Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Một số vấn đề của pháp luật về chào bán chứng khoán ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.28 KB, 73 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Chứng khoán và thị trường chứng khoán là một bộ phận gắn liền với nền
kinh tế thị trường. Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời vào hoạt động từ
tháng 7 năm 2000 là sự kiện đánh dấu bước phát triển trong quá trình đổi mới
nền kinh tế và hội nhập quốc tế của kinh tế Việt Nam. Tuy đã chính thức vận
hành được hơn 6 năm nhưng nhìn chung thị trường chứng khoán vẫn được xem
là lĩnh vực mới mẻ ở nước ta.
Trong thời gian qua, Nhà Nước đã tiến hành nhiều biện pháp tích cực
nhằm phát triển thị trường chứng khoán trong đó có việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật về chứng khoán, đặc biệt là xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chào
bán chứng khoán. Bộ phận pháp luật về chào bán chứng khoán được quy định ở
nhiều văn bản pháp luật khác nhau dẫn đến việc hiểu và vận dụng đúng đắn các
quy định này là rất phức tạp. Luật Chứng Khoán 2006 là văn bản có hiệu lực
pháp lý cao nhất về vấn đề này. Vì vậy, nghiên cứu các quy định của pháp luật
hiện hành về chào bán chứng khoán trong bối cảnh Việt Nam vừa trở thành
thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO là một vấn đề cấp
thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Khoá luận với đề tài “Một số vấn
đề của pháp luật về chào bán chứng khoán ở Việt Nam” mong muốn xem xét
thực trạng pháp luật rồi đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán ở Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu pháp luật về chào bán chứng khoán ở Việt Nam hiện nay
không nhằm mục đích nào khác ngoài việc phân tích đánh giá các quy định pháp
luật hiện hành về hoạt động này và thực trạng áp dụng những quy định này. Trên
cơ sở đó, đưa ra những đề xuất, kiến nghị và giải pháp cụ thể góp phần tiếp tục
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chào bán chứng khoán.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu sâu những quy định pháp luật cụ thể liên
quan trực tiếp đến chào bán chứng khoán trong đó có chào bán chứng khoán của


doanh nghiệp và chào bán chứng khoán của Chính Phủ và chính quyền địa
phương trong những điều kiện cụ thể của nền kinh tế thị trường Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên nền tảng lý luận là các nguyên tắc và
phương pháp luận chủ nghĩa Mác và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng những
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới. Luận văn có kết
hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phương pháp phân tích, đối chiếu so sánh, tổng hợp, khái quát hoá để giải quyết
nội dung khoa học của đề tài.
5. Bố cục của luận văn
Luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, phạm vi nghiên cứu.
Luận văn bao gồm các phần sau:
Chương I: Những vấn đề cơ bản của pháp luật về chào bán chứng khoán.
Chương II: Thực trạng pháp luật Việt Nam về chào bán chứng khoán.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam về chào bán chứng khoán
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT CHÀO BÁN
CHỨNG KHOÁN
1. Khái niệm chứng khoán
1.1. Định nghĩa chứng khoán
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với chức năng huy động và phân
bổ nguồn vốn trung và dài hạn, thị trường chứng khoán sẽ là công cụ quan trọng
giúp các doanh nghiệp thu hút và tạo lập vốn phát triển thông qua việc chào bán
chứng khoán và tham gia hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Theo quan điểm truyền thống, chứng khoán là phương tiện xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với vốn của tổ
chức phát hành. Như vậy nói đến chứng khoán là nói đến các quyền tài sản. Đó
có thể là quyền của chủ nợ đối với người sở hữu chứng khoán, cũng có thể là
quyền của người mua chứng khoán đối với phần vốn của công ty. Về bản chất

nó chính là sự thể hiện quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và vốn bằng tiền trong
hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong các hoạt động kinh tế khác.
Ở Việt Nam, khái niệm chứng khoán được quy định tại Luật Chứng
Khoán 2006- điều 6. Theo đó, “chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và
lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản và phần vốn của tổ chức phát
hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc
dữ liệu điện tử bao gồm các loại sau đây
a)Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b)Quyền mua cổ phần,chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp
đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán”
1.2. Đặc điểm của chứng khoán
Chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt, vì vậy nó có nhiều điểm khác
biệt so với các loại hàng hoá khác:
Thứ nhất, chứng khoán có tính sinh lời. Điều đó có nghĩa là nó đem lại
cho người sở hữu một khoản thu nhập trong một thời gian nhất định. Thu nhập
này được đảm bảo bằng lợi tức được phân chia hàng năm hoặc việc tăng giá của
chứng khoán trên thị trường. Tính sinh lời tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của
chứng khoán, giúp các nhà đầu tư có khả năng lựa chọn các hình thức đầu tư
vốn khác, đồng thời cũng là động lực để nhà đầu tư mua chứng khoán.
Thứ hai, chứng khoán có tính thanh khoản cao. Đặc điểm này thể hiện ở
khả năng nhanh chóng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại.
Tính thanh khoản của chứng khoán phụ thuộc vào từng loại chứng khoán, uy tín
của chủ thể phát hành và biến động của thị trường. So với các loại tài sản khác,
chứng khoán có tính thanh khoản rất cao. Đây cũng chính là lợi thế của chứng
khoán. Nó tạo thuận lợi cho người sở hữu chứng khoán, khi không muốn nắm
giữ họ có thể bán để thu hồi tiền mặt.
Thứ ba, tính rủi ro của chứng khoán. Chứng khoán là một loại tài sản tài
chính mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro. Có nghĩa là nhà đầu tư có
thể không được hoàn lại đủ số tiền ban đầu đã bỏ ra đầu tư vào chứng khoán.
Trong đầu tư chứng khoán, rủi ro được hiểu là sự sai biệt giữa lợi ích thực tế so

với mức sinh lời kỳ vọng, bao gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro không hệ thống.
Mức độ rủi ro phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tình hình kinh doanh của doanh
nghiệp, biến động của nền kinh tế, thậm chí là biến động chính trị xã hội. Các
nhà đầu tư thường quan tâm tới việc xem xét đánh giá rủi ro liên quan trên cơ sở
đó đề ra các quyết định trong việc lựa chọn nắm giữ hay bán chứng khoán.
Thứ tư, chứng khoán có tính tư bản giả, đó là tính không đồng nhất giữa
thị giá và mệnh giá của chứng khoán. Nghĩa là sau khi được chào bán tại thị
trường sơ cấp, giá trị của chứng khoán thay đổi so với mệnh giá ban đầu và sau
đó do được giao dịch trên thị trường thứ cấp thị giá của nó sẽ phụ thuộc vào tình
hình của thị trường. Tuỳ thuộc vào cung cầu của thị trường mà thị giá có thể cao
hơn hoặc thấp hơn mệnh giá. Tuy nhiên hiện nay phần lớn các chứng khoán đều
có thị giá cao hơn rất nhiều so với mệnh giá, thậm chí gấp hàng trăm lần.
Từ những đặc điểm trên, có thể thấy chứng khoán là một loại hàng hoá
khác hẳn với các loại thông thường khác. Hiểu rõ những đặc điểm của chứng
khoán có thể dễ dàng giúp chúng ta tìm hiểu những lĩnh vực liên quan đến
chứng khoán nói chung và chào bán chứng khoán nói riêng.
1.3. Phân loại chứng khoán
Giống như các loại hàng hoá khác, chứng khoán rất đa dạng, phong phú
về chủng loại và hình thức. Để phân loại chứng khoán người ta thường dựa vào
một số tiêu chí khác nhau như:
Căn cứ vào chủ thể phát hành, chứng khoán gồm hai loại: chứng khoán
của doanh nghiệp và chứng khoán của Chính phủ. Việc phân loại này là nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư lựa chọn loại chứng khoán cho phù hợp
với yêu cầu của mình.
Căn cứ vào bản chất, chứng khoán gồm hai loại: chứng khoán vốn và
chứng khoán nợ. Chứng khoán vốn là loại chứng khoán xác nhận sự góp vốn và
quyền liên quan của người sở hữu đối với đối tượng phát hành ra nó. Chứng
khoán nợ là loại chứng khoán theo đó chủ thể phát hành cam kết sẽ trả lại cả gốc
lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Mục đích của việc phân loại này là xác định
rõ quyền tài sản của chủ sở hữu chứng khoán đối với tổ chức phát hành.

Căn cứ vào mối quan hệ giữa chủ thể phát hành và chủ sở hữu chứng
khoán có: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và một số chứng khoán phái
sinh như chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai.
Đây là cách phân loại phổ biến và thông dụng hiện nay vì nó thể hiện được đặc
trưng của chứng khoán theo tiêu chí phân loại nói trên.
- Cổ phiếu: Đây là loại chứng khoán rất quan trọng cho việc tạo lập cũng
như đi vào hoạt động của thị trường chứng khoán. Có nhiều định nghĩa khác
nhau về cổ phiếu. Theo quy định của pháp luật hiện hành ở Việt Nam: “cổ phiếu
là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối
với một phần vốn góp cổ phần của tổ chức phát hành” [ 8.1]. Trong thực tế,
thường có nhiều loại cổ phiếu như cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu đãi trong đó
cổ phiếu ưu đãi được chia thành nhiều lại cho nhà đầu tư những khả năng lựa
chọn đồng thời tạo cơ hội cạnh tranh cho tổ chức phát hành.
- Trái phiếu: Đây là chứng khoán nợ do doanh nghiệp hoặc Chính phủ
phát hành xác nhận quyền của chủ sở hữu đối với khoản nợ của chủ thể đó.
Khoản nợ được tổ chức phát hành cam kết trả lại cho chủ sở hữu tại một thời
điểm trong tương lai với một khoản lãi nhất định. Trái phiếu cũng có nhiều loại
như trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa
phương.
Trái phiếu và cổ phiếu là hai loại chứng khoán phổ biến nhất hiện nay.
Mỗi loại có một ưu thế riêng, đem lại cho nhà đầu tư những khả năng lựa chọn
để phù hợp với nhu cầu của mình. Trái phiếu và cổ phiếu khác nhau ở một số
điểm sau đây:
Thứ nhất, về bản chất, nếu như cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn thì
trái phiếu lại là chứng khoán nợ. Cổ phiếu xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp
của người sở hữu đối với phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành còn trái phiếu
xác nhận quyền và lợi ích của chủ sở hữu đối với phần vốn nợ. Như vậy chủ sở
hữu cổ phiếu là cổ đông của tổ chức phát hành còn chủ sở hữu trái phiếu là chủ
nợ của tổ chức đó. Hệ quả là cổ đông có thể tham gia vào việc quản lý điều hành
doanh nghiệp còn chủ nợ thì không có quyền này.

Thứ hai, về tính sinh lời, cổ phiếu có tính sinh lời cao hơn trái phiếu. Điều
này xuất phát từ bản chất của hai loại chứng khoán này. Cổ phiếu là chứng
khoán xác nhận phần vốn cổ phần vì vậy mà khả năng đem lại một khoản thu
nhập phụ thuộc trực tiếp vào tình hình sản xuất kinh doanh của chủ thể phát
hành. Một doanh nghiệp “ăn nên làm ra” “lãi mẹ đẻ lãi con” thì cổ phiếu của
doanh nghiệp đó có giá rất cao, người sở hữu cổ phiếu có thể thu được một
khoản tiền khá lớn. Trái lại khả năng sinh lời của trái phiếu bao giờ cũng ở một
mức nhất định và khoản tiền này thường không đáng kể.
Thứ ba, về tính thanh khoản. Xuất phát từ tính sinh lời, cổ phiếu có tính
sinh lời cao hơn trái phiếu nên nó cũng có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt
nhanh hơn.
Thứ tư, về tính rủi ro. Cổ phiếu có tính rủi ro cao hơn trái phiếu. Chỉ cần
một biến động nhỏ của thị trường cũng có thể khiến giá cổ phiếu giảm mạnh,
thậm chí là vài lần. Trong khi đó, lãi suất của trái phiếu luôn là một tỷ lệ nhất
định so với mệnh giá.
Thứ năm, về tính thời hạn. Nếu cổ phiếu có tính dài hạn thì thời hạn của
trái phiếu là ngắn hơn. Thông thường kỳ hạn của trái phiếu Chính phủ và chính
quyền địa phương là năm năm
- Chứng chỉ quỹ đầu tư: Đây là một loại chứng khoán đặc biệt. Theo quy
định của pháp luật nước ta, đây là loại “chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích
hợp pháp của nhà đầu tư đối với phần vốn góp của quỹ đại chúng”[8.1]. Chứng
chỉ quỹ cũng có một số đặc điểm giống cổ phiếu và trái phiếu, tuy nhiên nó lại
không tham gia vào việc hình thành vốn của doanh nghiệp. Đồng thời chủ sở
hữu chứng chỉ quỹ không được tham gia vào việc quản lý, điều hành quỹ. Pháp
luật của các quốc gia khác nhau có những quy định khác nhau về chứng chỉ quỹ
và công ty quản lý quỹ nên quyền và lợi ích của chủ sở hữu là khác nhau. Tuy
nhiên về bản chất, chứng chỉ quỹ luôn là một loại chứng khoán vốn.
Ngoài ba loại chứng khoán chủ yếu trên còn có các loại chứng khoán phái
sinh. Đây là loại chứng khoán phát sinh từ hoạt động giao dịch chứng khoán và
được chuyển đổi sang chứng khoán thông qua hành vi giao dịch trên thị trường.

Hiện nay có ba loại chứng khoán phái sinh phổ biến là chứng quyền, bảo chứng
phiếu, hợp đồng quyền lựa chọn. Tại Việt Nam, theo Luật Chứng Khoán 2006
có một số loại chứng khoán phái sinh như: chứng quyền, quyền mua cổ phần,
quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai [8.1].
1.4. Vai trò của chứng khoán
Trong điều kiện ngày nay, chứng khoán ngày càng đóng vai trò quan
trọng, cần thiết đối với nền kinh tế nói chung cũng như tổ chức phát hành và nhà
đầu tư nói riêng.
Trước hết, đối với nhà đầu tư. Đây là chủ thể chịu tác động trực tiếp nhất
của chứng khoán. Khi một loại chứng khoán tăng giá họ sẽ là người đầu tiên
được hưởng khoản chênh lệch. Nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán
nhằm thoả mãn nhu cầu về kinh tế hoặc tham gia quản lý điều hành. Như vậy,
chứng khoán chính là công cụ đáp ứng nhu cầu đó. Bằng việc mua, bán, trao
đổi chứng khoán mà đặc biệt là cổ phiếu, nhà đầu tư thu được một khoản lợi
nhuận. Bên cạnh việc thoả mãn nhu cầu lợi nhuận, thông qua chứng khoán, nhà
đầu tư cũng có thể tham gia vào việc quản lý điều hành doanh nghiệp, khi họ sở
hữu một số lượng cổ phiếu phổ thông nhất định. Tuỳ thuộc vào nhu cầu cũng
như ưu thế của từng loại chứng khoán mà những người này có thể đầu tư vào cổ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư.
Đối với tổ chức phát hành. Đây chính là những chủ thể có nhu cầu huy
động vốn. Tổ chức phát hành có thể là các doanh nghiệp bao gồm công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn; các tổ chức tín dụng; công ty nhà nước trong
thời gian chuyển đổi thành công ty cổ phần; Chính phủ; chính quyền địa
phương. Doanh nghiệp có thể chào bán chứng khoán để tạo lập vốn điều lệ hoặc
để tăng vốn điều lệ, đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh. Với Chính phủ và chính quyền địa phương, khi có nhu cầu bù đắp bội chi
ngân sách hoặc phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển, những chủ thể này có thể
phát hành trái phiếu. Đó là trái phiếu Chính phủ và trái phiếu chính quyền địa
phương, tương ứng với từng cấp. Như vậy, chứng khoán là công cụ đắc lực hỗ
trợ cho nguồn vốn của doanh nghiệp và ngân sách Nhà nước.

Đối với nền kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế chuyển đổi, từ
chế độ bao cấp sang kinh tế thị trường, nhu cầu về vốn càng trở nên bức thiết.
Trong khi đó chứng khoán giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc huy động
nguồn vốn trung và dài hạn. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì không
nơi nào có khả năng thu hút vốn nhanh và mạnh như thị trường chứng khoán.
Chính vì vậy chứng khoán tồn tại như một tất yếu khách quan của nền kinh tế thị
trường. Bên cạnh chức năng đó, chứng khoán và thị trường chứng khoán còn tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp cải thiện hệ thống tài chính và quản trị theo
thông lệ quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh. Chứng khoán cũng chính là một
trong những công cụ thực hiện chuyển đổi doanh nghiệp. Bằng việc cho phép
các công ty nhà nước phát hành cổ phiếu để chuyển đổi thành công ty cổ phần.
2. Chào bán chứng khoán
2.1. Khái niệm về chào bán chứng khoán
Như trên đã nói, thị trường chứng khoán là nơi thu hút vốn nhanh và
mạnh nhất. Để huy động nguồn vốn đó trên thị trường này, các doanh nghiệp và
các chủ thể buộc phải chào bán chứng khoán, đưa chứng khoán ra thị trường, đổi
lại họ thu được vốn. Chào bán chứng khoán là giai đoạn đầu, là tiền đề để thực
hiện các hành vi sau này liên quan đến chứng khoán. Như vậy không có chào
bán chứng khoán thì sẽ không có những hoạt động như kinh doanh chứng
khoán, môi giới chứng khoán hay lưu ký chứng khoán.
Chào bán chứng khoán được hiểu là việc đưa chứng khoán vào giao dịch
tại thị trường chứng khoán sơ cấp. Tại đây vốn của nhà đầu tư sẽ được chuyển
giao cho tổ chức chào bán thông qua việc nhà đầu tư mua chứng khoán. Phải nói
rằng chỉ có hoạt động chào bán mới làm tăng hàng hoá cho thị trường chứng
khoán. Hơn thế, thông qua hoạt động chào bán, tổ chức chào bán mới có thể
thành lập, tăng vốn điều lệ phục vụ nhu cầu kinh doanh hoặc bù đắp sự thiếu hụt
tạm thời của ngân sách nhà nước.
Chào bán chứng khoán là tiền đề của các hoạt động khác liên quan đến
chứng khoán. Nếu so sánh chào bán chứng khoán và kinh doanh chứng khoán có
thể thấy một số điểm khác biệt sau. Hoạt động chào bán chứng khoán chỉ diễn ra

trên thị trường sơ cấp trong khi kinh doanh chứng khoán lại chỉ diễn ra trên thị
trường thứ cấp. Nếu như hoạt động kinh doanh chứng khoán có đối tượng là
chứng khoán cùng các dịch vụ khác liên quan đến chứng khoán thì hoạt động
chào bán chứng khoán có đối tượng là chứng khoán. Đây cũng chính là những
đặc điểm đặc thù của chào bán chứng khoán.
Tóm lại chào bán chứng khoán chính là việc tổ chức chào bán có đủ điều
kiện đưa chứng khoán vào thị trường theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định.
Hoạt động này giúp các tổ chức chào bán dễ dàng huy động vốn với chi phí
thấp hơn các hình thức khác.
2.2. Phương thức chào bán chứng khoán
Phương thức chào bán chứng khoán là những cách thức để đưa chứng
khoán từ tổ chức chào bán đến tay nhà đầu tư. Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau
mà có thể có những phương thức chào bán khác nhau.
Xét theo cách thức phân phối chứng khoán, có bốn phương thức chào bán
chứng khoán:
Thứ nhất, phương thức bán trực tiếp. Theo phương thức này, tổ chức chào
bán chứng khoán đến tay nhà đầu tư. Mặc dù thông qua phương thức này người
đầu tư được trực tiếp mua chứng khoán, chi phí trung gian thấp nhưng lại không
xác định được tổng lượng chứng khoán bán ra và vì thế mục tiêu huy động vốn
không đạt được.
Thứ hai, phương thức bán thông qua đại lý. Theo đó, các tổ chức trung
gian- bên nhận đại lý- sẽ ký kết hợp đồng với tổ chức chào bán để bán chứng
khoán của họ trên thị trường sơ cấp. Bên nhận đại lý có thể là các ngân hàng
thương mại, các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm. Các đơn vị này sẽ
được hưởng hoa hồng theo tỷ lệ thoả thuận trên tổng lượng chứng khoán bán
được. Ưu điểm của phương thức này là chứng khoán được bán với số lượng
nhiều hơn. Tuy nhiên tổ chức chào bán lại phải trả một khoản phí trung gian.
Thứ ba, phương thức bán thông qua đấu thầu. Theo đó, có một hoặc một
số nhà thầu được lựa chọn, cam kết sẽ phân phối hết số chứng khoán với điều
kiện nhà thầu được hưởng một tỷ lệ phần trăm nhất định theo kết quả của đợt

chào bán. Với phương thức này, tổ chức chào bán sẽ đạt được mục tiêu huy
động vốn trong một thời gian ngắn nhưng đổi lại, họ phải chịu một khoản phí
trung gian cao. Tuy vậy, phương thức bán thông qua đấu thầu đặc biệt thích hợp
với việc phát hành tín phiếu.
Thứ tư, phương thức bảo lãnh phát hành. Theo phương thức này có một
hoặc một số tổ chức bảo lãnh sẽ đứng ra giúp tổ chức chào bán thực hiện các thủ
tục trước khi chào bán chứng khoán. Sau đó tổ chức bảo lãnh nhận mua số
chứng khoán để bán lại hoặc nhận mua số chứng khoán còn lại sau đợt phát
hành. Hiện nay các ngân hàng đầu tư thường đứng ra bảo lãnh phát hành. Ưu
điểm của bảo lãnh phát hành là tổ chức chào bán đảm bảo huy động được nguồn
vốn theo nhu cầu. Tuy nhiên tổ chức chào bán phải trả cho tổ chức bảo lãnh một
khoản chi phí trung gian.
Xét theo điều kiện được chào bán trên thị trường sơ cấp, có hai phương
thức phát hành:
Thứ nhất, chào bán riêng lẻ. Chào bán riêng lẻ là phương thức chào bán
chứng khoán trong đó chỉ một số lượng nhà đầu tư nhất định được mua với
những điều kiện hạn chế, không tiến hành rộng rãi ra công chúng và tổ chức
chào bán không phải công khai thông tin. Người bán có thể thực hiện các hành
vi mời chào một số nhà đầu tư nhất định để nhằm đáp ứng được tốt nhất nhu
cầu vốn của mình trước khi phát hành chứng khoán. Phương thức chào bán
chứng khoán riêng lẻ thường được áp dụng khi doanh nghiệp cần huy động
nguồn vốn không lớn mà lại không đáp ứng các điều kiện của chào bán chứng
khoán ra công chúng.
Thứ hai, chào bán chứng khoán ra công chúng. Đây là hình thức chào bán
chứng khoán rộng rãi đến đại bộ phận công chúng đầu tư. Theo quy định chung
của các nước trên thế giới việc chào bán chứng khoán ra công chúng phải tuân
thủ một số điều kiện nhất định như điều kiện về mức vốn, nghĩa vụ công bố
thông tin, đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và phải được
sự chấp thuận của cơ quan này. Ưu điểm của phương thức này là huy động được
nguồn vốn lớn. Thêm nữa, do chứng khoán chào bán ra công chúng được niêm

yết tại thị trường tập trung nên có khả năng thanh khoản cao hơn nhiều so với
chứng khoán được chào bán riêng lẻ. Đồng thời phương thức này cũng giúp tổ
chức chào bán quảng bá được tên tuổi, hình ảnh, uy tín trên các phương tiện
truyền thông từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh và cơ hội kinh doanh.
Việc quy định hai phương thức trên là rất phổ biến hiện nay. Mục đích
phân biệt hai hình thức chào bán chứng khoán như trên trước hết là để quản lý
hoạt động này qua đó bảo vệ công chúng đầu tư nhất là những nhà đầu tư nhỏ
không có kiến thức chuyên sâu. Bởi vì để chào bán chứng khoán ra công chúng,
tổ chức chào bán phải là những công ty làm ăn có hiệu quả đáp ứng yêu cầu do
Uỷ ban chứng khoán nhà nước quy định. Mặt khác việc phân biệt như trên còn
nhằm xác định phạm vi thị trường của các loại chứng khoán đồng thời là điều
kiện để xây dựng một thị trường chứng khoán an toàn, công khai và có hiệu quả,
2.3. Vai trò của hoạt động chào bán chứng khoán
So với kênh huy động vốn qua ngân hàng thương mại hay các định chế
cho thuê tài chính, việc huy động vốn qua chào bán chứng khoán đem lại nhiều
lợi ích, thể hiện rõ nét vai trò của hoạt động này.
2.3.1. Đối với thị trường chứng khoán
Chào bán chứng khoán quyết định đến sự tồn tại và phát triển của thị
trường chứng khoán. Hoạt động này cung cấp hàng hoá- chứng khoán vào thị
trường sơ cấp từ đó làm tiền đề cho các hoạt động khác diễn ra trên thị trường
thứ cấp. Như vậy nếu không có thị trường chứng khoán sơ cấp thì cũng sẽ không
có thị trường thứ cấp. Thêm nữa, nếu thị trường sơ cấp không đủ mạnh thì thị
trường thứ cấp cũng sẽ không thể phát triển. Khi đó thị trường chứng khoán sẽ
không thể phát huy vai trò là một kênh chủ yếu huy động và phân bổ nguồn vốn
cho nền kinh tế. Hoạt động chào bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp chính là
việc các chủ thể kinh tế trực tiếp gọi vốn của công chúng để đầu tư và phát triển,
đưa thị trường sơ cấp trở thành công cụ để tự do hoá nền kinh tế. Đồng thời với
việc thu hút vốn từ hoạt động chào bán chứng khoán, thị trường chứng khoán sẽ
góp phần giảm bớt sức ép về cấp tín dụng cho hệ thống ngân hàng.
2.3.2. Đối với chủ thể chào bán

Với Chính phủ, việc chào bán chứng khoán sẽ góp phần thu hút mạnh mẽ
nguồn vốn khổng lồ của toàn nền kinh tế và nguồn vốn từ đầu tư nước ngoài. Từ
đó tạo động lực để giải quyết các vấn đề thiếu hụt ngân sách, thực hiện các dự
án công trình đầu tư về cơ sở hạ tầng góp phần thực hiện công cuộc công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước. Theo quy định của một số quốc gia trong đó có Việt
Nam, Ngân hàng Nhà nước sẽ tạm ứng cho ngân sách trung ương để xử lý thiếu
hụt tạm thời của quỹ ngân sách. Việc Chính Phủ phát hành chứng khoán sẽ phần
nào giảm bớt áp lực cho Ngân hàng Nhà nước. Đồng thời trong bối cảnh mà
việc huy động vốn thông qua các kênh như đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
viện trợ chính thức (ODA) không ổn định, chịu nhiều ảnh hưởng của các cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ diễn ra trong khu vực và trên thế giới thì hoạt
động trên của Chính phủ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Chính phủ có thể
chào bán trái phiếu Kho bạc phục vụ ngân sách Nhà nước hoặc trái phiếu Công
trình trung ương huy động vốn cho các dự án thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân
sách trung ương, trái phiếu đầu tư để huy động vốn đầu tư và trái phiếu ngoại tệ.
Ngày nay, hoạt động chào bán trái phiếu của Chính Phủ diễn ra ngày càng
thường xuyên, trở thành một bộ phận trong kế hoạch tổng thể của chiến lược
huy động vốn quốc gia.
Với doanh nghiệp hoạt động chào bán chứng khoán cũng đóng vai trò
quyết định đến sự thành lập và phát triển của doanh nghiệp. Thứ nhất, chào bán
chứng khoán để hình thành doanh nghiệp mới: chào bán chứng khoán để thành
lập công ty cổ phần và cổ phần hoá công ty Nhà nước. Một công ty cổ phần mới
sẽ được hình thành trên cơ sở chào bán lần đầu cổ phiếu của công ty đồng thời
chào bán cổ phiếu cũng là điều kiện tiên quyết để chuyển một công ty Nhà Nước
thành công ty cổ phần. Thứ hai, chào bán chứng khoán còn là phương thức để
mở rộng quy mô vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên thực tế doanh nghiệp có nhiều hình thức để tăng vốn kinh doanh như:
chuyển lợi nhuận, tích luỹ vào vốn sản xuất, vay vốn các tổ chức tín dụng hoặc
người lao động trong doanh nghiệp. Trước đây doanh nghiệp thường vay ngân
hàng trong một thời gian ngắn và thường bắt buộc phải thế chấp, đồng thời họ

luôn ở trong trạng thái lo lắng về nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng. Sự ra đời của
chứng khoán cho phép doanh nghiệp có thêm khả năng cũng như cơ hội tiếp cận
với một kênh huy động vốn mới linh hoạt và hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp có
thể chào bán cổ phiếu hoặc trái phiếu. Đây là nguồn vốn được đảm bảo và có
khả năng sử dụng lâu dài. Thêm nữa, với việc chào bán chứng khoán, doanh
nghiệp có thể quảng bá hình ảnh, tên tuổi và uy tín của mình trước công chúng,
củng cố các mối quan hệ với khách hàng và nhà cung cấp từ đó tăng khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp tại thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
3. Pháp luật về chào bán chứng khoán
3.1. Khái niệm pháp luật về chào bán chứng khoán
Như chúng ta đã biết, chào bán chứng khoán được coi là khâu đầu tiên,
tạo tiền đề cho sự hình thành cũng như quá trình vận động và phát triển của thị
trường chứng khoán. Hoạt động chào bán chứng khoán có thể huy động được
nguồn vốn rất lớn nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế. Tuy nhiên nếu
không có sự quản lý một cách chặt chẽ, hoạt động này có thể dẫn đến sự khủng
hoảng của kinh tế, gây thiệt hại cho nhà đầu tư, từ đó ảnh hưởng xấu đến nền
kinh tế của đất nước. Ví dụ, trong nhà trình chào bán nhà đầu tư muốn mua
chứng khoán phải đăng ký và đặt cọc tiền mua chứng khoán. Không ít doanh
nghiệp chiếm dụng nguồn vốn này nhằm mục đích riêng, coi khả năng thu lợi từ
các đợt phát hành chứng khoán là công cụ lừa đảo. Chính vì lẽ đó, pháp luật
phải can thiệp để đảm bảo chất lượng đầu vào của hàng hoá được cung ứng trên
thị trường, sự an toàn cho nguồn vốn cũng như tạo ra môi trường giao lưu về
vốn an toàn và có hiệu quả. Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật, tạo ra
khung pháp lý buộc các chủ thể chào bán phải tuân theo, ổn định sự vận hành
đồng bộ của thị trường chứng khoán. Đồng thời pháp luật về chào bán chứng
khoán phải được xây dựng phù hợp với điều kiện kinh tế và hoàn cảnh của đất
nước.
Đối với các quốc gia theo hệ thống luật chung (Common Law) như Anh,
Mỹ, Úc.., luật công ty của các điều chỉnh cả việc chào bán chứng khoán riêng lẻ
và chào bán chứng khoán ra công chúng, còn luật chứng khoán và thị trường

chứng khoán chỉ đề cập đến từng lĩnh vực của thị trường chứng khoán. Đối với
các quốc gia theo hệ thống luật châu Âu lục địa (Civil Law) như Pháp, Đức thì
việc chào bán chứng khoán ra công chúng được quy định tại Luật chứng khoán
và thị trường chứng khoán hoặc có luật chuyên biệt điều chỉnh là luật phát hành
chứng khoán ra công chúng.
Ở Việt Nam tuy thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động nhưng đã
có ba văn bản pháp luật quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Đó là nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 1998, sau đó được thay
thế bằng nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 và mới nhất là
Luật chứng khoán 2006 có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2007. Theo đó,
Luật chỉ có những quy định điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán ra công
chúng. Còn hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ thì tuỳ thuộc vào từng loại
chứng khoán được chào bán sẽ chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật
như Luật doanh nghiệp 2005; Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11
năm 2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần; Nghị định
52/2006/NĐ-CP ngày 19 thánh 5 năm 2006 về phát hành trái phiếu doanh
nghiệp, quyết định 02/2004/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế phát hành
giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước... Hoạt động
chào bán chứng khoán của Chính phủ và chính quyền địa phương chịu sự điều
chỉnh của nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về việc phát
hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu được Chính Phủ bảo lãnh và trái phiếu
chính quyền địa phương. So với nhiều nước khác trên thế giới, pháp luật về
chứng khoán và thị trường chứng khoán ở Việt Nam trong đó có chào bán chứng
khoán ra đời rất muộn. Điều này là hoàn toàn có thể lý giải được do thị trường
chứng khoán Việt Nam mới phát triển, thậm chí có những hoạt động liên quan
đến chứng khoán mới ở giai đoạn sơ khai.
Như vậy, pháp luật chào bán chứng khoán là tổng thể các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các hoạt động bán,
mời chào và phát hành cũng như phân phối chứng khoán.
3.2. Nội dung pháp luật về chào bán chứng khoán

3.2.1. Pháp luật về chào bán chứng khoán của doanh nghiệp
a. Pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng.
Hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng thường được sử dụng để
huy động nguồn vốn lớn. Ở nước ta, cùng với sự lớn mạnh của thị trường chứng
khoán thì chào bán chứng khoán ra công chúng đang ngày càng trở thành một
phương thức chào bán phổ biến. Vì những lý do như trên mà chào bán chứng
khoán ra công chúng thường được quy định tập trung trong một văn bản pháp
luật. Trước đây là Nghị định 48/1998/ NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 1998, Nghị
định 144/2004/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 và mới nhất là Luật chứng
khoán 2006. Theo đó tại điều quy định :
“Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán theo
một trong các phương thức sau đây :
- Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet;
- Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà
đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp;
- Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định”
So với nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 thì cách
giải thích về chào bán chứng khoán ra công chúng của Luật chứng khoán 2006
rộng hơn. Thứ nhất là Luật quy định ba cách thức chào bán thay vì chỉ một như
qui định trước đây của Nghị định. Thứ hai, Luật không bắt buộc chào bán chứng
khoán ra công chúng phải qua trung gian. Và có một điều quan trọng là Luật
thay thuật ngữ “phát hành chứng khoán ra công chúng”- vẫn được sử dụng trong
các văn bản pháp luật trước bằng “ chào bán chứng khoán ra công chúng”.
Đồng thời để bảo vệ công chúng đầu tư qua đó duy trì lòng tin đối với thị
trường chứng khoán, Luật chứng khoán 2006 đã có những quy định nhằm quản
lý chặt chẽ hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng chủ yếu thông qua
việc yêu cầu giám sát tổ chức chào bán thực hiện công bố thông tin ngay từ khi
bắt đầu chào mời công chúng đầu tư mua chứng khoán.
Về điều kiện và đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng, ở các nước
có thị trường chứng khoán phát triển lâu đời như Anh, Mỹ, Nhật, pháp luật về

chứng khoán không quy định các điều kiện bắt buộc phải có để chào bán chứng
khoán ra công chúng mà chỉ quy định những thủ tục khi chào bán. Sở dĩ có điều
này là do các nước này quản lý chứng khoán theo chế độ công bố thông tin. Tức
là tổ chức chào bán công bố thông tin cho nhà đầu tư để họ tự quyết định. Do
đó, sau khi doanh nghiệp chào bán chứng khoán, việc đăng ký để được niêm yết
tại Sở giao dịch chứng khoán mới phải đáp ứng những điều kiện của Sở giao
dịch. Ngược lại, ở Việt Nam, Luật chứng khoán 2006 lại quy định những điều
kiện để được phát hành chứng khoán ra công chúng. Theo đó chủ thể phát hành
phải đáp ứng những điều kiện về tài chính, tình hình kinh doanh.
Về đối tượng chào bán, Nghị định 144/2004/NĐ-CP ngày 28 tháng 11
năm 2003 chỉ điều chỉnh hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng của
công ty cổ phần, không điều chỉnh việc phát hành cổ phiếu của các doanh
nghiệp Nhà nước cổ phần hoá, việc phát hành chứng khoán của các tổ chức tín
dụng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ
phần. Luật chứng khoán 2006 đã khắc phục được hạn chế này. Theo đó Luật
thống nhất điều chỉnh tất cả hoạt động phát hành và chào bán chứng khoán ra
công chúng của doanh nghiệp và quy định giao cho Chính phủ hướng dẫn cụ thể
về điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng đối với doanh nghiệp Nhà
nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần,
doanh nghiệp mới thành lập thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc công nghệ cao; về
chào bán chứng khoán ra nước ngoài và các trường hợp cụ thể khác.
Về công ty đại chúng, theo quy định của Luật chứng khoán 2006, công ty
đại chúng được tổ chức theo hình thức công ty cổ phần và phải tuân thủ những
điều kiện nhất định. Thông thường các công ty đại chúng là những công ty chào
bán chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên, quy định pháp luật cho thấy không
phải trong mọi trường hợp công ty đại chúng đều là tổ chức chào bán chứng
khoán ra công chúng mà có thể là công ty cổ phần có “ ít nhất một trăm nhà
đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ
đã góp từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên” [8.1]. Yêu cầu bắt buộc mà pháp luật
đặt ra với công ty đại chúng là phải có nghĩa vụ công bố thông tin.

Về hồ sơ và thủ tục chào bán, Luật chứng khoán 2006 đã quy định cụ thể
các nội dung của bản cáo bạch. Đồng thời Luật cũng quy định về trình tự thủ tục
chào bán chứng khoán ra công chúng: quy định về phân phối chứng khoán, về
việc đình chỉ chào bán chứng khoán ra công chúng, về thời hạn chào bán chứng
khoán ra công chúng.
Tóm lại, những qui định về chào bán chứng khoán ra công chúng được
quy định khá cụ thể tại Luật chứng khoán 2006, góp phần tích cực vào việc bảo
vệ nhà đầu tư cũng như thị trường,
b. Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ
Cũng giống như nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam chào bán chứng
khoán riêng lẻ không được quy định trong một văn bản pháp luật thống nhất về
chứng khoán và thị trường chứng khoán. Vấn đề này chịu sự điều chỉnh của
nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Nghị định 187/2003/NĐ-CP ngày 16
tháng 11 năm 2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần ,
Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 hoặc Luật Doanh Nghiệp
2005. Cụ thể là:
Luật doanh nghiệp 2005 đã có những quy định về các vấn đề cơ bản như
chủ thể chào bán (phát hành chứng khoán), loại chứng khoán được phát hành
của từng loại chủ thể, hình thức phát hành. Về chủ thể và loại chứng khoán được
phát hành, theo Luật doanh nghiệp 2005, chỉ có công ty cổ phần và công ty trách
nhiệm hữu hạn mới được quyền phát hành chứng khoán. Trong đó, công ty cổ
phần được quyền phát hành cổ phiếu và trái phiếu để huy động vốn còn công ty
trách nhiệm hữu hạn được quyền phát hành trái phiếu. Đồng thời Luật doanh
nghiệp 2005 chỉ quy định về phát hành chứng khoán riêng lẻ, trường hợp doanh
nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng thì phải tuân theo những quy định
về “chào bán chứng khoán ra công chúng” của Luật Chứng khoán 2006 [8.1].
Về phát hành trái phiếu của doanh nghiệp theo Nghị định 52/2006/NĐ-CP
ngày 19 thánh 5 năm 2006. Nghị định đã quy định cụ thể các lại doanh nghiệp
được phép phát hành riêng lẻ trái phiếu; bao gồm: công ty cổ phần, công ty Nhà
Nước trong thời gian chuyển đổi thành công ty cổ phần và công ty trách nhiệm

hữu hạn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nghị định cũng quy định về
nguyên tắc phát hành trái phiếu, điều kiện phát hành trái phiếu, đối tượng được
mua trái phiếu, lãi suất, phạm vi giao dịch, các hình thức thanh toán giữa nhà
đầu tư và tổ chức phát hành, phương thức phát hành, các loại trái phiếu doanh
nghiệp và về công bố thông tin.
Hiện nay cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một xu thế tất yếu tại
các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam. Việc phát hành cổ phiếu để
chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần được điều chỉnh bởi Nghị định
187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004. Nghị định quy định về đối tượng
và điều kiện cổ phần hoá, về hình thức cổ phần hoá, về xử lý tài chính cổ phần
hoá, xác định giá trị khi cổ phần hoá, về việc chào bán cổ phần... Riêng về việc
bán cổ phần Nghị định đã có những quy định cụ thể đối tượng được phép phát
hành cổ phần, đối tượng được mua cổ phần, cơ cấu cổ phần lần đầu, phương
thức tổ chức bán đấu giá cổ phần lần đầu. Theo đó, không phải mọi công ty Nhà
nước đều được phép phát hành cổ phiếu để chuyển thành công ty cổ phần, vẫn
có những công ty Nhà nước thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Về
phương thức chào bán cổ phiếu, công ty Nhà nước có thể lựa chọn hai hình thức:
chào bán riêng lẻ và chào bán ra công chúng. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp chào
bán với khối lượng cổ phần trên 10 tỷ thì bắt buộc phải lựa chọn hình thức chào
bán ra công chúng. Đồng thời Nghị định cũng đã quy định trình tự thủ tục chào
bán cổ phiếu riêng lẻ. Có thể nói, những qui định của Nghị định đã góp phần
tích cực vào việc cổ phần hoá ở nước ta.
3.2.2.Pháp luật về chào bán chứng khoán của Chính phủ và chính quyền
địa phương
Theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước Chính phủ và chính quyền
địa phương được phép phát hành trái phiếu nhằm huy động vốn trong nhân dân,
thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, đầu tư cơ sở hạ tầng của quốc gia và
địa phương. Trong số các loại trái phiếu được phép phát hành đó có trái phiếu
Kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ
và trái phiếu chính quyền địa phương là chứng khoán.

Hiện nạy, hoạt động chào bán các loại chứng khoán này của Chính phủ và
chính quyền địa phương chịu sự điều chỉnh của Nghị định 141/2003/NĐ-CP
ngày 20 tháng 11 năm 2003 về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương. So với Nghị
định 72/1994/NĐ-CP ngày 26/7/1994 của Chính phủ về việc ban hành quy chế
phát hành các loại trái phiếu Chính phủ, Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20
tháng 11 năm 2003 đã có những thay đổi cơ bản: quy định về quyền phát hành
trái phiếu của chính quyền địa phương, đa dạng hoá các loại trái phiếu chính
phủ, bổ sung các phương thức phát hành trái phiếu và xoá bỏ điều kiện phát
hành của một số loại trái phiếu Chính phủ..
3.3. Pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán
Để đảm bảo sự vận hành đồng bộ của thị trường chứng khoán, đảm bảo
cung cấp đầy đủ thông tin cho nhà đầu tư, một bộ phận cần thiết của pháp luật
về chào bán chứng khoán là pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động
chào bán.
Như vậy, pháp luật về quản lý Nhà nước đối với chào bán chứng khoán là
tổng thể các qui phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý Nhà nước về chào bán
chứng khoán.
Đối với chào bán chứng khoán ra công chúng ở nước ta, quản lý Nhà
nước đối với hoạt động này được quy định thống nhất trong Luật chứng khoán
2006. Cơ quan chịu trách nhiệm quản lý là Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Trên
thế giới có hai mô hình quản lý phổ biến đối với việc chào bán chứng khoán ra
công chúng, đó là: quản lý theo chất lượng (trên cơ sở xem xét điều kiện, tiêu
chuẩn của tổ chức phát hành) và quản lý theo chế độ công bố thông tin đầy đủ.
Mô hình quản lý theo công bố thông tin này đòi hỏi các chuẩn mực công bố
thông tin phải đầy đủ, tổ chức phát hành phải ý thức được trách nhiệm công bố
thông tin của mình đồng thời nhà đầu tự phải có trình độ hiểu biết năng lực năng
lực chuyên môn. họ sẽ tự cân nhắc và sẽ tự quyết định đầu tư. Vì vậy mà mô
hình này thường được áp dụng tại các nước phát triển như Mỹ, Nhật... Ở Việt

nam, do hiểu biết của nhiều nhà đầu tư còn hạn chế đồng thời các tổ chức chào
bán chưa thực sự quen với chế độ công bố thông tin, công khai tình hình tài
chính của mình, nên mô hình quản lý đối với hoạt động chào bán chứng khoán
ra công chúng là quản lý theo chất lượng. Theo đó, tổ chức chào bán phải đăng
ký với Uỷ ban chứng khoán và được cơ quan này chấp thuận. Đối với hoạt động
chào bán riêng lẻ, do được quy định ở các văn bản khác nhau nên quản lý nhà
nước đối với hoạt động này sẽ chịu sự điều chỉnh của từng văn bản pháp luật
tương ứng.
Tóm lại, những quy định của pháp luật chào bán chứng khoán là đòi hỏi
chung để bảo vệ nhà đầu tư và sự ổn định của thị trường.Từ đó pháp luật sẽ là
công cụ hữu hiệu hạn chế thiệt hại đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà
đầu nhỏ lẻ, cá thể, mới tham gia thị trường, đồng thời là biện pháp tích cực ngăn
chặn sự khủng hoảng của thị trường, góp phần tạo nên một thị trường chứng
khoán lành mạnh và có hiệu quả.

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN
1. Chủ thể chào bán chứng khoán
1.1. Chính phủ
Chính phủ là chủ thể chào bán chứng khoán đặc biệt. Điều này xuất phát
từ chức năng của Chính phủ. Đó là cơ quan hành pháp, thực hiện hoạt động
quản lý Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị an ninh quốc phòng
văn hoá, giáo dục y tế từ Trung ương đến địa phương. Nhằm bù đắp thiếu hụt
cho ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu cầu của quốc gia, pháp luật qui định
Chính phủ được phép phát hành trái phiếu. Phát hành trái phiếu của Chính phủ
là một hình thức vay vốn trong dân chúng, để cân đối chênh lệch thu chi cho
Ngân sách Nhà nước cũng như để thực hiện các chính sách kinh tế tiền tệ như
chi cho đầu tư phát triển, phát triển kinh tế xã hội, chống lạm phát.
Hiện nay tư cách chủ thể phát hành trái phiếu Chính phủ được quy định

tại Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về việc phát hành
trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính
quyền địa phương.
Tuy nhiên không phải tất cả các loại trái phiếu được quy định trong Nghị
định đều được coi là chứng khoán mà chỉ có trái phiếu kho bạc, trái phiếu công
trình Trung Ương, trái phiếu ngoại tệ và trái phiếu đầu tư là chứng khoán. Đồng
thời theo quy định của pháp luật hiện hành, Chính phủ sẽ giao cho Kho Bạc Nhà
Nước, Bộ Tài chính, các tổ chức tài chính và tổ chức tín dụng Nhà nước phát
hành các loại chứng khoán này.
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, Trái phiếu Chính phủ vẫn là một kênh
huy động vốn quan trong của Nhà Nước, chiếm 90% khối lượng trái phiếu trên
thị trường trái phiếu [7]. Hàng năm, Chính phủ vẫn liên tục phát hành trái phiếu
Chính phủ để đáp ứng nhu cầu đầu tư, duy trì tốc độ phát triển kinh tế.
1.2. Chính quyền địa phương
Với chức năng quản lý Nhà nước giống Chính Phủ thì chính quyền địa
phương cũng có quyền phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Tuy nhiên
một điểm khác cơ bản đó là Chính quyền địa phương chỉ được phát hành trái
phiếu trong phạm vi đơn vị hành chính địa phương mình.
Cơ sở pháp lý về việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương được
cũng được quy định tại Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm
2003. Theo đó, chủ thể phát hành trái phiếu chính quyền địa phương là Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh. Tuy nhiên chủ thể này không trực tiếp phát hành mà uỷ
quyền cho Kho bạc Nhà nước hoặc tổ chức tài chính, tổ chức tài chính trên địa
bàn phát hành. Mục đích của việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương
là nhằm huy động vốn cho các dự án, công trình thuộc nguồn vốn ngân sách địa
phương. Có thể nói, trái phiếu chính quyền địa phương là một trong những công
cụ hữu hiệu đáp ứng nhu cầu vốn cho địa phương, giảm bớt gánh nặng cho ngân
sách Trung ương khi ngân sách địa phương chưa đáp ứng kịp và vẫn đảm bảo sự
phát triển cho địa phương.
1.3. Doanh nghiệp

1.3.1. Chủ thể chào bán chứng khoán vốn
1.3.1.1. Công ty cổ phần
Hiện nay, công ty cổ phần có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế trong
đó có thị trường chứng khoán. Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế thị
trường công ty cổ phần được xem là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy xã
hội hoá sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đưa nền kinh tế từ kinh tế hàng
hoá vận hành theo cơ chế thị trường sang nền kinh tế thị trường. Đối với thị
trường chứng khoán, công ty cổ phần tạo ra hàng hoá, góp phần hình thành thị
trường sơ cấp.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, công ty cổ phần được quyền
phát hành chứng khoán. So với các loại hình doanh nghiệp khác, công ty cổ
phần có ưu thế đặc biệt. Đó là khả năng công ty cổ phần được quyền phát hành
rộng rãi cổ phiếu và trái phiếu để huy động vốn trong đó có cổ phiếu là loại
chứng khoán vốn. Việc chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần nhằm tạo lập vốn
điều lệ để hình thành công ty hoặc để tăng vốn điều lệ. Thực tế hiện nay, công ty
cổ phần giữ vai trò chủ yếu trong việc cung cấp hàng hoá cho thị trường thứ cấp,
chứng khoán đã niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung chủ yếu là các cổ
phiếu của công ty cổ phần.
Có thể nói, Luật doanh nghiệp 2005 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thành
lập công ty cổ phần, từ đó làm tăng chủ thể chào bán chứng khoán cho thị
trường chứng khoán. Tuy nhiên Luật chỉ quy định việc chào bán riêng lẻ cổ
phiếu của công ty cổ phần để tăng vốn điều lệ còn việc chào bán ra công chúng
phải tuân theo Luật chứng khoán 2006.
1.3.1.2. Công ty Nhà nước cổ phần hoá
Cùng với quá trình “đổi mới”, chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp
sang nền kinh tế thị trường, việc cổ phần hoá các công ty Nhà nước đã trở thành
một tất yếu khách quan. Cũng chính vì lẽ đó, một chủ thể mới xuất hiện trong
những năm gần đây, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho các
doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước,
doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp. Đó là công ty

Nhà nước cổ phần hoá.
Để cổ phần hoá, công ty Nhà nước được quyền phát hành cổ phiếu (hay
cổ phần). Việc cổ phần hoá các công ty Nhà nước hiện nay chịu sự điều chỉnh
của nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển
công ty Nhà nước thành công ty cổ phần thay thế Nghị định 64/2002/NĐ-CP
ngày 19 tháng 6 năm 2002 trước đây về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước
thành công ty cổ phần. Theo quy định của pháp luật hiện hành các công ty Nhà
nước được chuyển đổi bao gồm: Tổng công ty Nhà nước, công ty Nhà nước độc
lập, công ty thành viên hoạch toán độc lập của tổng công ty do Nhà nước quyết
định đầu tư và thành lập, đơn vị hoạch toán phụ thuộc của công ty Nhà nước.

×