Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Bài mẫu 2 triết học pt nội dung ý nghĩa pp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 25 trang )

1
Chƣơng 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ởnước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh
tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ
hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực tiễn
phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng là tôn chỉ cho hoạt
động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội Nếu xuất phát từ một lập trường
triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp
với các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay khơng chấp nhận một lập
trường triết học nào đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan
nhất định, một cách lý giải nhất định về

thế

giới, mà còn là sự chấp nhận

một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự
chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động.
Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ
nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết
học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt
hơn cả.Trên cơ sở nền tảng triết học Mác Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập
và tiếp thu tư tưởng tiến bộ,đề ra những mục tiêu phương hướng chỉ đạo chính
xác,đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước
Mặc dù có những khiếm khuyết khơng thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng
hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến


kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành
tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác
đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự


2
nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn
đề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.
Trong bài viết quan trọng “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của
Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”, Tổng Bí thư, Chủ
tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội
quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn. Đây
là vấn đề thuộc về lý luận nhận thức, chứa đựng hạt nhân về duy vật và biện
chứng của phương pháp luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, triết học Đơng
phương và Tây phương cùng với tư duy truyền thống Việt Nam.
Vì vậy, học viên chọn đề tài: “Phân tích nội dung, ý nghĩa phương pháp luận
của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Từ đó, vận dụng nguyên
tắc này vào cơng cuộc phịng và chống COVID-19 hiện nay ở nước ta..” để
thực hiện.
2. Phƣơng pháp nghiên cứu để tài
Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong đề tài là phân tích các
khái niệm các phạm trù, sự thống nhất và vai trò ý nghĩa của lý luận và thực tiễn.


3

CHƢƠNG 2
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
1. Phạm trù thực tiễn

Đa số các nhà triết học duy vật trước Mác chưa có quan điểm đúng đắn về
thực tiễn, chưa đặt ra vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, mà chỉ nêu vai trò
của thực nghiệm khoa học, do vậy chưa thấy vai trị của thực tiễn đối với nhận
thức nói chung, với lý luận nói riêng. Đó là những nguyên nhân chủ yếu lý giải
chủ nghĩa duy vật trước Mác đã khơng làm sáng tỏ được vai trị năng động, sáng
tạo và tính tích cực của tư duy con người. Bêcơn là nhà triết học đầu tiên nhận
thấy vai trò của thực nghiệm trong quá trình nhận thức, hình thành tri thức khoa
học; theo đó nhận thức phải xuất phát từ giới tự nhiên và thực nghiệm để tìm ra
mối quan hệ nhân - quả, phát hiện và kiểm tra chân lý. Phoiơbắc coi thực tiễn là
hoạt động của con người, nhưng chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt động đích thực
của con người. Khuyết điểm chủ yếu của các nhà triết học duy vật trước Mác
trong vấn đề thực tiễn là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức
trong hình thức khách thể hay hình thức trực quan chứ không được coi là hoạt
động cảm giác của con người, của thực tiễn. Tuy vậy, quan điểm về vai trò của
thực nghiệm khoa học trong quá trình nhận thức, trong sự hình thành tri thức
khoa học vẫn là một trong những tiền đề cho quan niệm về thực tiễn trong triết
học Mác.
Các nhà triết học duy tâm, tuy thấy được mặt năng động của tư duy, nhưng
lại tuyệt đối hố vai trị của nó, làm cho tư duy trở nên thần bí. Hêghen cho rằng,
bằng thực tiễn, chủ thể tự nhân đơi mình, đối tượng hố bản thân mình trong quan
hệ với thế giới bên ngồi và tuy đó khơng phải là hoạt động vật chất của con
người mà của ý niệm tuyệt đối nhưng vẫn là ý tưởng sâu sắc về thực tiễn.
Phạm trù thực tiễn trong triết học Mác - Lênin.


4
Tính chất của thực tiễn: Thực tiễn là hoạt động vật chất, có tính lịch sử - cụ
thể; có tính xã hội; có tính tất yếu; phong phú và đa dạng.
Các hình thức thực tiễn cơ bản: Để hiểu được vai trị của thực tiễn đối với nhận
thức nói chung, lý luận nói riêng, cần phải thấy thực tiễn là phương thức đầu tiên

và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới xung quanh, là phương
thức tồn tại của con người và xã hội loài người. Các hình thức thực tiễn cơ bản là
hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị xã hội; hoạt động thực nghiệm
khoa học và một số lĩnh vực của thực tiễn như hoạt động giáo dục, nghệ thuật, y
tế v.v, trong đó hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản, quy định các hình
thức và lĩnh vực còn lại.

2. Phạm trù lý luận
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, con người tự làm ra lịch sử của mình
bằng hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới hiện thực chứ không phải bắt đầu từ
những lý luận nào đó. Đó cũng là cách hiểu về vai trò của hoạt động thực tiễn như
là điểm xuất phát của quan niệm duy vật về lịch sử, của lý luận duy vật biện
chứng về nhận thức.
 Nguồn gốc của lý luận: Lý luận hình thành nhờ quá trình nhận thức kinh
nghiệm và nhận thức lý luận do các thế hệ trước để lại.
 Nhận thức kinh nghiệm được hình thành nhờ quá trình quan sát những diễn
biến xẩy ra của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức kinh nghiệm gồm tri thức kinh
nghiệm thơng thường, là tri thức có được nhờ hoạt động hàng ngày giúp con
người giải quyết những vấn đề đơn giản, cụ thể; còn tri thức kinh nghiệm khoa
học là tri thức thu được nhờ tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức thu
được trong quá trình thực nghiệm khoa học, loại tri thức này là tiên đề trực tiếp
để hình thành lý luận khoa học.
 Nhận thức lý luận được hình thành nhờ tri thức kinh nghiệm khoa học và lý
luận do các thế hệ trước để lại.


5
 Các cấp độ lý luận: Lý luận ngành và lý luận triết học:
 Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển
của một ngành; có vai trị là cơ sở lý luận để sáng tạo, đông thời là phương pháp

luận của ngành đó (lý luận văn học, nghệ thuật v.v).
 Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới, về vị
trí và vai trị của con người trong thế giới ấy, đồng thời là thế giới quan và
phương pháp luận của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
 Các chức năng cơ bản của lý luận: Chức năng phản ánh hiện thực khách
quan và chức năng phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn.
 Chức năng phản ánh hiện thực khách quan của lý luận thể hiện qua những
quy luật chung nhất.
 Chức năng phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn (xem phương pháp
luận).
 Dưới đây sẽ là những nguyên tắc cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận với tực tiễn.

3. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận
Đúng vậy, thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý
luận; lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn
Thực tiễn là cơ sở của lý luận.
 Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là do nhu cầu của hoạt động thực tiễn
buộc con người phải nhận thức thế giới.
 Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là vì nhờ hoạt động thực tiễn, các giác
quan và bộ não của con người khơng ngừng được hồn thiện và phát triển, tạo ra
năng lực tư duy trừu tượng ngày càng cao.
 Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là vì nhờ thơng qua lao động, thực tiễn
trang bị cho con người công cụ, phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi hơn,


6
giúp con người đẩy nhanh quá trình tìm hiểu bản chất sự vật, hiện tượng, mở rộng
tầm bao quát những quá trình đang diễn ra trong thế giới.

Thực tiễn là động lực của lý luận.
 Hoạt động thực tiễn là nguồn gốc để con người hồn thiện mình và hồn
thiện các mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội.
 Hoạt động thực tiễn tạo cơ sở để con người khái quát tri thức thành lý luận,
làm lý luận phản ánh hiện thực ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn.Nhờ
vậy, thực tiễn thúc đẩy sự hình thành khoa học lý luận.
 Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận.
 Tính chân lý của lý luận là sự phản ánh phù hợp của lý luận với hiện thực
khách quan mà nó phản ánh và đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Giá trị của lý luận
phải được thực tiễn chứng minh.
 Không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của lý luận, bởi thực tiễn cũng
vận động, phát triển và chuyển hoá. Nếu lý luận chỉ phản ánh một trong những
giai đoạn nào đó của thực tiễn, thì lý luận chỉ mới chỉ là tương đối; chỉ có những
lý luận nào phản ánh được thực tiễn trong tính tồn vẹn của nó mới đạt đến chân
lý.

4. Lý luận phải đƣợc vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát
triển trong thực tiễn
Khi thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải được vận
dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn
 Lý luận có khả năng soi đường cho thực tiễn bằng các chức năng định
hướng mục đích; xác định lực lượng, phương pháp và biện pháp thực hiện mục
đích; cụ thể:
 Lý luận định hướng mục đích. Ban đầu, hoạt động chỉ để đáp ứng nhu cầu
tồn tại và thơng qua đó, khái quát thành lý luận; về sau hoạt động muốn có hiệu
quả cần có lý luận soi đường, hoạt động từ bản năng chuyển sang tự giác.


7
 Lý luận có khả năng xác định lực lượng, phương pháp và biện pháp thực

hiện mục đích.
 Lý luận dự báo khả năng phát triển, những khả năng có thể xẩy ra trong
quá trình hoạt động, bởi vậy lý luận khơng những giúp hoạt động hiệu quả, mà
cịn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng cường năng lực hoạt động của
con người.
 Lý luận có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng; liên kết các cá nhân thành
cộng đồng, tạo ra sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, xã hội.
 Lý luận phải trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, kiểm nghiệm trong thực
tiễn và tiếp tục bổ sung, phát triển trong thực tiễn; chống lý luận suông và sự lạc
hậu của lý luận so với thực tiễn.

5. Ý nghĩa phƣơng pháp luận nguyên tắc giữa lý luận với thực tiễn hiện nay
 Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn; phản ánh được yêu cầu của thực tiễn;
khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn, cụ thể:
 Thực tiễn luôn vận động, phát triển và biến đổi nên nhận thức phải bám sát
để phản ánh q trình đó; so sánh, đối chiếu, phân tích để chọn lọc những thực
tiễn có tính quy luật làm cơ sở cho quá trình hình thành lý luận.
 Lý luận phải khái quát được kinh nghiệm của nhân loại; tổng kết được thực
tiễn mới có tính khoa học và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
 Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo; khi vận dụng lý luận phải phù
hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể
 Lý luận là sự tổng kết thực tiễn và là mục đích cho hoạt động thực tiễn tiếp
theo.
 Lý luận phản ánh thực tiễn trong dạng quy luật nên lý luận có khả năng trở
thành phương pháp luận cho thực tiễn.
 Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều


8
 Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự

vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn.
 Bệnh kinh nghiệm, nguyên nhân và con đường khắc phục. Bệnh kinh
nghiệm xuất hiện do tuyệt đối hố những kinh nghiệm đã có và áp dụng chúng
vào hiện tại mặc đù điều kiện đã thay đổi. Muốn khắc phục bệnh này, cần quán
triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, ln bám sát thực tiễn, nâng
cao trình độ lý luận; bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn.
 Bệnh giáo điều, nguyên nhân và con đường khắc phục. Bệnh giáo điều xuất
hiện do nắm lý luận còn nơng cạn, tuyệt đối hố lý luận, vận dụng máy móc
những kiến thức đã có trong sách vở mà coi nhẹ kinh nghiệm. Muốn khắc phục
bệnh này, cần quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, luôn
gắn lý luận với thực tiễn, kiểm tra lý luận trong thực tiễn và phát triển lý luận
cùng với sự phát triển của thực tiễn. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực
tiễn. Lý luận mác-xít là tổng kết kinh nghiệm, tổng kết tri thức; là khoa học về
quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội, khoa học về cách mạng của quần
chúng, về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, lý luận khơng phải là giáo điều,
khơng phải là một cái gì cứng nhắc, mà đầy tính chất sáng tạo, như kim chỉ nam,
chỉ phương hướng cho chúng ta hành động. Lý luận nói tới ở đây là những
nguyên lý phổ biến; là tinh thần, lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lý luận đó chính là sự khái quát từ
thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, có ý nghĩa rọi chiếu thực tiễn; phân tích
một cách khoa học, đúng đắn những vấn đề của thực tiễn giúp chúng ta tìm ra
được quy luật phát triển của cách mạng, của đổi mới, định ra được đường lối,
phương châm, bước đi cụ thể của sự nghiệp đổi mới thích hợp với tình hình, hồn
cảnh nước ta. Kết hợp nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn khơng có nghĩa là học,
áp dụng lý luận một cách giáo điều, mà trong mọi vấn đề cần phải giải quyết đều
phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế
khơng, có thật đúng lý khơng, tuyệt đối khơng nhắm mắt sao chép, rập khuôn lý
luận một cách xuôi chiều, máy móc. Thực tiễn sinh động của một Việt Nam đổi



9
mới trong thế giới toàn cầu sẽ làm nảy nở lý luận mới. Cứ như vậy, vừa nâng cao
trình độ hoạt động thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm vừa nâng cao trình độ lý luận,
đem lý luận chứng minh với thực tiễn, chúng ta sẽ có được một lý luận chân
chính soi sáng cơng cuộc đổi mới.

CHƢƠNG 3
Vận dụng ngun tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn này vào cơng cuộc
phịng và chống COVID-19 hiện nay ở nƣớc ta

Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cao nhất của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin. Xây dựng các văn kiện trình Đại hội XIII là phải rất thực
tiễn, xuất phát từ thực tiễn và coi trọng thực tiễn. Thực tiễn nói tới ở đây là thực
tiễn Việt Nam hiện nay, qua 35 năm đổi mới, phải tính đến cả thực tiễn đất nước,
con người, lịch sử, văn hóa Việt Nam và cả thực tiễn thế giới. Từ thực tiễn đó để
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tìm ra bản
chất, quy luật vận động của công cuộc đổi mới ở Việt Nam, một sự nghiệp có tính
đặc thù của nước ta, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Trên cơ sở đó đề ra đường lối
độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo cho sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Đại dịch COVID-19 đặt ra cho nhân loại nhiều vấn đề đáng suy ngẫm,
trong đó có sự thử thách đối với sự phù hợp, tính bền vững, khả năng ứng phó của
các chế độ chính trị. Với tất cả sự khiêm tốn của người cộng sản, có thể khẳng
định thành cơng của Việt Nam trong phịng, chống đại dịch COVID-19 là minh
chứng hùng hồn cho sự ưu việt của chế độ ta, trong đó có sự lãnh đạo sát sao của
Đảng, chỉ đạo hiệu quả của Chính phủ, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống


10
chính trị. Đây là các yếu tố mà cộng đồng quốc tế phải thừa nhận và đánh giá cao.
Tuy nhiên, một số thế lực phản động vẫn cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam “ăn

may” hoặc “giấu dịch”. Một số nhà phân tích và bình luận phương Tây, với định
kiến vốn có về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và các Đảng Cộng sản, cho rằng Việt
Nam vận dụng “chế độ độc đảng toàn trị” nên dễ dàng thắt chặt kiểm soát,
khoanh vùng dịch bệnh, đồng thời nhân dịp này kiểm sốt truyền thơng, báo chí,
dư luận. Thoạt tiên, truyền thơng các nước nói nhiều hơn đến các “nền dân chủ”
thành công trong chống dịch như Hàn Quốc, Singapore… Đồng thời, họ cho rằng
các nước Đông Á với tư duy Khổng giáo có thuận lợi về chính trị và xã hội hơn
các nước phương Tây trong phòng chống dịch bệnh. Tuy nhiên, thực tiễn diễn ra
ở các nước Đông Á và tại Việt Nam đã chứng minh nước ta có những đặc thù
riêng, và cách làm của Việt Nam cuối cùng đã thuyết phục được cộng đồng quốc
tế.
Về hiệu quả của mơ hình quản trị Việt Nam trong phịng, chống dịch
COVID-19 với các tiêu chí của “quản trị quốc gia tốt” do Cơ quan Phát triển Liên
hợp quốc (UNDP) đưa ra cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã thực
sự phát huy được tính ưu việt của chế độ XHCN, vận hành hiệu quả hệ thống
chính trị phục vụ các mục tiêu của đất nước.
8 TIÊU CHÍ QUẢN TRỊ TỐT VÀ SỰ ỨNG DỤNG Ở VIỆT NAM
TRONG ĐẠI DỊCH COVID-19
Đại dịch COVID-19 đã phơi bày sự yếu kém của quản trị toàn cầu - “tập
hợp các thể chế, quy định, chuẩn tắc và dàn xếp pháp lý nhằm quản lý quan hệ
giữa các quốc gia và tạo thuận lợi cho các hoạt động hợp tác quốc tế trên nhiều
lĩnh vực vấn đề khác nhau”. Khi những kỳ vọng về “quản trị toàn cầu” để xử
lý thách thức toàn cầusuy giảm, “quản trị quốc gia” đã thể hiện được tầm quan
trọng trong việc xử lý khủng hoảng với một số mơ hình quốc gia xử lý, kiểm sốt
dịch bệnh hiệu quả, toàn diện.


11
Khái niệm quản trị quốc gia đã xuất hiện từ những năm 1970. Xét một cách
đơn giản, quản trị quốc gia (national governance) là thơng qua các thể chế chính

thức hoặc phi chính thức để kiểm sốt, quản trị các nguồn lực của đất nước. Từ
những năm 1990, quản trị quốc gia tốt (good governance) ngày càng được đề cập
nhiều hơn. Hiện nay, có nhiều định nghĩa về quản trị quốc gia tốt từ các tổ chức
kinh tế, chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội khác nhau. Tuy nhiên, tựu chung lại đều
mang 8 đặc điểm/tiêu chí căn bản: 1) “sự tham gia (participatory); 2) định hướng
đồng thuận (consensus oriented); 3) trách nhiệm giải trình (accountable); 4) sự
minh bạch (transparent); 5) sự kịp thời (responsive); 6) tính hiệu lực
(effective) và hiệu quả (efficient); 7) tính bình đẳng và khơng loại trừ chủ thể nào
(equitable and inclusive); 8) tuân thủ pháp quyền (follows the rule of
law)(4). Trên thực tế, việc đánh giá thể chế các quốc gia thông qua 8 tiêu chí quản
trị tốt cịn có nhiều ý kiến khác nhau. Trong đó, một số nhấn mạnh và có xu
hướng thiên về nhân quyền, đa nguyên…. Một số khác đòi hỏi việc ứng dụng
phải phù hợp với đặc thù của mỗi quốc gia.
ỨNG DỤNG THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI 8 TIÊU CHÍ
QUẢN TRỊ QUỐC GIA TỐT
Trong cuộc chiến chống dịch COVID-19, Việt Nam là một trong số rất
ít các quốc gia đã thể hiện năng lực ứng phó và kiểm soát dịch COVID-19 hiệu
quả, được thế giới đánh giá cao. Thậm chí, truyền thơng và các chun gia quốc
tế cịn cho rằng Việt Nam là “một hình mẫu trong cuộc chiến chống COVID-19
với chi phí thấp”(5). Xem xét theo 8 tiêu chí quản trị tốt, có thể thấy Việt Nam đã
vận dụng nhuần nhuyễn và phù hợp thực tiễn của đất nước để đạt được và thậm
chí vượt hơn các tiêu chí quốc tế.
Một là, Việt Nam đã huy động mọi nguồn lực và cả hệ thống chính trị vào
cuộc (sự tham gia - participatory).
Ngay từ những ngày đầu khi dịch COVID-19 bắt đầu bùng phát, Việt Nam
đã sớm xác định được chiến lược cụ thể để kịp thời ứng phó với dịch COVID-19.
Là một nước có đường biên giới sát với Trung Quốc - nơi bùng phát dịch


12

COVID-19, nhưng Việt Nam không hề bị bất ngờ, đã chủ động huy động sức
mạnh của cả hệ thống chính trị trên tồn quốc cùng phịng chống dịch. Hàng loạt
văn bản chỉ đạo của Đảng, Chính phủ được ban hành, nhiều phương án, biện pháp
phòng chống được triển khai nhằm nhắc nhở người dân mức độ nguy hại của dịch
bệnh, đồng thời nâng cao nhận thức và sự đồng thuận, thống nhất giữa các cấp ủy
Đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương(6).Cùng với đó, Đảng và
Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng chống dịch COVID19, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương cũng thành lập ngay Ban
Chỉ đạo phòng chống dịch.
Các hoạt động phịng chống dịch khơng chỉ được thực hiện bởi ngành y tế, mà
cịn có sự tham gia của lực lượng vũ trang, ngành ngoại giao, các cơ quan thơng
tấn, báo chí Trung ương và địa phương. Với mục tiêu rõ ràng “vì sức khỏe của
nhân dân”, các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ được nhân dân ủng
hộ, chung tay thực hiện. Người dân không chỉ trực tiếp tham gia vào công tác
chống dịch mà còn chủ động đẩy mạnh hưởng ứng các hoạt động an sinh xã hội
mà Đảng và Chính phủ đề ra. Các tờ báo nước ngoài, chẳng hạn như nhật báo
Hampshire của Mỹ ngày 11/5, đã có những nhận xét về sự tham gia nhanh chóng,
kịp thời và đầy đủ của Việt Nam từ lãnh đạo, đến các ban ngành và tới nhân
dân(7). Báo The Nation nhận xét, do sự huy động hàng loạt tất cả các nguồn lực,
khơng gì lạ khi chính phủ gọi chiến dịch chống dịch COVID-19 là “Cuộc tổng
tiến công mùa Xuân năm 2020”.
Hai là, Việt Nam đã tạo ra khuôn khổ hành lang pháp lý và thể chế đối phó
với dịch bệnh, đồng thời nhấn mạnh bảo vệ quyền con người - (follows the rule of
laws).
Để đối phó với dịch bệnh, Việt Nam đã có khung pháp lý và thể chế tương
đối đầy đủ, rõ ràng, minh bạch và hiệu quả. Về pháp lý, có thể khẳng định, các
chỉ đạo, bước đi trong công tác lãnh đạo của Đảng và Chính phủ đều dựa trên cơ
sở đánh giá thực tiễn và luật pháp (đơn cử là Luật phịng, chống bệnh truyền
nhiễm có hiệu lực từ 1/7/2008.). Về thể chế, Ban Chỉ đạo quốc gia được thành lập



13
và được xem cơ quan chỉ đạo cao nhất cho chiến dịch phòng chống COVID-19
với phương châm “4 tại chỗ” gồm chỉ đạo tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện
tại chỗ và hậu cần tại chỗ.
Trong thời gian đối phó với đại dịch COVID-19, Nhà nước đã đưa ra nhiều
văn bản cấp thiết đối với tình hình, trong đó có Quyết định số 447/QĐ-TTg cơng
bố dịch bệnh trên cả nước, đồng thời bắt buộc thực hiện các quy định trong các
văn bản, chỉ thị của Thủ tướng(8). Các văn bản này được xác định là văn bản quy
phạm pháp luật, bắt buộc mọi người phải tuân theo, áp dụng trên phạm vi cả
nước, người nào vi phạm các quy định thì phải chịu chế tài theo quy định của
pháp luật. Bên cạnh đó, các cấp địa phương theo thẩm quyền của mình cũng đưa
ra những quyết định để người dân nghiêm chỉnh thực hiện. Chẳng hạn, đầu tháng
4/2020, Sở Tư pháp Hà Nội đã công bố mức phạt đối với những hành vi vi phạm
quy định phòng chống dịch COVID-19, mức phạt cao nhất là 20 triệu đồng hoặc
có thể bị xử lý hình sự. Có thể thấy rằng, những khn khổ được đưa ra cùng với
những hình thức xử lý vi phạm phù hợp với pháp luật và yêu cầu chống dịch
đã tạo nên thói quen tốt cho người dân trong nước để đối phó với tình hình dịch
bệnh. Trên thực tế, việc thi hành của người dân luôn được theo sát chặt chẽ, và đa
số người dân luôn tuân thủ đúng quy định.
Đồng thời, với mục tiêu vì sức khỏe, tính mạng nhân dân, Việt Nam
đã dành ưu tiên cao nhất cho quyền con người, đặc biệt “quyền được sống”, trong
đó quan tâm đầy đủ đến các cộng đồng thiểu số thông qua những biện pháp rất
nhân văn. Chính phủ đã cung cấp nhiều chuyến bay để đưa người Việt ở nước
ngoài về Tổ quốc. Người lao động trong nước được quan tâm sâu sắc thông qua
những chính sách hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp vượt khó, cắt giảm nhiều lệ phí
để tạo điều kiện cho người lao động. Nhiều biện pháp hỗ trợ được ban hành và
nhanh chóng đi vào cuộc sống, trong đó có những sáng kiến hay, cử chỉ đẹp
như máy ATM phát gạo từ thiện dành cho người nghèo được đặt ở nhiều nơi.



14
Ba là, mọi thông tin liên quan đến dịch COVID-19 và hoạt độngphịng,
chống dịch của chính phủ được cơng bố đầy đủ, cập nhật, rõ ràng, dễ truy cập và
dễ hiểu đối với mọi người dân – (Transparent).
Một trong những yếu tố quan trọng dẫn tới sự thành công trong cơng tác
phịng chống dịch bệnh COVID-19 của Việt Nam chính là việc thơng báo đầy đủ,
chính xác về hoạt động phòng, chống và số ca nhiễm, số ca điều trị
khỏi. BBC từng đưa tin các số liệu về COVID-19 do chính phủ Việt Nam cơng bố
thấp tới mức nhiều người nghi ngờ liệu các con số này có chính xác hay
khơng. Thậm chí, Reuters cịn đi thăm dị các nhà tang lễ để xem có số người chết
tăng vọt hay không. Tuy nhiên, thực tiễn đã chứng minh sự minh bạch, chính xác
trong thơng tin mà Việt Nam đưa ra. Giới ngoại giao và y tế quốc tế đều nhất trí
cho rằng, khơng có lý do gì để đặt nghi vấn về vấn đề này(9). Theo Huong Le
Thu, nhà phân tích tại Viện Chính sách Chiến lược Australia, các tổ chức quốc tế,
các nhà dịch tễ học nước ngoài, thậm chí Đại sứ Australia tại Hà Nội đều tin
tưởng vào các số liệu của Việt Nam. Rõ ràng Việt Nam đã đề cao tính minh bạch
trong cung cấp thơng tin đến người dân(10).
Về mặt nhận thức, Việt Nam nhận thức rõ yếu tố quan trọng trong phịng
chống dịch là thơng tin phải minh bạch để người dân không hoang mang. Bưng
bít thơng tin sẽ dẫn tới kém hiệu quả trong phịng chống dịch.Về mặt triển
khai, ngay từ đầu, chính phủ Việt Nam đã truyền đạt rộng rãi tới người dân về
mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh, khẳng định rõ: COVID-19 không chỉ là một
bệnh cúm, mà là một căn bệnh cực kỳ nghiêm trọng, vì vậy mọi người được
khuyên không nên tự gây nguy hiểm cho bản thân hoặc người khác.
Khơng chỉ thường xun cập nhật số liệu, tình hình dịch bệnh cho người dân và
quốc tế, Việt Nam cịn sáng tạo các phương thức truyền thơng mới. Hàng
ngày, các bộ phận khác nhau của chính phủ Việt Nam - từ lãnh đạo đến Bộ Y tế,
Bộ Thông tin và Truyền thơng và chính quyền địa phương - đều nhắn tin cho
công dân. Chi tiết về các triệu chứng nhiễm bệnh và biện pháp bảo vệ được
truyền đạt qua văn bản đến điện thoại di động trên cả nước. Chính phủ cũng đã



15
hợp tác với các dịch vụ mạng xã hội như Zalo, Facebook… để cập nhật thông tin.
Các thành phố treo áp phích nhắc nhở người dân nâng cao ý thức trong việc ngăn
chặn sự lây lan của virus.
Bốn là, Việt Nam có những quyết sách nhanh chóng, kịp thời và quyết liệt (responsive).
Thành công của Việt Nam trong việc đối phó với đại dịch được cho là nhờ
một số biện pháp quyết đoán. Ngay từ đầu và suốt trong thời gian chống dịch,
Việt Nam đã có những chỉ thị, quy định kịp thời từ Trung ương đến địa phương
với nhiều biện pháp tồn diện và triệt để. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có
Cơng văn số 79-CV/TW gửi các tỉnh ủy, thành ủy; các ban, ban cán sự đảng,
đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương; các đảng ủy đơn vị sự nghiệp Trung
ương về việc phòng, chống dịch bệnh COVID-19. Căn cứ tình hình thực tế, Chính
phủ Việt Nam đưa ra những chỉ thị, nghị định, mang tính hành động nghiêm
khắc, quyết liệt. Ngày 28/1/2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký
ban hành Chỉ thị số 05/CT-TTg về phịng, chống dịch bệnh viêm đường hơ hấp
cấp do virus SARS-CoV-2 gây ra; ngày 16/3/2020, yêu cầu tất cả mọi người thực
hiện nghiêm việc đeo khẩu trang tại các nơi cơng cộng có tập trung đơng người;
ngày 18/3/2020, Thủ tướng quyết định tạm dừng cấp thị thực cho người nước
ngoài nhập cảnh vào Việt Nam, hạn chế các chuyến bay từ vùng dịch; ngày
31/3/2020, Thủ tướng ban hành Chỉ thị số 16 về việc thực hiện các biện pháp cấp
bách nhằm phịng, chống dịch COVID-19, theo đó cả nước thực hiện cách ly tồn
xã hội trong vịng 15 ngày. Ngày 15/4, khi lệnh cách ly kết thúc, Thủ tướng tiếp
tục yêu cầu 28 tỉnh, thành phố có “nguy cơ cao” và “nguy cơ” tiếp tục cách ly xã
hội ít nhất đến hết ngày 22/4/2020. Sau ngày 22/4, số ca nhiễm COVID-19 ở Việt
Nam liên tục không tăng, lệnh dỡ bỏ cách ly được thông qua. Tuy nhiên mọi tình
hình hoạt động vẫn đặt trong kiểm sốt, ngày 24/4/2020, Thủ tướng ban hành Chỉ
thị 19/CT-TTg về việc tiếp tục thực hiện phịng, chống dịch COVID-19 trong tình
hình mới. Đất nước chuyển sang giai đoạn chống dịch dài hơi hơn, nới lỏng các

biện pháp hạn chế, từng bước khôi phục hoạt động kinh tế xã hội(11). Đồng thời,


16
để an dân, đẩy mạnh tinh thần chống đại dịch, cũng như đẩy lùi những khó khăn
về mặt kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành những chính sách, nghị
định về hỗ trợ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đời sống nhân dân và phát triển
doanh nghiệp; Chính phủ ban hành Nghị quyết 42/NQ-CP về các biện pháp hỗ trợ
người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19.
Nếu như so với nhiều quốc gia khác, khi dịch bệnh bùng phát mới ban hành
các chỉ thị, quy định về phịng chống dịch bệnh thì Đảngvà Nhà nước Việt
Nam đã hành động quyết liệt ngay từ đầu cùng những biện pháp mang tính bắt
buộc thi hành. Việc ban hành nhanh chóng, kịp thời và đúng đắn những quy định
mang tính pháp luật đã đáp ứng được mức độ phát triển của dịch bệnh tại Việt
Nam. Ngoài việc đáp ứng quy định về phòng, chống dịch bệnh lây lan, Việt Nam
cịn ban hành những chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để người dân yên tâm chống
dịch, điều này cũng tạo đà cho việc đẩy lùi dịch bệnh trên phạm vi cả nước, là
biện pháp trấn an tinh thần cho người dân và doanh nghiệp. Ở một số quốc gia
kiểm soát dịch tốt cũng nhờ ban hành triệt để các quy định pháp luật về phòng
chống dịch bệnh, như Ấn Độ, Thụy Sĩ, Hàn Quốc,… Tuy nhiên, việc có những
chính sách hỗ trợ, đáp ứng u cầu thực tiễn thì vẫn chưa kịp thời và rõ ràng như
Việt Nam.
Năm là, Việt Nam đã tạo ra được sự đồng thuận trong xã hội - (concensus).
Sự đồng thuận xã hội được hiểu là sự ủng hộ, đồng lòng của tồn thể xã hội đối
với các hành động của chính phủ. Sự đồng thuận xã hội được tiếp cận theo ít nhất
hai hướng: 1) Sự đồng thuận trong nội bộ các cơ quan, ban ngành; 2) Sự ủng hộ
của người dân đối với các hành động của chính phủ. Thứ nhất, giữa các bộ, ban
ngành của Việt Nam đã có sự phân cơng, phối hợp rõ trong phịng chống dịch.
Thực hiện các chỉ thị Ban Bí thư và của Thủ tướng Chính phủ về phịng, chống
dịch bệnh COVID-19, các bộ, ban ngành, các địa phương đã phối hợp chặt

chẽ cùng Bộ Y tế(12), thực hiện nghiêm túc, trách nhiệm các chức năng nhiệm vụ
của ngành với tinh thần đồng thuận cao. Thứ hai, sự đồng thuận xã hội được thể
hiện ở sự ủng hộ của người dân đối với các chỉ đạo của chính phủ. Cụ thể là việc


17
người dân chấp hành nghiêm túc các chỉ thị của Thủ tướng, trong đó có những
biện pháp rất mới, nghiêm khắc như giãn cách xã hội, cách ly khu vực… Đồng
thời, sự ủng hộ, niềm tin của nhân dân còn thể hiện rõ nét qua việc quyên góp
tiền, hiện vật để chung tay cùng đất nước đẩy lùi dịch bệnh. Theo thống kê mới
nhất của Cơng ty phân tích dữ liệu và nghiên cứu thị trường uy tín YouGov (có
trụ sở tại Anh), 97% người Việt Nam tin tưởng chính phủ đang xử lý dịch
COVID-19 tốt và 90% tin tưởng vào những phương tiện truyền thông nước nhà
đăng tải về dịch bệnh(13). Theo đó, Việt Nam dẫn đầu trong danh sách các nước
mà YouGov tiến hành nghiên cứu. Các nghiên cứu, điều tra của nhiều tổ chức
quốc tế trước đó cũng đều cho kết quả tương tự với việc Chính phủ Việt Nam
ln đạt được sự tín nhiệm cao của người dân.
Sáu là, Chính phủ Việt Nam đưa ra những quyết sách tạo sự công bằng
và không loại trừ chủ thể nào - (equitable and inclusive).
Trong ứng phó với dịch bệnh, Việt Nam đã có cách tiếp cận cơng bằng với
mọi đối tượng khác nhau trong xã hội, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo.
Các chỉ thị của Đảng và Chính phủ đều bảo đảm để mọi người dân đều được tiếp
cận với các cơ sở, dịch vụ y tế và vật tư y tế, đặc biệt là khẩu trang, bảo hộ, cồn
rửa tay sát khuẩn khi dịch bệnh xảy ra. Về việc điều trị, để bảo đảm việc tiếp cận
điều trị cho tất cả mọi người, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định 219/QĐ-BYT bổ
sung bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona (nCov) gây ra
vào danh mục các bệnh truyền nhiễm nhóm A - là bệnh truyền nhiễm đặc biệt
nguy hiểm theo quy định tại Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007.
Theo đó, những người mắc bệnh dịch này sẽ được khám và điều trị miễn phí.
Trong bối cảnh ở nhiều quốc gia trên thế giới bệnh nhân phải tự chi trả mọi chi

phí điều trị COVID-19, đây là nỗ lực đầy nhân văn của Chính phủ Việt Nam
nhằm bảo đảm quyền được tiếp cận điều trị COVID-19 cho tất cả bệnh nhân.
Xét từ góc độ pháp lý, theo quy định của pháp luật Việt Nam, người bệnh được
tôn trọng danh dự, bảo vệ sức khỏe trong khám bệnh, chữa bệnh. Người bệnh sẽ
không bị kỳ thị, phân biệt đối xử, không bị phân biệt giàu nghèo, địa vị xã hội và


18
được tơn trọng về tuổi tác, giới tính, dân tộc, tín ngưỡng. Luật Phịng, chống bệnh
truyền nhiễm nêu rõ hành vi phân biệt đối xử và đưa hình ảnh, thơng tin tiêu cực
về người bệnh là hành vi bị nghiêm cấm(14).
Trên thực tế, xét về mức độ lây nhiễm COVID-19, mọi người đều như
nhau. Tuy nhiên, xét về khả năng dễ mắc COVID-19 thì một số nhóm có thể phải
chịu rủi ro nhiễm bệnh và nguy cơ tử vong cao hơn như: người cao tuổi, người có
bệnh mãn tính (tim mạch, huyết áp, hen, tiểu đường...). Do vậy, nhóm đối tượng
này được quan tâm bảo vệ và hỗ trợ để phòng ngừa y tế tốt hơn. Đồng thời, trên
phương diện kinh tế - xã hội, với phương châm “không ai bị bỏ lại phía
sau”, Đảng và Chính phủ Việt Nam cũng sớm có các giải pháp bảo đảm an sinh
xã hội và giải quyết các khó khăn về kinh tế để hỗ trợ người dân cũng như các
doanh nghiệp.
Bảy là, các quyết sách của chính phủ Việt Nam đã phát huy hiệu lực và đạt
hiệu quả cao - (effective, efficient).
Quản trị tốt có nghĩa là các tiến trình và thể chế đem lại những kết quả đáp ứng
các nhu cầu của xã hội trong khi chỉ tiêu tốn các nguồn lực ở mức tối thiểu(15). Ở
đây có thể hiểu là phải đáp ứng đủ hai mặt về hiệu lực và hiệu quả.
Về mặt hiệu lực, trong thời gian qua, việc ban hành các khung pháp lý cơ
bản có tính hiệu quả cao. Một số vấn đề phát sinh do thực tiễn mà COVID-19 đặt
ra quá mới, nhưng đã được Đảng và Nhà nước xử lý triệt để. Có thể kể đến với
Chỉ thị 16/CT-TTg, có một số điểm đã được nêu trong văn bản nhưng có một số
thành phần hiểu sai và khơng thực hiện đúng theo Chỉ thị. Chính phủ đã ngay lập

tức đưa ra Hướng dẫn thực hiện chỉ thị 16/CT-TTg bằng văn bản số 2601/VPCPKGVS(16). Đồng thời, Chính phủ và chính quyền các cấp đã thi hành các biện
pháp nghiêm khắc đối với những thành phần không thực hiện đúng theo các văn
bản quy phạm pháp luật đã đưa ra. Quá trình điều tra, truy tố các đối tượng này
đều được áp dụng theo thủ tục rút gọn để nhanh chóng đưa vụ án ra xét xử,
nhằm kịp thời răn đe, giáo dục, nâng cao ý thức của người dân tự giác chấp hành
quy định phòng, chống dịch COVID-19.


19
Về mặt hiệu quả, kết quả đạt được trong thời gian qua đã đáp ứng nhu cầu
của xã hội trong việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nhất các nguồn lực. Cùng những
biện pháp quyết liệt ngay từ khi dịch bùng phát, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành quả đáng kể. Đó là quốc gia có tỷ lệ nhiễm thấp và khơng có trường hợp tử
vong, được các nước khen ngợi và đánh giá cao. Về cách thức, Việt Nam đã lựa
chọn chiến lược chống COVID với chi phí thấp, tiết kiệm các nguồn lực. Thay vì
xét nghiệm đại trà, Việt Nam tập trung phát hiện nhanh các ca nhiễm, khoanh
vùng và tìm kiếm các trường hợp tiếp xúc với ca bệnh cho đến lớp thứ 4 (F4) để
cách ly. Hơn nữa, đối với người dân, chi phí điều trị bệnh nhân nhiễm COVID-19
tại bệnh viện đều do bảo hiểm y tế chi trả. Người đi cách ly tập trung được miễn
chi phí. Tại những khu vực bị phong tỏa, kinh phí từ ngân sách nhà nước giúp
cung cấp thực phẩm miễn phí (Hà Nội) hoặc cấp tiền (40.000 đồng/người/ngày Vĩnh Phúc)(17)...
Tám là, trong ứng phó với dịch COVID-19, trách nhiệm giải trình được thể
hiện qua trách nhiệm trong nội bộ và trách nhiệm đối với xã hội - (accountable).
Thứ nhất, trách nhiệm trong nội bộ được nêu rõ trong các văn bản chỉ đạo
của Ban Bí thư và Chính phủ. Chẳng hạn, chỉ thị 19/CT-TTg của Thủ tướng nêu
rõ: “Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương tiếp tục (...) đề cao kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm của
người đứng đầu, thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch”(18). Theo
đó, các cơ quan có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo và chịu trách
nhiệm trước Chính phủ, giải trình với Chính phủ, Thủ tướng các vấn đề trong q

trình phịng chống dịch bệnh. Trên thực tế, các bộ, ban, ngành Trung ương và
chính quyền địa phương đã thực hiện rất tốt, nghiêm túc các chỉ đạo nêu trên, thể
hiện rõ nét qua kết quả đạt được. Ngồi ra, trách nhiệm giải trình cịn thể hiện ở
cách thức xử lý các vi phạm của người đứng đầu các đơn vị trong quá trình chống
dịch, tiêu biểu nhất là vụ việc điều tra và khởi tố Giám đốc Trung tâm Kiểm soát
bệnh tật Hà Nội do sai phạm trong quá trình mua hệ thống Real Time PCR tự
động xét nghiệm COVID-19.


20
Thứ hai, trách nhiệm đối với xã hội được thể hiện thơng qua trách nhiệm
của bộ máy chính quyền đối với xã hội, cụ thể là trách nhiệm giải trình đối với
người dân về các biện pháp được thực thi. Trên thực tế, trong thời gian phòng
chống dịch, các biện pháp mà Chính phủ Việt Nam đưa ra đều có căn cứ vững
chắc về pháp lý và yêu cầu của thực tiễn, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Một
số biện pháp mới, chưa từng có (như giãn cách xã hội, cách ly khu vực…) đều
được giải thích cặn kẽ, đầy đủ, do đó được người dân tuân thủ nghiêm túc.
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM RIÊNG CÓ CỦA VIỆT NAM
Bên cạnh việc đảm bảo các tiêu chí quản trị quốc gia tốt một cách linh
hoạt, phù hợp đặc thù đất nước, Việt Nam có một số đặc thù, đó là sự lãnh đạo
của Đảng, truyền thống dân tộc và kinh nghiệm vượt khó khăn, thách thức. Đây là
những đặc điểm giúp cho việc ứng dụng các tiêu chí quản trị quốc gia hiệu quả
hơn, phù hợp và hài hòa hơn.
Về sự lãnh đạo của Đảng, từ khi ra đời, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu và
lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, đặt lợi ích của nhân dân làm mục tiêu tối
thượng. Trong những lúc cam go, nghặt nghèo nhất, chính vì giải quyết phù hợp
mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc nên Đảng đã tập hợp được
đông đảo sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân. Trong đại dịch COVID-19, với
mục tiêu “tất cả vì sức khỏe, tính mạng nhân dân”, cơng cuộc phòng, chống đại
dịch đã được sự ủng hộ, đồng tâm nhất trí của đồng bào cả ở trong và ngoài

nước. Trên chặng đường 90 năm qua, Đảng cũng đã chứng tỏ bản lĩnh và khả
năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam khi đương đầu với những thách thức to lớn.
Với nhận định sắc bén về thời cơ, sự chuẩn bị lực lượng kỹ càng, chỉ với 5.000
đảng viên, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám long trời
lở đất, đập tan chế độ thực dân phong kiến, thành lập nhà nước công nông đầu
tiên ở Đông Nam châu Á. Cũng với bản lĩnh và khả năng lãnh đạo tài tình đó,
Đảng đã lãnh đạo cả dân tộc đi qua hai cuộc kháng chiến thần thánh, giành chiến
thắng trước những đối thủ mạnh mẽ, hung bạo nhất. Trong xây dựng đất nước,
trước những thách thức to lớn cả ở trong nước và trên thế giới vào cuối thập kỷ


21
80 đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Đảng một lần nữa chứng tỏ bản lĩnh và khả
năng lãnh đạo của mình, tiến hành cơng cuộc đổi mới, làm nên một Việt Nam
“chưa bao giờ có cơ đồ, tiềm năng, uy tín và vị thế như ngày nay”. Kiên định mục
tiêu và lý tưởng vì nhân dân, với bản lĩnh và khả năng lãnh đạo đã được chứng
minh trong những giai đoạn lịch sử trọng đại của dân tộc, Đảng đã dành trọn niềm
tin của nhân dân. Bởi vậy, khi Đảng cất lời kêu gọi “chống dịch như chống giặc”,
toàn thể nhân dân đã tin tưởng tuyệt đối, nghiêm chỉnh chấp hành các chủ trương,
đường lối, biện pháp mà Chính phủ đề ra.
Một đặc trưng khác là truyền thống rất đặc thù của dân tộc Việt Nam: yêu
nước, nhân văn và đồn kết một lịng khi đất nước gặp khó khăn, thách thức. Dân
tộc nào cũng yêu nước, song với đặc điểm hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước, kiên trì đấu tranh vì độc lập tự do, giữ gìn bản sắc dân tộc, lịng u nước
của người Việt Nam là đặc điểm rất nổi trội, nó gắn liền với tinh thần đoàn kết,
“mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần ấy lại sôi nổi, kết thành làn sóng…”.
Lịng u nước, tinh thần đồn kết và niềm tin với Đảng đã tạo thành sự đồng tâm
nhất trí từ trên xuống dưới, cả nước chung tay chống dịch, từ lãnh đạo cao nhất
đến trẻ em, cụ già. Đồng thời, tính nhân văn, nhân nghĩa, sự tử tế được bộc lộ và
phát huy cao độ. Những nghĩa cử đùm bọc lẫn nhau vừa tạo ra sức chống chịu

dẻo dai, vừa là nguồn động viên to lớn đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta,
tạo ra niềm tin to lớn đối với đồng bào ở xa Tổ quốc cũng như bạn bè quốc tế.
Với vị trí chiến lược ở khu vực, trong lịch sử của mình, Việt Nam ln đứng
trước các thách thức to lớn, cả địch họa lẫn thiên tai. Đặc điểm địa-chiến lược đó
cũng trui rèn cho dân tộc Việt Nam khả năng chống chịu, vượt mọi khó khăn,
thách thức để tồn tại và phát triển. Trong lĩnh vực phịng chống dịch bệnh, Việt
Nam cũng đã có kinh nghiệm xử lý thành công bệnh dịch chết người SAR năm
2003 cũng như các bệnh dịch như H1N1, MERS-CoV… Đặc điểm này giúp Việt
Nam có được sự ứng biến nhanh chóng, khả năng chịu đựng bền vững, sự vận
hành hệ thống quản trị một cách linh hoạt và hiệu quả.
PHÁT HUY TRONG CÔNG CUỘC PHÁT TRIỂN


22
Thành công trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 một mặt khẳng
định những giá trị trường tồn mang tính đặc thù của cách mạng Việt Nam, mặt
khác cũng khẳng định khả năng quản trị quốc gia của Đảng ta theo đúng các tiêu
chí của Liên hợp quốc, được vận dụng phù hợp với đặc thù đất nước. Đây là
những giá trị cần được phát huy trong giai đoạn phục hồi kinh tế hậu đại dịch,
đồng thời vẫn phải phòng ngừa cho làn sóng tái nhiễm như đã xảy ra ở một số
nước.
Trước hết, việc lãnh đạo toàn dân vượt qua thách thức tồn cầu chưa từng
có đã một lần nữa khẳng định vai trị lãnh đạo khơng thể thay thế của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trước nay có ý kiến cho
rằng, Đảng đã hoàn thành sứ mệnh trong các cuộc kháng chiến giành độc lập,
thống nhất đất nước, rằng Đảng không có khả năng lãnh đạo phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, thành tựu của hơn 35 năm đổi mới và thành cơng chống đại dịch vừa
qua khẳng định tầm nhìn, khả năng lãnh đạo, quản trị quốc gia của Đảng, chèo lái
đất nước đi qua khủng hoảng tài chính 1997, khủng hoảng kinh tế - tài chính 2008
và thách thức an ninh phi truyền thống chưa từng có là đại dịch COVID-19.

Với bản lĩnh, tầm nhìn và khả năng lãnh đạo được chứng minh bởi thực tiễn, và
đặc biệt là với mục tiêu bất biến tất cả vì lợi ích của nhân dân, Đảng đã giành trọn
niềm tin của nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên nền
tảng thành cơng hơm nay, nhân dân hồn tồn ủng hộ và tin tưởng vào việc
hướng tới mục tiêu 100 năm của Đảng và 100 năm nước Việt Nam mới. Đây là
ưu thế to lớn của Đảng ta và cũng là của đất nước ta, bởi lẽ đại dịch COVID19 đã cho thấy nhiều xã hội bị đứt gãy, niềm tin bị đổ vỡ, mối quan hệ giữa lãnh
đạo và nhân dân bị đổ vỡ.
Đồng thời, những nỗ lực của Việt Nam đã giành được sự công nhận, đánh
giá cao của thế giới. Đặt qua một bên những lời khen ngợi như “kỳ tích”, “khơng
thể ngờ”, “bài học q báu”, “hình mẫu”, chiến thắng đại dịch COVID-19 mang
lại cơ hội to lớn về quảng bá hình ảnh Việt Nam, nâng cao uy tín và vị thế đất
nước. Thế giới nhìn nhận Việt Nam với một thể chế ổn định, quản trị tốt, một nền


23
kinh tế có sức chịu đựng và ứng biến linh hoạt, một nền văn hóa nhân văn, một
đất nước tươi đẹp, an toàn, một dân tộc tử tế. Đại dịch COVID-19 có thể làm đứt
gãy các chuỗi giá trị tồn cầu, định hình lại tồn cầu hóa và liên kết kinh tế. song
những giá trị nói trên là bất biến và bất cứ đối tác nào cũng mong muốn làm bạn,
nhà đầu tư nào cũng cần đến để làm ăn lâu dài.
Đại dịch COVID-19 đã gây ra nhiều hệ lụy cho mọi mặt đời sống nhân
loại. Đáng chú ý, việc ứng phó với đại dịch đã cho thấy khả năng quản trị quốc
gia của nhiều nước trên thế giới. Lâu nay, các thế lực thù địch không ngừng
xuyên tạc về bản chất của chế độ ta, tính hiệu lực, hiệu quả của Đảng và Nhà
nước ta. Với thành công của Việt Nam trong cơng cuộc phịng, chống đại
dịch COVID-19, chúng ta đã chứng minh hùng hồn tính ưu việt của chế độ, khả
năng quản trị quốc gia tốt, bản lĩnh và khả năng ứng phó với thách thức của Đảng
và Nhà nước ta. Soi chiếu với các tiêu chí quản trị quốc gia tốt của Liên Hợp
Quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác, trong đại dịch COVID-19, Việt Nam khơng
những đáp ứng đầy đủ, mà cịn vận dụng một cách linh hoạt, hiệu quả, phù hợp

với đặc thù đất nước và thực tiễn dịch bệnh. Đặc biệt, những đặc điểm riêng có
của Việt Nam gồm sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống dân tộc và kinh nghiệm,
khả năng ứng phó thách thức là những yếu tố mang tính then chốt để Việt Nam
vượt qua thách thức toàn cầu chưa từng có. Thành cơng trong cuộc chiến phịng
chống đại dịch COVID-19 đã chứng tỏ cả về lý luận và thực tiễn rằng toàn Đảng,
toàn dân ta đang đi đúng hướng trong việc xây dựng chế độ XHCN mang đặc
điểm Việt Nam./.


24

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin / NXB:
Chính trị quốc gia năm 2009.



Giáo trình triết học Mác - Lê Nin của PGS.TS. Vũ Tình, NXB. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2003.



Triết học Mác ­ Lênin ­ Chương trình cao cấp (I,II,III)



Bài viết: Quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình
đổi mới của Đảng. / Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam / Tác giả:

PGS.TS Trần Văn Phòng.



Bài viết: Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực vào
nghiên cứu lý luận chính trị ở nước ta hiện nay. / Trang thông tin Viện hàn
lâm khoa học xã hội Việt Nam – Viện triết học / Tác giả: TS. Ngơ Đình
Xây.


25


Đào Minh Hồng - Lê Hồng Hiệp (chủ biên): Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ
Quốc tế, Khoa QHQT - Đại học KHXH&NV TP. Hồ Chí Minh,
TP. HCM, 2013.



Huther, Jeff, and Anwar Shah, “A Simple Measure of Good Governance”,
Policy Research Working Paper 1894 (1996), World Bank, Washington,
D.C( />528322_20041117142109/additional/multi-page.pdf).



Mai Linh: Chống dịch COVID-19 của Việt Nam qua con mắt người nước
ngồi, Tạp chí Quốc phịng Tồn dân, ngày 6/4/2020
( truy cập ngày 19/5/2020)



×