thực tế, mức lãi suất cho vay của các tổ chức tín
dụng được xác định trên cơ sở lãi suất tiền gửi, chi phí huy động vốn, thời hạn vay,
uy tín của khách hàng… và chịu tác động của hoạt động cạnh tranh trên thị trường

tín dụng ngân hàng, vì vậy các tổ chức tín dụng xác định mức lãi suất cho vay khác
nhau đối với từng loại khách hàng khác nhau. Xuất phát từ nhu cầu của thị trường,
việc khống chế mức lãi suất trần cho vay là không cần thiết.
3.3.3.2. Sửa đổi, bổ sung Luật các TCTD
- Thứ nhất, cần tăng vốn điều lệ đối với các ngân hàng liên doanh: Vốn điều
lệ của ngân hàng liên doanh hiện nay phải tăng lên nhiều nhằm tăng cường khả
năng hoạt động, tăng cường các hoạt động vay vốn từ nước ngoài để đầu tư trong
nước, tăng cường mức độ an toàn trong hoạt động, mở rộng phạm vi và địa bàn hoạt
động.
- Thứ hai, về hoạt động huy động vốn: Cần ban hành, quy định các điều kiện
cho phép các ngân hàng liên doanh được huy động tiền gửi tiết kiệm với nhiều hình
thức, thể loại, kỳ hạn và lãi suất khác nhau, theo đó tạo lập một sân chơi bình đẳng
giữa các khối ngân hàng trong nước và ngoài nước, trong đó có ngân hàng liên
doanh. Đây cũng là quy định phù hợp với những thoả thuận trong Hiệp định thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ và những cam kết của Việt Nam khi tham gia WTO theo
xu hướng tự do hoá tài chính.
- Thứ ba, về hoạt động cấp tín dụng: Cho phép các ngân hàng liên doanh tự
quy định mức lãi suất của mình được căn cứ vào lãi suất trên thị trường và phù hợp
đối với khách hàng Việt Nam. Cần có chính sách và quy định cho phép, khuyến
khích các ngân hàng liên doanh mở rộng các hình thức cho vay, đầu tư tín dụng đặc
biệt là các hình thức mới, mở rộng đối tượng cho vay như các tổ chức tài chính
nước ngoài hoạt động ở nước ngoài.
3.3.3.3. Sửa đổi, bổ sung, quy định và cụ thể hoá Luật đầu tư năm 2005
Cần ban hành thêm một số văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện Luật đầu
tư 2005 và bổ sung thêm một số điều khoản về nhà đầu tư nước ngoài.
- Thứ nhất, ban hành quy định cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam được phép ban hành trái phiếu, cổ phiếu…Cụ thể, cần có
thêm quy định về hình thức chuyển đổi doanh nghiệp (từ ngân hàng liên doanh với
tư cách là công ty trách nhiệm hữu hạn sang ngân hàng thương mại cổ phần với tư
cách là công ty cổ phần). Cải tiến thủ tục mua bán cổ phần của các nhà đầu tư nước

ngoài đối với cổ phiếu ngân hàng.
- Thứ hai, sửa đổi quy định về cơ chế nhập cư và hành nghề lao động của
người nước ngoài ở Việt Nam. Cần đơn giản hoá các thủ tục về xin cấp giấy phép
lao động, hợp pháp hoá lãnh sự, công chứng và xác minh lý lịch tư pháp của người
lao động nước ngoài, thời hạn lao động tối đa của người lao động nước ngoài ở Việt
Nam.
3.3.3.4. Cụ thể hoá các quy chế hoạt động của ngân hàng liên doanh theo
hướng phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế
- Một là, sửa đổi, bổ sung, xây dựng các văn bản pháp luật mới cho phù hợp
với các cam kết quốc tế.
- Hai là, tham gia một số các điều ước quốc tế về thương mại theo nghĩa
rộng, đặc biệt là thương mại dịch vụ - phần về lĩnh vực ngân hàng tài chính. Việc
tham gia một số điều ước quốc tế về thương mại, dịch vụ sẽ tạo tiền đề, điều kiện
thuận lợi để Việt Nam thực hiện “ luật chơi chung” của các tổ chức tín dụng trong
thương mại quốc tế
- Ba là, nghiên cứu khả năng áp dụng án lệ; tập quán quốc tế thông qua việc
thừa nhận, công nhận về mặt pháp lý các quy tắc, tập quán quốc tế trong hoạt động
ngân hàng như UCP500 về giao dịch tín dụng chứng từ, Quy tắc UNCITRAL…
- Bốn là, xây dựng và hoàn thiện chế định công khai văn bản pháp luật ngân
hàng phù hợp với các yêu cầu về tính minh bạch, công khai. Theo cam kết của Việt
Nam, chỉ các văn bản pháp luật được công khai, minh bạch, rộng rãi và dễ tiếp cận
đối với các cơ quan Nhà nước và các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động
thương mại mới có giá trị bắt buộc thi hành.

KẾT LUẬN

Ngân hàng liên doanh nói riêng và ngân hàng nước ngoài nói chung đang có
một môi trường hoạt động tương đối thuận lợi, đầy triển vọng, sẽ đầu tư và tham gia
nhiều hơn vào thị trường tài chính Việt Nam thông qua các sản phẩm mới, cung cấp
dịch vụ ngân hàng hiện đại với những thông lệ và chuẩn mực quốc tế, góp phần xây

dựng một nền tài chính - ngân hàng phát triển toàn diện, vững mạnh tại Việt Nam.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của ngân hàng liên doanh còn gặp nhiều khó
khăn, vướng mắc. Một trong những nguyên nhân quan trọng là quy định của pháp
luật về hoạt động của ngân hàng liên doanh còn nhiều hạn chế, bất cập.
Quy chế pháp lý về ngân hàng liên doanh là một bộ phận cấu thành của pháp
luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các TCTD.
Cần hoàn thiện Quy chế pháp lý về ngân hàng liên doanh để phát huy vai trò
của loại hình ngân hàng này trong việc góp phần ổn định và phát triển thị trường tài
chính - tín dụng trong mối quan hệ chung với hệ thống pháp luật.
Quá trình hoàn thiện quy chế pháp lý về ngân hàng liên doanh phải thể hiện
chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế và
phù hợp với thực tế Việt Nam và phải có lộ trình thích hợp.

×